Vào Truyện

1.- Trăm năm một sợi chỉ hồng,

Buộc người tài-sắc vào trong khung trời.
Sự đời thử ngẫm mà chơi,
Tình-duyên hai chữ với người hay sao?
5.- Từng nghe trăng gió duyên nào,
Bể sâu là nghĩa, non cao là tình.
Người dung-hạnh, bậc tài-danh,
Nghìn thu để một mối tình làm gương.
Cõi Tô-châu, giải Ngô-giang,
10.- Khí thiêng đúc lại họ Lương một nhà.
Tướng-công chữ gọi Ấn-Ba,
Sang yêu sớm đã dự toà Bình-chương.
Gió thanh hây-hẩy gác vàng,
Thảnh-thơi chèo Phó, nhẹ-nhàng gánh Y.
15.- Họ Diêu rạng vẻ môn-mi,
Điềm lành sớm ứng lân-nhi một chàng.
Húy Phương-Châu, tự Diệc-Thương,
Phong-nghi khác giá, từ-chương tót loài.
Gấm hoa tài-mạo gồm hai,
20.- Đua chân nhảy phượng chen vai cỡi kình.
Gia-quan mới dạo nhà huỳnh,
Thú nhà hầu-hạ huyên-đình bấy lâu.
Song-hồ nấn-ná thôn dâu,
Thẻ rồng xuân điểm ngày thâu chìm-chìm.
25.- Lối thơm khi nhẹ gót tìm,
Mùi hoa như nước, tiếng chim ngỡ chào.
Sóng đào mảnh, mảnh hoa đào,
Hoa xuân lóng-lánh khác nào mặt xuân.
Hẹn phong-lưu để nợ-nần,
30.- Bạn song âu thẹn vũng tần đôi uyên.
Rộng chân thử dạo khơi miền,
Dẩy-dun may được như nguyền biết đâu!
Gửi qua khúm-núm dưới lầu,
Xin ra du-học Tràng-châu quê ngoài.
35.- Dạy rằng: "Hồ thỉ chí trai,
"Tìm thầy hỏi bạn chi hoài bỗng dưng.
"Vả từ quê Vị khơi chừng,
"Ngày sinh-nhật mợ, sang mừng cũng hay.
"Sẵn nơi trú ngụ đâu tày,
40.- "Tiện tra phả-hệ bấy nay cho tường.
"Rồi ra luyện-tập văn-chương,
"Cách nào rạng dấu thư-hương mặc lòng!"
Lĩnh lời sắp gánh giục đồng,
Thuyền lan một lá xuôi dòng thênh-thênh.
45.- Tà tà bóng ngả im doành,
Đầu doi bay lộ cuối ghềnh nổi âu.
Ca chèo gió lọt tiếng đâu,
Nhác trông đã thấy Tràng-châu ghé thuyền,
Nhà xuân vừa mở thọ-diên,
50.- Chén pha giếng cúc, bàn chen non đào.
Lạy bày mừng-rỡ xon-xao,
Lại truyền công-tử họ Diêu rước mừng.
Hàn-huyên cùng giải tưng-bừng,
Mới hay Diêu-cữu chuyển thăng Đô-đường.
55.- Bóng nghiêng chuốc chén tàng tàng,
Tiệc thôi Diêu mới đưa sang trú-phòng.
Anh em kề vế bày lòng,
Góp đem phong-nguyệt vào trong phẩm-đề.
Khói um mấy đỉnh hương-nghê,
60.- Chợt nghe tin gọi Diêu về thư-trai.
Đồng say, khách lạ, canh dài,
Một trăng, một bóng, một người hóa ba.
Ưa chân theo thú lân-la,
Ngậm trăng nửa nóc, phun hoa bốn hè.
65.- Tiêm cài, giá chất so le,
Vẽ niêm dấu cổ, thơ đề lối chân.
Cầm-giao sẵn dóng dây huân,
Nuôi tươi chậu-chậu, cắm xuân cành-cành.
Gương treo bóng lộn màu thanh,
70.- Trong hiên đã vậy, ngoài sanh mới càng.
Bức lan quanh-quất mặt tường,
Màu sen hơn-hởn, bóng dương rầu-rầu.
Ngòi thơm dợn nước làu-làu,
Rặng cây khuất-khuất, lưng cầu khom-khom.
75.- Thủy-đình ngả bóng om-om,
Rút đường khúc-kỉnh qua chòm tàng-xuân.
Đào thơm điểm điểm ngân-trần,
Sào ngư mường-tượng cắm gần đâu đây.
Nảy cành oanh động tiếng tiếng say,
80.- Mảnh hoa đâu đã tin bay qua tường.
Đường hoa lành-lạnh hơi sương,
Dừng chân hầu rắp nhận đường về trai.
Tiếng đâu gió lọt bên tai,
Đem thanh dường vẫn còn ai say cờ.
85.- Đè chừng rén bước thẩn-thơ,
Ít nhiều hương cụm, nhặt thưa bóng cành.
Mẫu đơn lộ mở con đình,
Xạ đâu đòi trận lọt mành phôi-pha.
Vừa cơn mây bợn trăng lòa,
90.- Mảnh tình gửi nét thu-ba đưa vào.
Cuộc tiên đôi ả má đào,
Riêng làn xiêm trắng đem vào mắt xanh.
Gió đông gờn-gợn sóng tình,
Dưới trăng lộng-lẫy một cành mẫu-đơn.
95.- Mặn-mà chìm cá rơi nhàn,
Nguyệt ghen gương khép, hoa hờn thắm thay.
Thiên-nhiên sẵn đúc dầy dầy,
Càng tươi-tỉnh nét, càng say-sưa tình.
Bụi trần chẳng bợn đỉnh-đinh,
100.- Dưới tùng trong quít âu đành là đây.
Gió đâu run-rủi duyên này,
Cả liều mật sắc vào ngay trước bàn.
Rèm tương động, thét tiếng hoàn,
Vẻ lan vừa chán, gót sen vội dời.
105.- Nhác trông chiều mỉm-mỉm cười,
Sóng dầm khóe hạnh, chưa rời nét trông.
Môi đào hé mặt phù-dung,
Xiêm in bóng tuyết sen lồng ngấn rêu.
Người về khuất kẻ trông theo,
110.- Xa mù lần khóa, vắng teo giọt lầu.
Tới phòng nặng quở con hầu:
"Đi đâu mà để người đâu xông càn",
Vân Hương trình gửi bên màn:
"Lòe mây nào ngỡ khách man sấn vời".
115.- Thái-cơ nghe nói đỡ lời:
"Tiệc vui ban tối khi chơi ngoại-đường,
"Nghe rằng công-tử họ Lương,
"Sang hầu, dạy ngụ tây-sương mái ngoài.
"Mới rồi hẳn nghỉ chẳng sai,
120.- "Hôm tăm tạm ngộ, biết ai đó mà!"
Hay tình, lẳng-lặng nghe qua,
Dạy đòi Bích Nguyệt truyền ra trước lầu:
"Băng chừng ấy chẳng ai đâu,
"con cờ còn đấy xem mau đem về".
125.- Vâng lời băng lối đình khuya,
Viện lan trông suốt dãy hòe lâm dâm.
Bóng sân trăng hãy còn cầm,
Nỉ-non van lá, âm-thầm trách hoa.
Nhở-nhơ giáng Nguyệt còn xa,
130.- Lét chừng sinh đã dần dà đến ngay:
"Tiên nào ban nãy xuống đây?
"Quyến hồn khôn, vía dạy này đi đâu?
"Nàng Hồng dù chẳng giúp nhau,
"Mái tây chi để bóng lầu xế trăng "?
135.- Nghe lời Bích nguyệt vùng-vằng:
"Ví đâu ví lạ-lùng chăng cho đời!
"Đào trên mây, hạnh trên trời,
"Nghĩ chi cho nát dạ người như tươm!
"Cắt phiền phó hẳn con gươm,
140.- "Thôi đừng muộn đắp sầu đơm khó lòng,
Sinh rằng: "Động khóa nguồn phong"
"Dám đâu hỏi bế thăm dòng xôn-xao!
"Nghĩ rằng khi trở gót vào,
"Một cười xem ý biết bao xa gần.
145.- "Riêng ai tính vẩn toan vần,
"Người tiên khi bợn kiếp trần mà hay".
Nguyệt rằng: "Mê-mẩn xinh thay!
"Cười chăng cười nỗi thày-lay dại càn.
"Tác mây đâu bợ gương Hàn,
150.- "Trăng hoa phải sự nên bàn mà chơi".
Vùng-vằng miệng nói, chân dời,
Vườn khuya mặc đó, một người đứng trơ!
Ngân tà, trăng nhạt, sao thưa,
Dở-dang lẽ ở, thẩn-thơ lẽ về.
155.- Đỉnh trầm thoang-thoảng gió khuya,
Chập-chờn cơn tỉnh cơn mê trước đình.
Bỗng dưng vướng lấy tơ-tình!
Này đồ vườn Lãng, này tranh non Bồng.
"Người sao ngọc đúc tuyết đông,
160.- "Vẻ sao giá chuốt, gương trong, hỡi người!
"Chớ chê dạ khách tơi bời,
"Tượng sành âu cũng rụng rời chân tay!
"Xiêm huyền chưa dễ ai tày,
"Huyền kia đã lịch, bạch này lại thanh.
165.- "Thợ trời dù hẳn vô tình,
"Làm chi đem giống khuynh thành trêu ai?"
Tình dài dễ ngắn canh dài,
Tiếng điêu điểm trót, hiên cài bóng đông.
Thỉnh an vào trước nhà trong,
170.- Phu-nhân thấy khác hình-dung vỗ-về.
Rằng: "Đây quán hẹp chớ nề,
"Để cưu dạ khách lòng quê kẻo thì...
"Mặt sau sẵn thú viên-trì,
"Liền song sang đó, dù khi đỡ buồn.
175.- "Gọi là thủng-thỉnh điền thôn,
"Hồ sơn cũng giúp cầm tôn khi rồi".
Được lời sinh vội uốn lời:
"Dạo trăng ban tối, lạc vời bước sang.
"Bầu trời riêng chiếm phong-quang,
180.- "Cảnh nhường quyến khách, khách nhường quên xa.
"Ngại chăng động tiếng đàn-bà,
"Thâm nghiêm chi để xông-pha người ngoài ".
Dạy rằng: "Họ ấy chẳng ai,
"Đến chơi ngày vía, rồi mai cũng về".
185.- Được lời rón-rén tỉ-tê:
"Những ai hơi-hướng, những bề gần xa?"
Mỉm cười rồi mới dạy qua:
"Đêm xưa chơi đó, họ nhà đôi chi.
"Một người bề gọi là dì,
190.- "Thái cơ họ Mã trăng kỳ tròn khuyên.
"Ấy người dủ bức xiêm huyền,
"Với em đây, rắp kết duyên Việt, Hồ.
"Một người bề gọi là cô,
"Con quan Dương-tướng, Tham-đô tỉnh này.
195.- "Giao Tiên đồn khắp châu đây,
"Tuổi chừng đôi tám, xuân nay chưa nhiều.
"Viện thơ, khung dệt, màn thêu,
"Chữ đề thiếp tuyết cầm treo phả đồng.
"Chiều thanh vẻ lịch càng nồng,
200.- "thuyền-quyên đương mặt, anh-hùng nát gan".
Lặng nghe riêng những bàng-hoàng,
Trước bình đứng sững, bên bàn ngồi quên.
Rõ tình lại mở lời khuyên:
"Quyển vàng còn đó là duyên má đào.
205.- "Cánh hồng hãy gắng bay cao,
"Tự-nhiên chỉ dắt, tơ trao lọ là!".
Tạ tình vừa xuống thềm hoa,
Diêu-sinh vừa gặp rủ ra thư-phòng.
Lưu-liên khi lại huỳnh-song,
210.- Gương nga đã gác non đông nửa vừng.
Bếp tình riêng để bập-bừng,
Vườn thơm thoát lại đè chừng lần ra.
Chiếc đình gió lọt sương pha,
Xạ phai trận rước, sen lòa dấu in.
215.- Tấc gang gác khóa lầu then,
Bồng-sơn rằng cách muôn nghìn chẳng sai!
Chập-chờn bóng nguyệt trêu ai!
Hoa đâu rụng, lá đâu rơi trước rèm?
Kêu sương tiếng nhạn lay thềm,
220.- Mảnh thư đưa đến cung thiềm được không?
"Phụng-cầu" dù lựa nên cung,
Ngón cầm biết gảy được lòng hay chăng?
Xe duyên hẳn phải xích-thằng,
Thì xin xem sổ dưới trăng kẻo còn.
225.- Lại song, sầu bể, sầu non,
Nào hay là khách Đào-nguyên đã về.
Mình gieo vào chốn phòng the,
Lũ hoàn tấp-nập mở thìa đẩy song.
Trướng bình kẻ cuốn người phong,
230.- Kẻ bao gương giá, người xông hương màn.
Người đài nước, kẻ lò than,
Kẻ lồng đệm thúy, người dàn chiếu hoa,
Yên xong ai nấy trình qua:
"Trải xem cảnh-trí Diêu-gia nhường nào?

Chú thích:

    Trăm năm: bởi chữ bách tuế (trăm tuổi); một đời người
    chỉ hồng
    : bởi chữ xích thằng. Điển Vi-Cố đêm đi chơi gặp ông già ngồi xem sách dưới trăng, tay cầm dây tơ đỏ. Hỏi ông, đáp rằng: Sách để chép tuổi, dây tơ để buộc duyên phận. Những ai đã có tên ghi vào sách này thời dù người thù hay ở nước khác cũng phải lấy nhau.
    dung-hạnh
    : người có dung nhan đẹp và có tính hạnh tốt. Tài danh: người có tài và có danh.
    Khí thiêng
    : là linh thiêng tinh-tú của non sông ung đúc sinh ra người quí.
    Bình-chương
    : tức là Tể-tướng.
    gác vàng
    : gác sơn màu vàng, nơi công-thự của quan tể-tướng.
    Phó, Y
    : Phó Duyệt, một vị tể-tướng giỏi đời Ân. Y: Y-Doãn, một vị hiền-tướng đời Thương.
    môn-mi
    : bảng treo trên của để chỉ sự sang quí của các nhà thế gia.
    lân-nhi
    : lân con, chỉ sự quí báu.
    nhảy phượng, cỡi kình
    : nhảy cao như phụng bay. Cỡi Kình: cỡi cá kình. Ý nói có tài học cao.
    Gia-quan
    : lễ đội mão. Con trai 20 tuổi gọi là gia-quan.
    nhà huỳnh
    : nhà học.
    huyên-đình
    : nợi mẹ ở.
    thôn dâu
    : làng trồng dâu. Cây dâu dùng để nuôi tằm, nên thường hay trồng trong làng của cha mẹ ở - nên phải kính trọng.
    Thẻ rồng
    : xưa dùng cái chậu đồng chạm hình rồng, dùi lỗ cho nước dỏ. Trong chậu có khắc từng khoảnh. Mỗi khi nước dỏ lưng đ61n khoảnh nào thì bỏ một cái thẻ để đếm khác và giờ trong ngày đêm.
    đôi uyên
    : chim uyên ương, thường sống có đôi.
    doành
    : vũng nước bao la.
    lộ, âu
    : con cò trắng. Âu: một loài chim bể, chim sông.
    giếng cúc
    : Cúc tỉnh. Sách Phong-tục-thông chép ở huyện Ly, đất Nam-dương có suối Cam-cốc có nước trong và ngon, trên núi lại có lắm cúc. Nước suối Cam-cốc thấm chảy quanh vùng ấy. Người được uống nước ấy được sống lâu nên có danh lá cúc tỉnh.
    non đào
    : sách Liêt-tiên tryuện chép ở huyên Nga-My, tỉnh tứ-Xuyên có núi My-sơn có lắm cây đào, ăn qủa được sống lâu và thành tiên.
    Hàn-huyên
    : lạnh ấm, cũng như hàn ôn.
    Tiêm, giá
    : là cái thẻ viết tên bộ sách để tiện việc khi tìm. Giá: tủ để sách.
    chân
    : một lối chữ viết. theo lối chữ thực trái với lối chữ viết thảo là lối chữ viết nhanh.
    Cầm-giao
    : cây đàn khảm ngọc giao.
    ngư
    : người chài cá.
    Mẫu đơn
    : một thứ hoa chỉ nước Tàu mới có. Có bốn sắc: trắng, vàng, tím, đỏ.
    Xạ
    : một thứ hương rất thơm dùng để ướp áo và làm thuốc.
    thu-ba
    : sóng mùa thu. Mùa thu thường có nhiều nước ở các ao, hồ, sông, lạch, nên làm tăng thêm vẻ đẹp cho phong cảnh. Con mắt mỹ nhân thường ướt và và sắc-sảo nên ví với nước mùa thu. mắt xanh: do chữ thanh nhản. Ông Nguyễn-Tịch đời Tấn mỗi khi đối với người vừa ý thí ông ngó ngay, con mắt thấy tròng đen, tức là mắt xanh.
    chìm cá rơi nhàn
    : do chữ "trầm ngư lạc nhạn". Đẹp đến nỗi cá thấy phải chui vào chỗ sâu, chim thấy phải bay cao.
    mật sắc
    : do chữ sắc đảm, ý nói người bạo-dạn, to gan.
    Nàng Hồng
    : Hồng là nữ tỳ của Tôi Oanh Oanh, người đưa tin tức và làm mai mối giữa Trương-quân-Thụy và Thôi Oanh Oanh trong truyện Mái Tây (Tây sương ký).
    Đào trên mây, hạnh trên trời
    : ý nói hai thứ ấy sang quí và cao xa quá.
    Động khóa nguồn phong
    : khoá của động, đóng nẻo nguồn, không để cho ai được vào.
    Hàn
    : Quảng Hàn cung: cung điện trên mặt trăng.
    Ngân
    : là bạc, tiếng nói tắt của chữ Ngân hà, Ngân hán, Ngân hòang. Ban đêm ta thấy một làn sao nhỏ xa trông như một vệt bạc trắng giữa lưng trời.
    Lãng
    :tức là Lãng-uyển: vườn của tiên chơi.Bồng, tức Bồng-lai, tên một hòn đào của tiên ở ngoài bể.
    Thợ trời
    :bởi chữ Hóa-công. Bài phú của Gỉa Nghị có câu: Thiên địa vi lô, tạo hóa vi công: nghĩa: trời đất làm cái lò, đấng tạo-hóa làm thợ, do đó mà người ta dùng chữ thợ trời.
    điêu
    :xưa đi đánh giặc thường dùng cái chiêng đồng để thúc giục quân-sĩ. Chiêng ấy đựng được một đấu gạo, nên cũng dùng để nấu cơm nên gọi là Điêu-đẩu.
    tuyết
    :là tên ông triệu mạnh Phủ hiệu là Tùng Tuyết đạo-nhân, người Tống, có tài viết chữ rất đẹp, có thiếp chữ của ông ấy truyền ở đời.
    đồng
    :tức là cây Ngô-đồng nggười ta dùng làm mặt đàn, tiếng kêu trong và dài. Phả đồng: là bản đàn chép thành phả, túc là sách dạy đàn.
    má đào
    :người con gái đẹp như hoa đào,
    Cánh hồng
    :do chữ Hồng-đoàn hay Hồng-phi:chim Hồng bay thường cao hơn các loài chim, ví người có tài cao học rộng.
    chỉ dắt, tơ trao
    :lấy tích ông Trương gia Chân đời Đường có 5 người con gái, muốn gả một người cho Quách nguyên Chân. Ông bảo 5 người con ở trong màn thêu cầm mỗi người một sợi chỉ sắc khác nhau, rồi bảo Quách nguyên Chân đúng ngoài màn chọn một sợi.Chân chọn sợi chỉ màu hồng, quả được cô gái đẹp mà Chân dã để ý.
    huỳnh-song
    :cửa sổ con đom đóm. Bởi điển Trác Dận, nhà nghèo, bắt đom đóm bọc trong giấy thế đèn mà học đêm.
    Gương nga
    :bóng trăng. Nghĩa bóng cái gương của Hằng Nga,
    cung thiềm
    :thiềm là con cóc; cung là cung điện. Nghĩa bóng là mặt trăng. Mặt trăng có những chữ cung thiềm, cung quế, cung hằng, gương nga, bóng thỏ.
    Phụng-cầu
    :tức Phụng-cầu-hoàng: một kúc đàn rất hay. Tư-mã Tương Như đàn khúc ấy, nàng Trác văn Quân phải bỏ nhà mà theo.
    đài
    :là cái đế cao để lót cái chén nước.
    đệm thúy
    :đệm thêu bằng lông chim phỉ-thuý, có sắc lục non tươi pha lẫn mùi xanh đậm.