(Các dân tộc miền núi Nam Đông Dương)
Phần V
Người Stiêng đi săn

- trong một xứ sở thú săn phong phú như rừng núi Stiêng, đương nhiên người dân tận dụng nó cho bếp ăn của mình. Người Stiêng chẳng hề từ; chẳng ngại nhọc nhằn trong chuyện này, họ giành phần lớn thời gian của mình để đi săn và đánh cá.
Họ chẳng hề có vũ khí hiện đại, nhưng sự khéo léo và tài năng của họ bù đắp cho họ nhiều đến mức không một người đi săn châu Âu nào có thể thi tài săn bắn nổi với anh chàng Stiêng mưu mẹo chỉ có mỗi cái ná. Cái ná này là vật quý nhất của họ, cho nên họ giành cho công việc chế tạo nó một sự chăm sóc thật chu đáo. Ðể làm ná, họ chọn lấy thứ gỗ vàng, cứng và đàn hồi mà họ nạo rất lâu, rồi sấy khô nhiều tháng trên giàn bếp. Cuối cùng họ phủ cho nó một màu gỗ anh đào rất đẹp, đánh bóng, chà xát. Nếu người Stiêng may mắn giết được một con thú trong lần đi săn đầu tiên với chiếc ná mới của mình, anh ta sẽ lấy lông và máu con thú trang trí lên đầu ná "Söna sa pai mat"("ná ăn nhiều thịt") anh ta bảo vậy.
Ðôi khi người Stiêng tẩm độc các mũi tên của mình; chất độc được dùng là nhựa một loại cây lớn có vỏ trắng. Họ chém một số nhát trên thân cây, hứng lấy nhựa trong một ống tre, và sau khi nấu rất lâu, tạo ra được một thứ thuốc dẻo ít ngày sau sẽ cứng lại. Chất thuốc độc có thể sử dụng nhiều lần này sau nhiều năm vẫn giữ nguyên hiệu lực. Nó vô hại đối người ăn thịt con thú bị bắn, với điều kiện phải nhanh chóng khoét tách thịt quanh chỗ vết thương ra.
Ná cầm tay, tên đựng trong một cái bao bằng tre, người thợ săn lên đường đi tìm con mồi. Khi vừa thoáng nhìn thấy hay nghe thấy nó từ xa, anh lắng nghe gió để nhận ra phương hướng, vì kinh nghiệm lâu dài đã dạy cho anh rằng chỉ có thể đến gần con vật băng cách đi dưới gió. Nếu không có gió có thể nhận ra được, thì ngọn khói thuốc của anh sẽ khẳng định sự nghi ngờ của anh, hoặc nữa anh lấy con dao cạo nhẹ vào móng tay cho rơi xuống một chút bụi nhẹ mà độ chếch khi rơi xuống sẽ cho anh biết hướng gió. Sau tất cả những thận trọng đó, anh từ từ tiến lên từ lùm cây này sang lùm cây khác để tránh đánh động các giác quan của con vật đa nghi, mắt vẫn không lúc nào rời nó. Khi con vật vừa cúi xuống gặm cỏ, anh tiến lên một hay hai bước; nó ngẩng đầu lên để nhai, anh liền thụp đầu xuống tránh; khi nó bứt mấy cái lá cây gây một ít tiếng động, anh liền lợi dụng để tiến đến mỗi lúc một gần hơn. Kẻ này làm việc, thì kẻ kia nghỉ.
Bằng các chiến thuật đó, người thợ săn Stiêng tiến đến cách con vật mươi bước chân; anh chỉ bắn khi chắc ăn. Anh đuổi theo con vật bị thương hết sức nhanh. Máu đổ ra dẫn dường cho anh và cho anh biết tình trạng nặng nhẹ của vết thương. Mọi con vật, nhất là voi, khi bị trúng tên thuốc độc, luôn chạy về phía có nước, ao hồ hay sông. Ðấy là nơi nó đổ xuống nếu thuốc độc đủ mạnh và mũi tên đâm sâu. Ðôi khi mũi tên đâm trúng một bộ phận hiểm yếu và con vật gục ngay tại chỗ; người thợ săn chỉ còn việc kết liễu nó bằng chiếc xà-gạc, mà anh ta dùng để mổ thịt nó tại chỗ. Nếu con vật chỉ bị thương nhẹ, chạy được sâu vào trong một lùm cây, người thợ săn có nguy cơ mất hút con mồi, khi đó anh sẽ quay lại sau với đàn chó của mình để tìm dấu. Giống chó mọi, rất giỏi săn, thường được dùng để dồn con mồi. Khi người Stiêng đốt các lớp cỏ cao trong núi, bọn nai chạy tứ tung; đám chó đuổi theo và tìm cách dồn chúng xuống thung lũng nơi người ta đã đón sẵn; con vật bị săn đuổi, theo bản năng đâm bổ xuống nước và rơi vào tay những người thợ săn trang bị xà-gạc.
Chỉ với cái xà-gạc đơn giản của mình, người Stiêng chẳng hề sợ đi tấn công một con bò rừng cô độc to tướng; không hiếm khi thấy họ cắt cổ nó và trở về nhà với tảng thịt trên vai. Người Stiêng lướt qua các bụi rậm và các đám cỏ cao giống như những con rắn mà họ đã quan sát kỹ kỹ thuật; nếu cần họ bò đi rất lâu, và đến thật gần, họ giang tay phang cho con vật một vố mãnh liệt bằng cái công cụ-vũ khí của họ và chặt đứt một kheo chân của nó. Con bò rừng nhảy lồng lên dữ tợn và tiêu tốn sức lực trong một cuộc tẩu thoát vô vọng trên ba chân. Người thợ săn, mỗi lúc càng thêm hăng, bám sát con vật đang chạy trốn không cho nó được một giây ngừng nghỉ; anh lợi dụng lúc thuận lợi, chém tiếp kheo chân khác của nó. Bây giờ thì con vật đã thuộc về anh ta; mặc cho nó quỵ xuống trên hai chân trước, ngửng cao đầu, dáng đe dọa, phì những luồng hơi ra hai lỗ mũi, nó đành phải gục xuống. Anh chàng Stiêng chiến thắng chọc tiết nó, thui luôn, chén một bữa ngon tại chỗ và trở về nhà, tiếp tế cho người thân và báo tin vui cho cả làng.
Con mồi hạ được trong săn bắn bao giờ cũng tốn nhiều mồ hôi mệt nhọc hơn, còn con mồi bắt được bằng bẫy cũng chẳng kém ngon nên chẳng kém giá trị.Trong kiểu đi săn thứ hai này, người Stiêng cũng khéo léo như trong kiểu thứ nhất.
Loại bẫy thông thường nhất là một chiếc dáo dấu kín trong một bụi rậm và gắn vào đầu một cành cây lực lưỡng uốn cong được giữ bằng một cái cò vừa chắc vừa nhẹ. Một con thú nhỏ nhất, chạm phải cái cò, đủ làm cho chiếc dáo phóng vụt ra và đâm một phát khủng khiếp. Một sợi dây rừng nhỏ được buộc một đầu vào cái cò, đầu kia vào một cái cọc. Sợi dây rừng sẽ làm cho chiếc dáo phóng ra đó, được giăng ngang toàn bộ mặt đường, ngang tầm thân con vật định đánh. Nai, lợn rừng đi qua đó không thể không chạm vào sợi dây tử thần kia và ngọn dáo bao giờ cũng đâm xuyên vai nó.
Một loại bẫy khác tương tự được dùng để bắt loại thú bốn chân chuyên leo trèo; nó được ghép vào thân cây ngang tầm người đứng; một miếng gỗ đặt nghiêng, từ dưới đất lên cây, dùng làm một chiếc thang đánh lừa. Ở đầu cái thang ấy là một sợi mây có một nút thòng lọng. Trên chiếc nút ấy có một cái que nhỏ đặt ngang dùng để giữ cái cò của bẫy. Khi cò lật, nút thòng lọng sẽ siết cổ con vật, vì miếng gỗ nặng dùng làm thang kéo mạnh nó xuống phía dưới.
Ở vùng người Stiêng còn có một loại bẫy khác, kỳ lạ nhất trong các loại bẫy ta có thể gặp. Trong xứ sở hoang dã này, thường có nhiều khu rừng thưa; ở đây, trên hàng chục cây số, người Stiêng bố trí một rào ngăn gồm một loạt những chiếc bẫy mang những khối đá nặng sẽ đổ xuống khi chạm vào cả một hệ thống đòn bẫy phức tạp. Người thợ săn chỉ cần ngồi đợi sẵn trên cây, chờ cho con vật chạm bẫy sẽ bị đè nát.
Sau mùa thu hoạch, khi các mang cung không còn bẫy được thú nữa, và vào cuối mùa khô, khi các loài thú hoang đi tìm một ít cỏ non hay một ngụm nước, người Stiêng vẫn còn tiếp tục đi săn, nhưng bây giờ là bên các ao hồ; đây cũng là thời kỳ bắt đầu công việc đánh cá.
Khi mặt trời vừa lặn, tất cả các loài thú ở quanh đều chạy về các nơi có nước. Trâu thích uống nước và đầm mình; bò, nai, lợn rừng lẫn lộn ở đây. Không đủ chỗ cho tất cả, chúng đánh nhau, những con yếu hơn phải rút lui rồi trở lại. Người Stiêng ngồi nấp trên một cây nhỏ; anh ta bắn con vật nào anh ta có thể. Nhưng, thông thường, hổ cũng rình mồi cho phần nó. Nên đã có lần một người bắn được một con thỏ, sắp đưa tay nắm lấy, bỗng kinh ngạc thấy một con báo cũng rình chính con vật đó, nhảy chồm ra và củm mất con mồi trong chân anh ta.
Dù các ao nước năm nào cũng bị khô cạn, đến mức chỉ còn một mặt đáy nứt nẻ, chúng vẫn còn giữ được một số lượng nhất định những con cá nhỏ hằng năm lại tạo ra thế hệ mới. Người Stiêng cho rằng trứng cá được lưu giữ trong đất.
Ðến giữa mùa mưa, khi các vùng bằng ngập đầy nước, ta thấy từng bầy những con cá to tướng, có khi nặng đến cả trăm kilô, theo các dòng sông kéo lên. Người Stiêng, trang bị những chiếc giáo bằng tre, đắp những con đập để ngăn không cho cá quay xuống, rồi đuổi theo đâm chúng bằng giáo. Một ngày, một đôi bò vất vả lắm mới kéo nổi hai mươi lăm con cá như vậy.
Những sản phẩm săn bắn và đánh cá đó là món ăn cần thiết, những ngày đói kém, khi thiếu gạo. Nếu cuộc săn buổi sáng không có kết quả, thì buổi chiều lại phải ra đi ngay để có bữa ăn tối; ngày hôm sau lại lên đường; cứ thế, suốt nhiều tháng. Bắt được hai hay ba con nòng nọc mỗi ngày chẳng hề làm cho kẻ đang đói nản lòng. Khi cần, mãi đêm người ta mới về; và nếu chỉ bắt được mỗi con cá, thì đó sẽ là phần giành cho đứa con.
Người Mạ dệt vải và trao đổi - Vùng đất của tộc người Mạ rộng mênh mông, nhưng mật độ dân số thấp, vì mỗi làng chỉ có đôi ba căn nhà. Về mặt thể chất, người Mạ là những người Tây Nguyên "nguyên gốc"; có thể nhận ra họ qua hàng nghìn dấu hiệu khác biệt của tộc người họ: những khúc ngà voi to tướng đeo trên các dái tai căng ra, những chiếc ống điếu kếch xù, răng cưa đến lợi (việc làm rất đau đớn, nhưng không bắt buộc; khi người ta tự hào là người Mạ, người ta sẵn sàng chịu đựng). Ðàn ông búi tóc như đàn bà; một chiếc lược bằng sừng trâu, nạm chì, cài trên mái tóc, khiến người đàn bà thêm có chút gì đó gợi nét Tây Ban Nha. Cũng như vây, có thể nhận ra ở người Mạ một tinh thần đẳng cấp rất riêng biệt. Từ cuối vùng Êđê cho đến đường 20, họ họp thành một nhóm người vừa phân tán vừa thống nhất, trong khi đó, chẳng hạn ở người Srê không hề có đơn vị cao hơn làng. Họ tỏ ra thận trọng hơn đối với người lạ. Họ tỏ ra kiêu hãnh và không muốn chịu khất phục [1] ; ý kiến của họ kiên quyết và họ bày tỏ ra một cách liến thoắng. Tinh thần đoàn giới của họ không khiến họ không tỏ ra hung dữ với nhau; nhưng người ôn hòa nhất trong số họ bảo rằng nếu không có người da trắng, họ sẽ chém giết nhau.
Người Mạ khá khéo léo trong nghề rèn; họ tạo ra một loại sắt độc đáo. Trong khi chiếc xà gạc của hầu hết các tộc người khác có dạng hình thang, chế tác đơn giản và giống nhau, hình dáng xà gạc của người Mạ có hai mấu bén và nhọn ở hai đầu.
Người Mạ đặc biệt giỏi nghề dệt; trong nghề này, họ là bậc thầy và hàng hóa của họ là của hiếm trên thị trường Tây Nguyên. Ðàn bà dệt, còn đàn ông đi bán.
Người Mạ chỉ trồng lúa rẫy trên những đám rẫy mênh mông, ở đó họ còn trồng bông cùng với lúa. Và bông là món sinh lợi lớn hơn của họ Khi bông đã chín, họ hái về nhà, trải ra trên những chiếc nong lớn. Công việc của những người đàn bà bắt đầu; đó là một công việc lâu dài, rất lâu dài, trước khi làm ra được tấm chăn đẹp.
Khi rẫy không cần phải chăm sóc nữa, cây lúa đã đủ khỏe để tự phát triển hay khi cả nhà đã suốt lúa xong, tất cả đàn bà trong nhà đều lao vào việc làm bông, trong khi đàn ông lo cái ăn bằng các sản phẩm đánh cá ở sông Daa Dông, rất nhiều cá to.
Cũng giống như ở mọi nơi khác, bông hái từ rẫy về trước hết được kéo thành sợi. Ðàn bà và con gái dùng những chiếc xa và những chiếc guồng giống như những người thợ thủ công ở ta ngày xưa. Sợi vải gồm nhiều tao xoắn vào nhau, khiến cho vải dệt ra dày khít, chắc, ấm và không thấm nước.
Người ta dùng bông trắng là màu nguyên chất của nó hoặc nhuộm màu để làm tấm chăn cho phụ nữ hay các hình trang trí cho các tấm chăn và quần áo của đàn ông. Người Mạ biết tất cả các màu nhuộm chính: đen, xanh (có hai sắc độ) và đỏ. Các chất nhuộm đều là thực vật, bằng lá được giã ra hay vỏ cây nghiền nát và ngâm. Bông được nhúng vào chất nhuộm giữ được màu rất bền; nó chịu được giặt nhưng có hơi phai khi phơi nắng.
Sợi bông đã được nhuộm và phơi khô, là lúc bắt đầu một lao động kiên nhẫn tuyệt vời. Các cô gái nhỏ chuẩn bị mắc canh vải bằng cách thoạt tiên giăng sợi theo chiều rộng nhất của tấm dệt quanh những chiếc cọc cắm dưới đất. Những ngón tay khéo léo và nhỏ nhắn của các cô bé cứ chạy vòng quanh các cây cọc đó, dắt những sợi chỉ trắng, xanh hay đỏ; mười sợi trắng, một sợi xanh, ba sợi đỏ, v.v. Cái nắng chói chang, chiếu long lanh trên những chiếc lưng trần và bóng loáng cúi xuống căm cụi, khiến những sợi bông còn tinh khiết càng sáng ánh lên.
Công việc giăng sợi canh đó phải mất nhiều ngày. Khi đã đạt được độ cao theo ý muốn, nó được lấy ra khỏi các cọc và đặt lên khung cửi gồm hai mảnh ván cố định hai mút đầu của chiều rộng nhất. Công việc lúc này được tiếp tục trong nhà, ở một nơi giành riêng trong nhà sàn; Người ta bảo: "Phải làm thế thì vải mới tốt"; phải van nài lâu lắm người đàn bà Mạ mới chịu đưa khung cửi của mình ra cho người lạ xem.
Công việc dệt thực thụ được tiến hành trên chiếc khung cửi này: người đàn bà luồn con thoi qua các sợi canh song song đã được mắc hoàn chỉnh, đưa sợi ngang đan theo chiều hẹp của tấm vải. Việc đan từng sợi này được làm bằng tay. Ở đây nữa bộc lộ nghệ thuật của người thợ dệt làm cho các hình trang trí hiện lên trên tấm vải bằng cách chơi với các sợi màu, lúc đưa lên lúc cho lặn xuống. Từ những sợi chỉ khó xác định đan lẫn vào nhau, bà tạo nên một tấm dệt bền chắc, được trang trí đầy thẩm mỹ và trang nhã. Mắt mỏi đi khi dõi theo các hình vẽ cứ hình thành lên; các ngón tay mỏi tê khi đưa các sợi chỉ dồn vào nhau và đan chéo nhau. Một chiếc thước dài bằng gỗ được dùng để dồn chặt sợi ngang mỗi khi một đường sợi vừa xong.
Mỗi ngày tấm dệt thêm được vài xăng-ti-mét; một tấm chăn lớn phải mất hai tháng lao động. Người khách lạ mặc cả với một gia đình sống chủ yếu bằng món thu nghèo hèn này có biết cái giá của nó chỉ bằng một đồng công nhật khốn khổ? Người Tây Nguyên trả đắt giá hơn: một tấm chăn lớn màu trắng thông thường giá bằng một con trâu cái hay một chiếc ché cổ.
Một số làng hay một số vùng người Mạ có đặc sản vải bông riêng của mình: nơi này chuyên sản xuất áo choàng, nơi khác chuyên dệt chăn màu xanh; việc chuyên làm một loại sản phẩm riêng nào đó ở một vùng nào đó là "phong tục đã có từ ngàn xưa". Người Mạ phía Bắc, đến tận cuối vùng người Êđê, nổi tiếng trong nhiều tộc người; họ làm những chiếc chăn xanh, có hoa văn cực kỳ tinh tế, dùng để làm váy cho phụ nữ và làm khố thêu cho đàn ông, có những túp bông màu đỏ trang trí, là niềm tự hào của nhiều vị thủ lĩnh. Họ cũng dệt loại ao krok, một loại áo mặc trong truyền thống của người Tây Nguyên có hai đường khâu, không tay, thêu xanh và đỏ, hay đen và đỏ.
Những người ở cạnh đường 20 là chuyên gia dệt những tấm chăn lớn màu trắng, thêu xanh và đỏ, thường gồm hai tấm khâu chung lại với nhau. Họ cũng biết kỹ thuật dệt áo ao krok.
Những người Mạ sống cô lập, như những người ở Tömong, trong xứ người Raglai, cũng làm bông; đấy là truyền thống lâu đời của tộc người. Nhưng vải của họ thô hơn; vả chăng họ chỉ làm những tấm chăn tuyền một màu trắng và những chiếc áo mặc trong không có hoa văn. Trong khi những người Mạ nói trên sản xuất đại trà để bán, thì những người này chỉ dệt để dùng cho mình.
Việc làm rẫy rất bấp bênh, người Mạ thiếu gạo, phải sống bằng nghề dệt để trao đổi. Công việc trao đổi được tiến hành hoặc với người Việt ở chợ Di Linh, Blao hay Ðà Lạt, hoặc với người Tây Nguyên ở các tộc người khác, đặc biệt với những người sản xuất lúa gạo. Khi những người đàn bà đã hoàn tất công việc vất vả của mình, đàn ông mang vải trong những chiếc gùi, thường giấu những tấm đẹp nhất xuống dưới, để chỉ giới thiệu trước những thứ hàng kém phẩm chất hơn. Ðôi khi một vài người đàn bà đi theo những cuộc buôn bán đó. Nếu người Mạ cần muối và cá, họ sẽ đi bán chăn của mình cho người Việt, những người Việt này lại đem bán lại cho những người Tây Nguyên khác đến mua ở các cửa hàng của họ. Chợ Blao tập họp sản phẩm của các làng ở cạnh con đường lớn; chợ Di Linh thì ăn hàng của các làng ở Daa Dông; chợ Ðà Lạt thu hút người Mạ-Ja ở chân núi Liang Biang.
Nhưng cảnh tượng hấp dẫn nhất đối với các nhà dân tộc học, cũng như với nhà tâm lý học, là cảnh người Mạ kéo đi hàng đoàn mang sản vật vải bông của mình đi đổi lấy trâu và ché, xa đến mười hay mười hai "đêm đường". Lúc ấy là từng hàng vài chục người, mang những chiếc gùi lớn chất đầy thức ăn - và những tấm chăn đẹp ở bên dưới - lên đường và sẵn sàng đi mãi cho đến khi tìm được món lãi mong muốn ở các tộc người làng giềng. Khi thấy một ngôi làng, bên một dòng suối, họ đặt gùi xuống đất, nghỉ ngơi, tắm rửa, hút thuốc trong chiếc ống điếu to sù. Ðoàn người đã được dân làng trông thấy; những người thích chăn là những người đầu tiên đổ ra gặp những người "du khách buôn bán" này; việc mặc cả bắt đầu trên khoảnh đất bỏ không và bằng những lời lẽ mơ hồ. Khi sự vụ đã bắt đầu rõ ràng, những người Mạ được mời vào trong làng; ở đấy họ tìm được thức ăn và nơi trú chân; một ché rượu ngon sẽ thu xếp những điều kiện mở đầu. Bấy giờ người Mạ mới quyết định đưa hàng của họ ra; thông thạo phong tục và biết cách nhận những tấm chăn có giá trị, những người già làng sục ngay vào đáy gùi. Người Mạ xem xét chiếc ché được đề nghị đổi; họ lật đi lật lại bên này bên kia và nhận ra rất nhanh nó có đúng là loại cổ, tiếng vang có tốt, màu sắc có thật không, tai ché có đúng kiểu thời bấy giờ không; họ cũng thạo việc đánh giá một con trâu, buổi chiều, khi trâu được lùa về.
Trong khi đó, các bà và các cô gái nhỏ cứ mê mẩn đi vì những tấm chăn đẹp, đã coi như là tài sản của họ và thúc dục việc mua bán, mà vẫn bảo vệ lợi ích của gia đình, trong nhiều tộc người chính họ là người giữ tay hòm chìa khóa. Cuộc mặc cả sôi nổi, chủ yếu là về nguyên tắc, bởi vì ít khi người ta tìm đánh đánh lừa về chất lượng của món hàng trao đổi: "trong chỗ bạn bè, không ai ăn cắp lẫn nhau". Chiếc ché được nhìn nhận là đúng hiệu, cách dệt tấm chăn được tán thưởng, việc mua bán đã xong, được ghi nhận bằng một ché rượu.
Bấy giờ người Mạ ra đi, tiếp tục cuộc hành trình của mình, dường như không hề nghĩ rằng đường về mỗi lúc một dài thêm ra, sẽ rất vất vả với bao nhiêu đồ lề ghè ché như thế này. Người ta lại thấy họ đi qua, lưng còng xuống dưới sức nặng của những chiếc ché được nhét cứng trong chiếc gùi hẹp, miệng ché thường cao lên đến tận búi tóc người mang, đang hối hả trở về.
Năm sau, họ lại sẽ trở lại.
Ký ức của một người Srê già - Cụ Nêm nghe tuổi tác đè nặng trên tấm thân còm cõi của mình. Những năm tháng xa xưa để lại cho cụ bao nhiêu kỷ niệm; trước khi từ giã cõi đời này, cụ kể lại cho con cháu, nếu không "chúng sẽ mất đi". Cùng với cụ sẽ tắt lặn đi cái thế hệ những người Tây Nguyên Xưa đã từng sống như vậy từ nhiều thế kỷ khi các cuộc xâm lấn dồn họ lên vùng núi này, từng sống như vậy từ những thời xa xưa. Truyền thống gìn giữ cho họ niềm tự do là những đứa con của Tự nhiên, trước khi họ trở thành nô lệ cho những đứa con của Tiến bộ.
Một đám con và cháu chăm chú và trân trọng lắng nghe câu chuyện kể của Người Già; tim chúng đập theo nhịp môi mấp máy của ông cụ đang kể và hát các kỷ niệm tuổi thơ của mình, lịch sử của một cuộc sống giống như bao nhiêu cuộc sống khác trộn lẫn vào cuộc sống của cụ. Một cậu bé trai nhìn chăm chăm vào khuôn mặt của cụ già đang dạy bảo thế hệ đang lên, Truyền thống được nối tiếp và làm giàu thêm lên, cũng giống như gia đình phát triển, lưu truyền và thích nghi.
Cảm thấy những ngày cuối cùng của mình đang đến gần, cụ già Nêm kể:
"Ký ức đầu tiên còn sống động trong ta là một cuộc du hành xuống vùng ven biển, cùng với cha ta, khi ta còn rất nhỏ...
"Trước khi những người chủ da trắng đến, chúng ta phục vụ người Việt, bằng cách đi xuống hoặc là Phori hoặc là Bojai. Chỉ có người Việt là chủ nhân của đất đai và chúng ta rất sợ họ. Họ không lên đến trên này, trừ một đôi người lẻ tẻ, để buôn bán chút ít. Người da trắng đầu tiên đến xứ sở của chúng ta đi theo đường Dala; chúng ta gọi ông ta là uông Puê; ông ấy sống chung với chúng ta và theo cách của chúng ta. Ông có con với một người con gái của chúng ta và ông lo cho cả gia đình không phải làm ruộng nữa. Những người da trắng đến đây chỉ đi bộ hay dắt theo ngựa chở đồ đạc của họ. Sau uông Puê, có uông Chan cổ đỏ, rồi đến uông Pho về sau đã tự tử. Ðấy là người da trắng đầu tiên được chôn ở Di Linh, trong nghĩa trang ngày nay. Rồi đến uông Cuniac là người đã xây ngôi nhà lớn của Chính phủ.
"Chính ông người da trắng này đã lập những người thủ lĩnh lớn trong người Srê chúng ta, những người mà chúng ta gọi là uông Phu. Uông Phu đầu tiên là Det Dam Kraê; ông ta không biết tiếng Việt, cũng không biết tiếng Pháp, không biết đọc biết viết; nhưng ông ta có một bộ râu dài, và chính vì cái đó mà người ta đã chọn ông ta...
"Do lao động của vợ ta và của ta làm ruộng, ta có được một ít tiền của; ta mua ché, trống, chiêng; ta tậu được một số của cải, để cho các ngươi, con ta, cháu ta, nếu các ngươi không làm lụng được tốt hay ruộng của các ngươi mất mùa, hay các ngươi bị đau ốm không làm được, các ngươi vẫn có các thứ để mà đổi lấy lúa gạo ăn; và lúc đó các ngươi sẽ nhớ lại người già này và các ngươi sẽ nói về ông ta khi ông ta đã chết..."
Cụ già đốt lại chiếc ống điếu. Ðêm đã khuya nhưng chưa phải là lúc cụ Nêm ngủ. Bọn trẻ vẫn ngồi nguyên trong tư thế như khi nghe chuyện của cụ già mà ngủ gà gật, chẳng chút ưu tư cho ngày mai... Cụ già đã lo việc ấy cho chúng. Nhưng cái ngày mai ấy không thuộc về ông cụ. Vài ngày sau, ông cụ hấp hối. Ðấy là một đêm đau đớn và là nỗi đau cô đơn. Cụ Nêm không còn ngồi trên chiếc chiếu những đêm thức bên bếp lửa ấm cúng, mà nằm tận xó nhà, trong bóng tối nơi cụ chờ chết, vật lộn với Caa đang lấy đi sự sống của cụ. Cụ nói mê; đối với cụ giấc mơ đang trở thành hiện thực mới, bây giờ. Cụ, con người đã làm việc cho đến giây phút cuối cùng, cụ thấy mình đang vào lúc cuối một ngày lao động cực nhọc. Ðôi ba câu nói đứt quãng khiến ta theo dõi được giấc mơ cụ đang trải qua đó: cụ vừa chặt củi và không sao vác nổi nữa, cụ chờ cho đêm đến... "Chẳng thể... ta chẳng thể vác nổi nó nữa... nặng quá chừng... chúng ta còn đang trên đường... trong rú... phải ở lại đây mất thôi... không thể về đến nhà được... Hãy nằm lại đây vậy, nằm lại đêm ở đây thôi... không thể... chôt chôt [2] ..."
Sự hiếu khách của người Raglai- (tường thuật của một cha cố truyền đạo). "Rời vùng người Srê, có ba người Tây Nguyên đi cùng, tôi tiến hành một cuộc thám hiểm vào vùng người Raglai. Chúng tôi không mang theo bất cứ thứ vũ khí nào, theo thói quen và để đề phòng: sườn phía đông của dãy Trường Sơn và vùng thấp còn chưa an toàn.
"Trước bình minh, chúng tôi đã lên đường, bị hay gùi trên lưng, gậy cầm tay. Ði ngược thung lũng sông Daa Röyam, về hướng Nam, chúng tôi bước nhanh chân. Người ta đã bảo tôi trong bốn ngày tôi sẽ có thể đi hết đoạn đường dự tính, nếu không lang thang. Tôi chẳng phải chờ lâu để biết thế nào là các chặng đường Tây Nguyên. Sau một giờ rưỡi đi trên các đồng ruộng, chúng tôi đến Dong Tu, làng Srê cuối cùng, nằm ở cuối một vòng cung núi. Chúng tôi không dừng lại, và vượt qua những đỉnh cao đầu tiên, chúng tôi đổ xuống cao nguyên Rölöm [3]. Chúng tôi dừng lại lần đầu tiên ở làng Tali-Törluh, ở đây chúng tôi được thết một bữa ăn thịnh soạn tại nhà người chủ làng.
"Tôi chuẩn bị chặng đường tiếp theo. Những người dẫn đường và khuân vác tự nguyện tham gia. Người giàu kinh nghiệm nhất đi đầu đoàn người, chúng tôi đi về hướng Ðông-Nam, đâm thẳng vào những dãy núi cao chắn khuất chân trời. Các con đường ở xứ này ít khi đi qua đèo; nếu một ngọn đồi chắn ngang đường đi, người ta cứ thế leo thẳng lên rồi đổ xuống bên kia. Ðường đi lên rất vất vả; nắng cháy cổ, đá cắt gót đế giày. Người dẫn đường mang cái túi của tôi, rất nặng vì chất đầy thuốc men dự trữ, cứ điềm nhiên như không; anh ta đi trên sườn núi này cứ như một người châu Âu đi trên một đại lộ. Bàn chân trần của người Tây Nguyên, ít cong, rất chắc chắn; nó cảm nhận được nền đất, mà mắt không cần quan sát; nó thích ứng, đặt đúng vào chỗ phải đặt, chỉ cần điểm tựa rất nhẹ. Trong lúc leo lên như thế này, đôi tay không bao giờ làm việc; thường chúng giữ chiếc xà gạc gác ngang vai, đằng sau gáy. Ðường dài; tôi có dịp quan sát kỹ luật đi đường của người Tây Nguyên: dừng lại nghỉ rất thưa và ngắn (và còn là do tôi đề nghị nghỉ sau hai giờ đi; tôi muốn xem anh ta có thể đi đến bao lâu mà không cần dừng nghỉ); lúc nghỉ anh ta vẫn đứng, không uống nước, chỉ hút một điếu thuốc. Không phải vì anh ta không thấy mệt; nhưng anh ta đầy nghị lực.
"Chúng tôi lên đến đỉnh Yapanang. Bên trái là núi Yang La; theo truyền thuyết, hai người sống sót trong trận Ðại hồng thủy đã tấp lên đỉnh núi đó. Chúng tôi cũng nhìn thấy, mờ xa, những rặng núi ven bờ biển Phan Thiết, tôi đoán sau những rặng núi đó là biển, chỉ nghĩ đến đã khiến tôi đỡ ngán những vách đứng liên tiếp nhìn đâu cũng gặp, những ngọn núi hoang vu, lởm chởm những rừng tre đùa trong gió như những cánh cửa nghiến kèn kẹt.
"Một cuộc đổ dốc chóng mặt suốt một giờ đồng hồ đưa chúng tôi đến một ốc đảo xanh rờn và mát rợi. Chuối, cau, những khu rừng ca hát, đôi căn nhà sàn bên một dòng suối trong veo: đấy là Chöroko, làng Raglai đầu tiên.
"Chúng tôi được dân làng chào đón bằng một niềm vui chân thật, họ vồn vã, giúp đỡ chúng tôi, tiếp đón chúng tôi, đãi chúng tôi ăn. Quả là phương ngữ của tộc người này khác với phương ngữ Srê nơi tôi đã quen sống; các bà không hiểu chúng tôi, nhưng đàn ông, quen đi đây đi đó, có thể nói thạo tiếng của chúng tôi. Chúng tôi được đãi một bữa tiệc; cơm, thịt gà, rau thơm, ớt có vị cam... và rượu cần làm món tiêu cơm. Tôi hiểu rằng người Tây Nguyên ở các vùng chung quanh nói là người ta đi đến vùng người Raglai để được ăn ngon. Hai người đánh chiêng, nhẹ nhàng hơn trên cao nguyên, du dương hơn.
"Tôi lợi dụng buổi tối nghỉ chân này để ghi nhật ký đi đường, dưới ánh sáng mệt mỏi của bếp lửa chập chờn đốt bằng gỗ thông. Xứ sở của người Raglai rất khác với vùng đồng ruộng; trong vùng ruộng có những vùng bằng rộng lớn ngập nước, đường đi lại dễ dàng, các làng cố định và ở gần nhau, thì ở đây chỉ thấy núi, mặt đất toàn cát và đá, người dân chỉ làm rẫy. Các làng, cô lập, nhỏ, hoặc vùi sâu trong thung lũng một dòng suối, hoặc treo lưng chừng một sườn núi dốc. Làng gắn với rẫy, nó di chuyển khi đất đã bạc màu. Tôi biết trường hợp một làng có thể nói theo cách nào đó là được nhân đôi lên: một làng cố định ở trong thung, là nơi ở của người dân vào kỳ rảnh rỗi, khi việc làm lúa đã xong, và một làng di động di chuyển từ đồi này sang đồi khác, tùy theo rẫy. Vùng Raglai rất bị ngăn cách; các con đường đi lại chỉ là những đường mòn hẹp, len lỏi trong rú, hết lên lại xuống; lối đi thay đổi theo sự di chuyển của các làng, trung bình cứ từ mười đến mười lăm năm một lần.
"Ðêm đã khuya; trong căn nhà sàn người ta vẫn còn bàn bạc. Bên ngoài một đống lửa được đốt ngay trên nền đất, trước lối ra vào; đấy là đám người Raglai "quá đông" kéo đến đón tiếp tôi, họ sẽ ngủ ngoài trời, căn nhà quá nhỏ không đủ chứa hết.
"Mờ sáng ngày hôm sau, khi trong căn nhà đã bắt đầu nhộn nhịp, các bà nhóm lại bếp lửa mà những người ngủ đã để tắt, tôi bước ra cùng với các người của tôi, hít thở không khí tươi mát buổi sáng mai ở xứ Raglai và làm lễ trên một chiếc bàn thờ bằng tre. Sau khi chăm sóc những người ốm, chúng tôi lại lên đường. Những người mang vác và dẫn đường nhiều hơn số cần thiết, nhưng đoàn người đông đúc rất sung sướng được đón chúng tôi ở xứ sở của họ ấy, khiến cuộc đi núi thêm vui. Ðường đi men theo một con suối lớn, chảy trong vắt, trên những hòn sỏi được mài nhẵn. Chúng tôi gặp làng Röhanglo trong một khu rừng thưa, bên bờ suối, vây quanh là những ngọn đồi đã được làm rẫy. Chúng tôi được đãi một ché rượu cần; tôi chăm sóc những người ốm và nhanh chóng ra đi, theo một con đường leo lên những ngọn đồi dốc đứng hơn. Lên đến một đỉnh, chúng tôi nhìn thấy núi Jödöng ở hướng Ðông-Nam; những người Raglai kể cho tôi biết rằng ngày xưa ở đấy đã xảy ra một trận đánh lớn giữa những người miền núi, do Bûmong chỉ huy, với người Việt từ vùng ven biển đến. Ở hướng Tây-Bắc, một ngọn đồi bị cạo trọc, cao hẳn lên hơn các ngọn đồi chung quanh: đấy là núi Me Boya; con lợn rừng truyền thuyết đi xây núi Liang Biang đã về chết chính tại đó.
"Men theo con suối mỗi lúc một rộng thêm ra, chúng tôi đổ xuống Yabö, một làng nằm ở cuối một vòng cung núi đẹp đến mê hồn. Có nước, có rừng, một ngôi làng giàu có và tươi tắn, mọi thứ để xây một trạm nghỉ tuyệt vời. Thiên nhiên hoan lạc đã biến Yabö thành một tiểu thiên đường. Nếu dân nơi này cũng hấp dẫn nữa, thì có đôi cơ may là tôi sẽ kéo dài chặng dừng chân tại đây, một nơi mọi thứ đều đẹp, sáng rỡ và tươi mát. Trên thực tế, người dân ở đây cũng hài hòa với khung cảnh, họ đón tiếp chúng tôi đặc biệt thân ái.
"Sau bữa ăn sáng với rau thơm và một loại lá mềm của xứ Raglai, một phần buổi chiều chăm sóc những người ốm, và phần còn lại để nói chuyện với dân làng, quan sát các kỹ thuật và phong tục của họ. Nhà ở của Raglai, toàn làm bằng tre, cao hơn nhà người Srê. Nó được chia ngăn: chính giữa là ngăn tiếp khách; hai phía là các ngăn gia đình, bên phải giành cho các vợ chồng già, bên trái là các cặp vợ chồng trẻ. Như vậy tránh được chuyện cãi cọ. Người Raglai là một bậc minh triết. Cũng giống như ở vùng Srê, người đàn ông đến cư trú bên phía bố mẹ vợ: người đàn bà sở hữu của cải.
"Mái nhà của người Raglai, lợp bằng rösui, bền gấp ba lần mái tranh của người Srê. Lợn không được nuôi dưới nhà sàn mà trong một chuồng riêng, sạch sẽ hơn nhiều. Người Srê tập trung mọi thứ, người và súc vật, bên trong hay dưới nhà sàn: người ta bảo đấy là do sợ trộm. Có thể tin là người Raglai ăn ở hay hơn. Ngược lại, kho lúa lại thường để trong nhà, hoặc ngang tầm sàn chung, hoặc trên một loại gác, có thể làm được trong loại nhà mái và vách cao này.
"Phía trước nhà sàn, một khu vườn rào trồng đủ thứ cây ăn quả: chuối, dứa, đu đủ, cà chua...; cả trầu, törneng (cho người ta lấy vỏ nhai với trầu). Rừng ở gần ngay đó có đủ loại tre, dùng để làm nhà và các đồ vật khác nhau. Tôi còn nhận thấy người Raglai không dùng những chiếc ché mà dùng những ống tre dài có mắc ở một đầu, hoặc những chiếc gàu để mang nước.
"Tính người Raglai hiền lành, không bị nền văn minh "làm hư hỏng" như người Srê. Lòng hiếu khách của họ không ai sánh bằng. Khi đã tin cậy, họ cởi mở và nói nhiều. Rất thích giao du, họ sẵn sàng đi đây đi đó; họ có nhiều quan hệ với các tộc người láng giềng.
"Ðêm xuống và buổi thức bên bếp lửa bắt đầu. Ðàn ông họp nhau quanh ngọn lửa, bàn tán, đốt thuốc trong các ống điếu. Hai người đánh chiêng, quay lưng vào nhau, đánh chiêng cổ theo nhịp. Những người già hát các bài ca truyền thuyết, đối đáp nhau; tôi nhận ra được các giai điệu và thậm chí cả ngôn ngữ thiêng; các truyền thuyết cũng là các bài thơ: người Tây Nguyên hát... Gà gáy đã báo sáng; nhưng ở Yabö hiếu khách tiếng nhạc vẫn không ngừng."
Rừng Cil - Cũng như từ Mọi là một từ ngữ của người Việt dùng để chỉ những người "dã man": ở miền núi và cao nguyên, từ Cil là một từ ngữ của người Tây Nguyên dùng để chỉ những người thua thiệt nhất trong những người Ðông Dương, những người Mọi mạt hạng đến mức người ta thậm chí không thể nói họ được coi là một tộc người. Và cả hai cách gọi ấy đều có ý khinh miệt. Ðối với người Mạ, người Srê, người Noang, v.v, người Cil cũng giống như người Mọi đối với người da vàng... Ngày xưa người Hy Lạp gọi là những người Barbaroi. Giá trị của mỗi con người bao giờ cũng là tương đối so với nhận định của những người kiêu hãnh hơn.
Ta gặp người Cil từ những vùng cao đầu tiên của Nam bộ cho đến biên giới phía Bắc của Tây Nguyên, bao giờ cũng là ở trên núi, tại những nơi rất khó leo tới, không bao giờ ở trong các thung lũng hay trên các cao nguyên. Người ta không thể thật sự gọi đó là một tộc người; những người Cil ở vùng trên Blao, ở Brah-Yang, ở Liang Biang chỉ có điểm chung nhau là tình trạng khốn khổ cùng cực của họ. Họ nói những thổ ngữ khác nhau tùy theo từng nơi, chịu ảnh hưởng mạnh phương ngữ của các tộc người trên cao nguyên mà họ tiếp xúc. Cũng không thể nói đến làng, bởi chốn cư trú của họ thông thường chỉ có một nhà sàn duy nhất. Những người Cil khác ở cách đó đến ba hay bốn tiếng.
Rú và rừng rất quen thuộc với người Cil. Người lạ không khỏi ngạc nhiên khi băng qua những khu rừng hoang dã của Tây Nguyên, họ bỗng khám phá ra một ngôi nhà sàn của người Cil trong khu rừng mà họ cứ ngỡ còn nguyên sinh. Các sườn ngọn Brah-Yang phủ đầy cỏ đến lưng chừng núi, tiếp đó là tua tủa những cây khổng lồ nối liền với nhau bởi một mạng dây leo to tướng không nhìn thấy đầu mút ở đâu cả, lẫn với những chùm rễ gió: đấy là phần đất giành cho người Cil. Nhưng họ là những người tiều phu tuyệt giỏi: trang bị chiếc xà gạc (một thứ xà gạc rất nguyên thủy, không có khâu bịt cán) và chiếc rìu, họ dọn sạch những diện tích đáng kể, không thèm nhìn đến cỡ lớn của thân cây mà họ hạ. Ðàn bà và trẻ con chặt những cây nhỏ và dây leo trước; một hay hai phát thật trúng là đủ rồi, không cần phải chặt đứt hẳn. Ðàn ông sẽ đến đốn tiếp những cây to, khi đổ sẽ kéo theo tất cả. Lửa sẽ hoàn tất nốt công việc. Rẫy của người Cil trồng lúa hay ngô. Sản phẩm đủ ăn một phần ba năm; thời gian còn lại, người Cil đi vay mượn và đói.
Họ cũng không có chút tiện nghi tối thiểu trong nhà. Trong các kiểu nhà Tây Nguyên, đây là loại nhà thấp nhất, tối tăm, bẩn thỉu nhất. Dê sống chung với người trong ngôi nhà ấy; đôi khi lợn giành những mảnh chăn với người. Bao giờ cũng có một chỗ nước gần nhà, chỉ dùng để nấu ăn: một người Cil đúng kiểu không bao giờ tắm; có thể dễ hình dung da họ màu gì vào kỳ đốt rẫy khi trong rừng chỗ nào cũng là than. Khi phải làm việc nhiều ở rẫy, người Cil rời căn nhà của mình, đến trú trong những căn lều khốn khổ làm bằng cành lá dày, ngay giữa rẫy; khói cay xè tuôn ra từ cánh cửa ra vào duy nhất.
Những ngày nông nhàn, người Cil làm việc ở "nhà mình"; họ là bậc thầy đan lát; gùi và thúng của họ được ưa chuộng và đem lại thêm cho họ một ít gạo. Họ cũng đi săn, bằng ná; nếu may mắn giết được một con nai, họ sẽ dùng da làm một chiếc trống mà họ đem bán cho các tộc người vùng thấp. Cuộc sống của họ rất hiểm nguy, một mình trong rừng và không thiếu gan dạ: một hôm một con báo bắt con lợn ở gần nhà; người chủ nhà ra đi một mình, chỉ mang theo chiếc xà gạc; anh ta gặp con báo; vậy là hết người đuổi theo báo đến báo đuổi theo người; khi anh ta đã chọn được vị trí tốt, anh phang cho con thú một vố bằng vũ khí của anh vào đúng giữa đầu, con báo cắn lấy lưỡi xà gạc đến gãy cả răng, rồi ngã gục xuống.
Sức chịu đựng và sự khéo léo của người Cil khiến họ đầy tự tin về mặt thể chất: giương chiếc ná nhỏ của mình lên, họ ngắm một lưỡi dao đặt cách mười bước; mũi tên bắn đi bị lưỡi dao chẻ làm đôi theo chiều dọc.
Sự dai sức trong chuyện đi đường của họ đã thành truyền thuyết; đấy là một con sơn dương bất chấp mọi qui luật thăng bằng. Nếu họ muốn gặp những con người khác những người ở trong căn nhà của họ, họ phải leo núi nhiều giờ, và thường là chẳng có đường sá gì cả vì chỗ cư trú của họ di chuyển luôn. Họ lao đi vững vàng và gấp gáp trên những đống đá lổn nhổn, những tảng đá to tướng trơn trợt vì rêu, trong những khu rừng muôn đời ẩm ướt, leo qua những rễ đa dựng đứng như những bức tường, vượt qua những vực thẳm không biết đâu là cùng trên những thân cây nhún nhảy; và bao giờ cũng trong một bóng tối lạnh buốt, vì các cây to ngăn không cho chút ánh nắng nào rọi được tới nền đất. Trong những dãy núi này, mọi thứ đều đượm màu đêm và bốc mùi mùn. Rắn lẫn với dây leo, chim ghẹo người đi qua, những con khỉ, vô hình, rít trên các cành cây cao.
Ta hiểu sống trong một khung cảnh như vậy, chỉ có rừng già hoang vu là quen thuộc, đóng kín trong cô đơn tăm tối, quen cảnh khốn cùng, người Cil khó gần, không thích tiếp xúc và chậm tiến. Người Cil ở Brah- Yang chiếm cứ một vùng đất nghèo nhất Tây Nguyên; rừng già dày đặc buộc họ phải lao động khổ sai; độ dốc của sườn núi buộc phải nỗ lực nhiều hơn những nơi khác. Những người nguyên thủy khốn khổ đó, đen nhẻm bồ hóng và cáu ghét, không có ý thức về nhân phẩm của mình, sống chung với các loài vật và như các loài vật, tuy nhiên trong họ vẫn còn tỉnh thức một tinh thần nó khiến họ đôi khi có thể có những hành động dũng cảm đáng quý. Cảnh đời của họ là như vậy. Rừng già kinh hãi, bụi rậm dày kín, mùi ẩm mốc; nhưng giữa những thân cây thông to lớn khắc khổ, qua một lỗ thủng ở một bụi rậm đầy gai, ta nhận ra tận xa xa một vệt nhỏ sáng loáng, ánh bạc, trong suốt: bờ biển miền Trung, biển cả... Còn phải dạy cho họ biết nhìn, biết tìm cái điểm lý tưởng đó, giữa những thân cây thông cao lớn khắc khổ, sau một ngày lao động khổ sai.

[1] Cách đây không lâu một số làng vẫn còn không chịu nộp thuế.
[2]"... chết chết..."
[3] Rửlửm có nghĩa là rãnh xói