Mây Chiều
Chương XXI

Tôi lại về xóm Đồng.
Chẳng phải vì thế nào. Mỗi người đều có thói quen, nếp nghĩ, sinh hoạt, đi đứng... Tôi hay nhẩm lại những nơi tôi thèm đến mà chưa khi nào được đặt chân, càng thèm: huyện Sông Mã ở Sơn La, đảo Phú Quốc ngoài biển Đông... Tôi lại về xóm Đồng, cuốn sách người đã đến đoạn ấy, bây giờ xem tiếp.
Mỗi khi trở lại những nơi đã từng đến, tôi hay nhớ lại kỷ niệm từ thuở bé. Năm nào cũng vậy, tháng mười giỗ ông tôi lại thấy bà Bống về. Người lớn bảo bà ở tận trên ngược, bà là em ông tôi, bà quảy về một gánh những bó sắn, củ mài và đôi gà trống. Trên ngược đây là huyện Lập Thạch. Nhưng thuở ấy Lập Thạch với tôi đã là rừng xanh núi đỏ xa xôi tận đâu và tôi cũng không bao giờ biết tại sao bà em ông tôi lại phải đi lấy chồng xa thế. Hàng năm, bà Bống về với họ hàng ăn giỗ ông tôi, lại khiến tôi cảm thương tình máu mủ ruột thịt. Và sau này, lại một điều trông thấy đã khiến tôi nghĩ đến sự thăm hỏi và tình nghĩa.
Năm ấy, chúng tôi ở Phia Biooc tỉnh Bắc Kạn, trên núi những làng Dao Dỏ. Tết đến, từng đoàn người, cả trẻ con, khăn chít và váy áo đỏ rực rỡ, đeo túi.
Tôi hỏi: “Đi đâu?”. Bà con nói: “Đi chơi tết với người trong họ". Người trong họ ở các núi tận trên Cao Bằng hay dưới Thái Nguyên, có khi đi rừng mấy ngày mới tới. Nhưng mà năm nào cũng đi, không hề quản ngại.
Tình nghĩa cũng trong lẽ sống tự nhiên, khi nào nhớ những chuyện trên tôi cũng thấy một niềm vui đầm ấm rồi lại bùi ngùi.
Cảm thấy đã quên mặt, quên tên nhiều người. Thế mà vẫn nhớ cái hôm tôi buộc cây hóp làm cột dây đồng vào thân cây cau, ông Ngải ngồi trong nhà lim him mắt, tay cầm cái galen to bằng trôn bát “cứ nói eo éo như con ma nói". Hoàng Trung Thông- tôi nghe Trần Lê Văn kể, thỉnh thoảng gặp, Thông hay hỏi: “Dạo ấy mình thế nào” Tổ trưởng Thông ngại những chuyện lố lăng gì chăng hay là anh cũng vẫn nhơ nhớ những ngày ấy.
Tôi đi xe hàng, không đáp tàu thuỷ và không mang theo xe đạp như hai lần trước. Bạn bè hay đi bảo bây giờ xó xỉnh nào cũng nhan nhản xe ôm, tội gì mà chen chúc ô tô hàng, còn khiêng cái xe trâu để mà chết a. Mà từ thị xã xuống Thái Ninh thì cũng chẳng mấy bước đường.
Phố xá Thái Bình đã nhiều cái khác xưa. Những lần trước trông chỉ loi thoi vài ba ngôi nhà, gió thổi rào rạt cuốn rối lên những búi cỏ tranh. Từ ngày hoang vắng ấy, nhưng có cái hay là đã sẵn vết đường bằng phẳng dễ cho những đại lộ sắp mở, đương dọn cỏ.
ở đây mấy năm nay đã lên thành phố giữa những bước tiến giằng co. Một dạo, vô số xe và máy với chuyên gia nước ngoài đổ về khoan dò dầu khi khắp một miền ven biển. Báo Nhân Dân đã đăng ảnh một mũi khoan có khói và dầu (hay nước) phụt toé lên. Thật thì đã tìm được khí. Nhà máy sành sử Tiền Hải chạy điện lấy từ khi khoan này. Nhưng ai tầng qua lại Nam Định, Thái Bình đã biết tử thuở xa xưa ngày trước có nơi ở vườn, ở ruộng chọc lỗ xuống, trong đất nhả ra hơi nóng ngùn ngụt. Có thể bắc bếp thổi cơm, cả thui chó được. Người ta đã làm như thế. Giờ mới biết đấy là khí, rồi sẽ có ét xăng, rồi mở mang khai thác qui mô. Những người hay đọc báo nói rằng Thái Bình sắp giàu đến nơi, nước ta sẽ nhiều mỏ dầu khổng lồ như Brunây, như Trung Đông.
Thế là Thái Bình được gấp rút xây đón đầu một thành phố công nghiệp. Giữa những bãi lau sậy ngập đầu nguy nga nhô lên các nhà trụ sở uỷ ban, nhà thư viện, nhà bảo tàng đã lên tường cao cao, cái khách sạn năm tầng cho chuyên gia và khách du lịch được khánh thành trước tiên. Dưới bãi Đồng Châu quanh năm nước xuộm đỏ các cửa sông đổ ra biển, nhưng đất bồi màu mỡ, nhiều nhà nuôi vịt, chiều đến, người ta đi nhặt trứng vịt đẻ trên cát, đội hàng thúng về.
Bây giờ đồ sộ ngôi nhà nghỉ Công Đoàn. Mọi cơ ngơi đã huy hoàng nhưng vẫn là cái sự hóng. Cho nên nhiều công trình còn dang dở. Đường xuống Đồng Châu sẽ tráng lệ còn đợi, chưa nâng cấp, ô tô chạy chồm chồm trên ổ trâu. Cái nhà bảo tàng giữa thị xã chẳng biết bao giờ mới xây tiếp, tường nhoe nhoét vôi vữa, những lỗ cửa chưa có khung, như cái hàm răng móm.
Thành phố vẫn đương đợi vận hội. Dù sao, không đến nỗi “Cao Biền dậy non” như Xuân Hoà, Xuân Mai, những thị trấn vệ tinh tưởng tượng quanh Hà Nội.
Thái Bình không bị đứt đoạn, mà chuyển đoạn quang cảnh hôm nay hiện ra vẻ nhộp nhịp cũng em em mấy phố Sinh Từ, phố Hàng Lọng náo nhiệt hàng hoá trên Hà Nội. Đường Cầu Bo qua cổng tỉnh sang Nam Định không còn nhà vách đất lợp phibrô xi măng xám, đã nhấp nhô những nhà một tầng mái ngói, mái bằng.
Trước cửa thừng ni lông chăng, vắt từng đệp quần áo loang lổ đủ các màu trên đòi, đòn ngang nối liền với những chiếc bàn, những cánh phản phủ tấm nhựa đỏ trên bày tú ụ bánh kẹo gói bọc giấy bóng nhấp nhoáng, Tết trung thu ngày trước cũng không được như thế. Phố “siđa", lại phố “quân khu” và choáng lộn bánh kẹo lạ mắt rối mắt như Hà Nội lan xuống dưới này đông như chợ. Người trong làng kéo lũ ra, đi xem, đi sắm. Anh kia trả tiền rồi đến đứng tựa lưng vào gốc cây tụt quần cũ xỏ quần mới vào rồi bước ra, người nọ ngắm người kia, vỗ tay cười hê hê như được bạc. Rồi lại tạt sang các bàn kẹo bánh xanh đỏ đến hoa mắt.
Đầu cần Bo, mấy nhà lá hàng cơm chứa trọ năm trước đã lên nhà gạch cả. Không còn cái gậy tre chống tấm phên cửa lên, mà buông phất phơ một rèm vải hoa, lụa trứng sáo, ở trong đi ra một cô mặt mũi nhẹ nhõm, kẹp tóc. Cô chào: "Mời bác vào nghỉ hàng nhà cháu” Cô này hẳn ở trong làng mới ra, chỉ mai kia thì mắt xanh mỏ đỏ tới nơi. Vẫn bến tàu, nhưng người không đeo vai cái tay nải, cái bọc mà hàng chục gánh nối nhau đi một dãy. Mụ nọ khoác cái túi giả da bóng nhoáng hộc tốc chạy xuống chỉ trỏ tốp người gánh thúng bọc lá chuối khô đặt dọc lòng tàu, trên boong, cả khoang lái Đấy là những thúng trứng vịt lộn từ vùng biển lên. Tàu thuỷ thì mất một ngày đường nhưng của hàng hoa không lo bị xô đẩy dễ vỡ như gác nóc lên xe tải.
Cả chuyến tàu ngược Phà Đen chở trứng vịt lộn. Mụ đeo túi, áo kếp trắng viền đăng ten, môi son phơn phớt, đương cau có chỉn diết gióng, lại cười cợt bả lả. Kiểu người này năm trước mộc mạc hơn, đã gặp ở Cầu Bo, ở Hải Dương, tôi tưởng như bọn đây là con cái chúng họ xuôi ngược nối nghiệp. Ông bạn tôi quanh năm ngồi xó hàng nước, nghe hóng đủ chuyện, chẳng cần đi đâu mà mách đúng cho tôi. Chỗ nào bây giờ cũng lắm giống xe ôm. ở Hà Nội chỉ có xe máy ôm, dưới này vô khối xe đạp ôm nữa. Cái xe hàng vừa vào bến, đã cả chục xe máy, xe đạp ôm xô đến hỏi bác về đâu, xe đạp giá mềm, cam đoan chạy suốt, không bán khách... mời bác, mời...
Một thanh niên áo xắn tay kẻ carô tím, đội mũ lưỡi trai. Trông vạm vỡ khoẻ mạnh, tôi đã ưng ý. Chợt nghĩ lại ngại. Đường xa, mấy chục cây số đồng vắng, nó lực lưỡng thế kia mà trấn thì mình bỏ đời. Nhưng nghĩ lại, thấy là tôi cũng lẫn lộn thời sự. Hồi này khách bỏ thuốc mê, khách giết lái cướp xe ôm nhiều lắm. Tôi bèn chọn anh tài chắc chắn ấy. Anh ta rõ cẩn thận. Anh lấy dưới yên một khúc dây da quấn quanh bụng tôi rồi mắc hai đầu móc xích xuống đệm ghế. “Đây an toàn, bác ạ. Tha hồ ngủ gật, có ngã cũng không văng ra được. ở bên Đức, bước lên xe là cài dây an toàn, đội mũ bảo hộ, luật đi đường thế, không thì phải phạt ngay". Nhớ rồi, tôi đã thấy bên thành phố Quảng Châu, chẳng biết khách ngồi đèo có buộc dây an toàn thế này không, nhưng người lái, người đằng sau đều đội mũ bảo hộ, nom như hai cái đầu con dế mèn tròn bóng. Tôi bằng lòng sự cẩn thận mà tôi nghĩ nhân lên là có tính hiện đại, tính quốc tế của anh tài này.
Anh lái có vẻ vui chuyện. “Tên cháu là Khế, khách quen gọi là Khế ôm. Bác vào đến đầu phố huyện hỏi Khế ôm, trẻ con cũng chỉ nhà Khế ôm đúng ngay".
Tôi hỏi:
- Cháu đã sang Đức à?
- Bốn năm.
- Cháu ở tỉnh nào, Béc Lin a?
- Không ạ, Lai Xích.
- Cháu ở quận nào dưới Lai Xích?
Tôi buột miệng hỏi câu ấy để làm gì. Anh lái có trả lời hay không, tôi không nghe. Đán, con trai tôi đã ở Lai Xích, đã chết ở Lai Xích, tôi đã có lần tới Lai Xích, tôi vẫn nhớ địa chỉ, cả số nhà, phố, quận...
Một lúc lâu, tôi không nói được.
- Bác đã đến Lai Xích rồi a?
- Chưa, cháu ạ.
Khế nói:
- Bác mà đến Lai Xích thì bác phải mê. Nhà ga xe lửa mái lợp to bằng trăm cái chợ Bo mà cấm thấy một cái rác. Tài chưa!
Tôi hỏi Khế chuyện khác.
- Đi bốn năm rồi về?
- Cháu chẳng thiết ở đâu cả. Cháu sốt ruột về nhà. Mẹ thì già. Vợ còn con nhỏ. Hết hạn lao động mà lại không còn nước dân chủ Đức nữa mới chán chứ. Cháu về thẳng. Khối đứa trốn ở lại.
Đương khoái chuyện, Khế kể:
- Tổ cháu có sáu đứa ở lại, cả bọn con gái. Tìm việc bên ấy chẳng khó. Nhổ cỏ cũng ra cái ăn. Nhưng chúng nó thích đi buôn. Chúng nó bảo đi buôn kiếm tiền nhanh.
- Buôn thế nào?
- Buôn đi bán lại vớ vẩn ấy mà. Đứng đường bán thuốc lá, thấy công an thi lủi. Dễ ợt!
- Đầm với đìa, bác ơi! Sẵn quá, bọn đầm lười như quỉ, chỉ nằm ườn bắt thằng bồ nuôi.
- Buồn cười nhỉ!
- Cơm nhà, cơm nhà, cháu cứ là cơm nhà...
Khế cao hứng, ngêu ngao:
- Ta về ta tắm ao ta. Dù yrong dù dục ao nhà vô tư, có phải không bác?
Xa xa, đã trông thấy bóng đen những thanh sắt trên cống Trà Linh. Xóm Đồng kia rồi. Mặt cỏ vệ đê cống Bắc phẳng mờ, đến gần nữa, hoa cỏ may trắng như hơi sương. Mỗi khi nghĩ đến đồng quê, tôi lại cảm giác như thuở bé, mong mãi chưa thành người lớn, ký ức dừng lại, xóm làng ở đâu cũng chẳng khác, mà khác cũng cứ nhớ ngày xưa thế.
Mấy nóc nhà lèo tèo và cây đa chợ Thượng không còn. Một trường tiểu học, dãy nhà quây trong bốn phía tường gạch quét vôi vàng. Trơ trọi không một bóng cây. Tôi nói:
- Đến nơi rồi. Tôi xuống làng bên chân đê kia.
Khế hỏi:
- Làng bác ở đấy à? Bác về quê chơi.
- Không, tôi thăm người quen.
Rồi tôi dặn Khế:
- Tôi vào làng, nếu chẳng gặp người quen thì tôi lại nhờ cháu cho về tỉnh ngay. Bằng như gặp được thì ta tính sau. Có khi mai mới về cũng nên. Giá cháu cũng ở lại, mai đưa tôi về thì vui quá.
Khế sốt sắng:
- Bác cho cháu đi cùng xuống làng. Để xem thế nào.
Khế dắt xe đi với tôi. Xóm Đồng ngay kia. Cái mà tôi nhận ra, ấy là mặt nước con sông nhỏ cong cong quanh xóm. Còn những khoanh tre thì đã bị phát quang. Cái xóm trọc lốc, giống nhiều nơi bây giờ. Có điều ngạc nhiên mà không lạ đối với tôi, ở nơi nước ngọt nước lợ tít mù thế này mà các đầu xóm cắm biển cũng đánh số xóm l, xóm 3 như ở Cầu Giấy, ở Nghĩa Đô đất Kẻ Chợ. Lổm nhổm bát úp cao thấp, không một mái lá, một tường đất, nhà nhà mái bằng, nhà tầng, nhấp nhô tường xám xi măng. Vẫn lối ấy vào xóm, nhưng đã mất hai bờ rào ô rô và những cây xương rồng, bụi duối, mà so le trồi ra thụt vào những góc tường, ba người cùng đi thì đụng vai nhau.
Tôi bỡ ngỡ đôi chút khi nhớ chỗ ấy là một cái ao. Bây giờ mọc lên nếp nhà hai tầng, dưới sân trên giại bể có dàn trầu không, cồng sắt khoá. Tôi đương vào ngõ nhà ông Ngải mà cứ vừa quen vừa lạ. Cái nhà vẫn trong kia, nhưng không vách đất mà tường lên vàng khè. Đầu nhà trổ ra vườn chỗ áv đặt chõ nước đái, chúng tôi đã làm hố ủ phân xanh, ngoài kia những cây chè khẳng khiu. Bây giờ xi măng trát phẳngậu vận, kể cả cái hoạn nạn long đong họ Tân bên Tàu, ông Tân Khải Minh Sao Mai cũng vượt được. Sao Mai trong hoàn cảnh nào thì việc viết với anh cũng như một đòi hỏi. Bận đến mấy Sao Mai cũng cầm bút. Cái nghề chân chính đã là quả phúc của ông. Đến lúc trời mở cửa, trời vẫn thấy ông cầm bút, rồi được tỉnh Vĩnh Phú để mắt đến, anh em kiệu ông ra làm một chân phụ trách văn nghệ tỉnh. Năm trước, gặp ở thành phố Việt Trì. Sao Mai cười lấp lánh mắt, lại bốc, bốc thật chứ không phải bốc phét: “Này ông, ở Văn Luông âý mà, nhà vườn của các con các cháu Sao Mai bây giờ san sát liền một vệt năm bảy quả đồi chứ chẳng vừa". Tôi mừng bạn một câu rằng: Nhớ đến cái đận ông về dự trại sáng tác ở Quảng Bá, thợ mộc theo về ăn đọi nằm chờ ông vay tiền ứng sáng tác để trả công làm nhà thì tôi thật phục cái gan, cái trí của ông. Tôi lại khoái ông có máu đa tình mâ lại chung thủy, léng téng với ai rồi cũng lấy người ta. Nghe nói ông mới có phòng mới. Ông lại bán cái đất có thật để ra xây tổ uyên ương trên cành lau ở bờ sông Thao.
Thôi ta trở lại cái hôm chả cá Sơn Hải thời kỳ ấy, uống rồi thì chuyện tử tế bỗng đâm sang nói nhảm. Phạm Khanh nói nhảm đê mê đến ghê người, sởn gai ốc. Nhưng lúc nói đứng đắn thì Phạm Khanh khẩn khoản: “Ghi tên tôi vào danh sách đi thực tế, có lao động cải tạo mới nên con ngưòi, đi đâu cũng được". - Anh đề nghị với hội Mỹ Thuật. Chắc cũng dễ. Tôi sẽ nói thêm với các anh ấy". Rồi Phạm Khanh lên Lạng Sơn làm đường sắt. Lại thấy nói đến năm về, họa sĩ hàng ngày ngồi thiền và tập yoga. Một hôm đến miếng cây chuối ngược, cây chuối đổ rơi từ sân gác thượng xuống. Cũng có người thì thào: anh tự vẫn. Không biết thế nào.
Thanh Đình đã đứng tuổi, người thấp bé, nói láu táu, hôm nào cũng đến đòi đi thực tế. Thanh Đình là tay viết truyện kiếm hiệp ba xu Người nhạn trắng từ thời tôi còn học lớp bét, lớp ba đương mê những Dao bay, Mắt thần của Trường Xuân và Người cá voi của Văn Tuyền Phạm Cao Củng. Những loại truyện ba xu này không được coi là văn học. Vả lại, Thanh Đình bỏ viết đã lâu lắm. Hôm nào anh cũng đứng trước cửa nhà xuất bản Văn Học. Gặp tôi, anh bảo. “Tôi có công tác, đợi anh Thạc". Thạc là tên cúng cơm của Như Phong, đương làm giám đốc nhà xuất bản này. Thạc và Thanh Đình là bạn học tiểu học trường Cửa Đông. Thấy Đoàn Phú Tứ đến tìm Như Phong đưa bản thảo dịch kịch Ipsen, Thanh Đình nói: “Tao vào thằng Thạc, tao với thằng Thạc là bạn nối khố cùng lớp, tao đương viết cho nó một cái trường thiên tiểu thuyết roman neuve!!. Nhưng rồi anh ấy cũng không năn nỉ đòi đi nữa. Buổi chiều, tôi uống bia hơi cửa hàng ngã tư Bà Triệu-Trần Nhân Tông, thấy anh xách cái làn to bước vào. Anh bắt tay tôi chặt. Anh không uống bia, cũng không trò chuyện sáng tác. Anh đi bỏ mối bánh đậu, kẹo lạc cho các hàng nước. Bí nhất cái lần gặp Nguyễn Hoàng Quân. Quân còn trẻ, không thuộc lớp cầm bút trước kia. ở trên rừng, đôi khi đọc báo Hà Nội, thấy thơ Nguyễn Hoàng Quân. Người xạm đen, tóc bù xù tổ quạ, mặt vuông gầy nhưng vóc người có thể lực lưỡng.
Anh tự giới thiệu:
- Thi sĩ Nguyễn Hoàng Quân..
- Chào anh Nguyễn Hoàng Quân.
- Tôi muốn được đi thực tế.
- Vâng, nhiều anh đã đi...
- Anh cho tôi biết các điều kiện đi thực tế...
- Anh có thể xuống lao động nhà máy hoặc...
Nguyễn Hoàng Quân mở to đôi mắt đờ đẫn:
- Đi làm cu li á? Tôi đã bảo với anh tôi thi sĩ...
Hình như tôi còn giải thích dài dòng đi nhà máy, đi nông thôn thế nào đấy, nhưng rồi Nguyễn Hoàng Quân đứng dậy, đi ra. Cái dáng bước kiêu căng khuệnh khoạng, cái bóng vía thi sĩ kiểu ốp đồng thế, làm thế nào nói cho anh ấy nghe ra được. Nhưng Nguyễn Hoàng Quân không trở lại nữa. Tôi có ý tiếc anh còn ít tuổi, vẻ khỏe mạnh. Nhà anh ở trên gác bên cửa rạp chiếu bóng Hàng Chiếu, cạnh cái ngõ nách vào chợ Đồng Xuân được tiếng các gánh bún ốc, phở chua và chè sen, lúc nào cũng bề bộn người ngồi. Một lần tôi đến, lên hết thang thấy các cửa đều đóng khóa trái. Xuống hỏi thăm bà hàng nước ở gốc nhội vỉa hè, bà ấy nói:
“Anh ấy chết mấy tháng nay rồi, ông không biết à?"
Tôi ngỡ chẳng rõ Nguyễn Hoàng Quân chết thật hay là vì cứ huyênh hoang và to tiếng cãi nhau với xóm giềng, người ta rủa thế.
Người đi thực tế không ai giống ai, lại nỗi những tin bối rối xa gần về. Ca sĩ ái Loan lội bùn chết bệnh uốn ván ở Phủ Lý. Có người ở Hòn Gai lên kiện Nguyễn Hải Trừng. Anh đã lấy vợ ở vùng than. Khi địa phương làm điều tra dân số, anh đi khai giấu nhưng đã lộ ra có vợ trong Nam, có con ra tập kết, và anh đã rút tuổi thật xuống gần nửa, hôm làm giấy giá thú. Người nhà nọ cốt báo cho cơ quan biết thôi, không kiện tụng và đòi hỏi gì, cô nạn nhân ấy đã ra tòa ly dị được rồi. Cũng lại anh ấy về sau sơ tán bom Mỹ vào Mỹ Đức, anh “nhảy dù” tai tiếng ầm làng, rồi về Hà Nội lại lấy vợ, khi hòa bình lập lại bà ấy ra tòa xin tiêu hôn, tôi lại phải thay mặt cơ quan đi chứng kiến. Lôi thôi quá..
Mỗi ngày loạn xạ một thứ việc, nhưng tôi lo đã ngớt, tôi sửa soạn đi Thái Bình. Tôi sắm sổ tay, theo thói quen mỗi chuyến đi và mấy quyển sách đọc: Bàn về thực tiễn và lời nói đầu sách Điều tra nông thôn của Mao Trạch Đông. Bài của Võ Nguyên Giáp tôi đã nghe mấy buổi ở câu lạc bộ quân đội Kết hợp lý luận vơi thực tiễn trong cuộc cách mạng ruộng đất ở nước ta nói về cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức và sửa sai. Những bài cắt ở báo của Minh Nghĩa (Trần Quang Huy) phân tích sai lầm cải cách ruộng đất. Tôi ghi trên đầu sổ tay của chuyến đi một câu không biết lấy được ở sách nào: Chân lý là quá trình (Lê Nin). Và đem theo quyển phóng sự để đọc lại Tan rã (Kaputt, của C. Malaparte một phóng viên ý trong chiến tranh thế giới lần thứ hai có chương viết về cuộc tàn sát Do Thái ở thành phố Vacsôvi bị chiếm và các trận tuyến phía quân Đức và ý.
Bấy giờ ở Trung Quốc đã nổ ra cuộc đấu tranh trăm hoa đua nở trong văn nghệ, mà sau đấy Đinh Linh, Phùng Tuyết Phong đã phải đi lao động cải tạo trồng kê, đào củ cải ở vùng quê nào. Nhưng chưa phải đảo lộn dữ dội như cách mạng văn hóa mấy năm sau. Còn chúng tôi đi thực tế thì khác, chúng tôi bấy giờ đi với ý nghĩa rằng đất nước đã sang giai đoạn mới, phải lao vào mà bắt kịp tầm nhìn. Mặc dầu tôi đã đi làm cải cách ruộng đất và công tác sửa sai mà khi trở về xảy ra việc Nhân Văn, cái nghĩ và làm của tôi vẫn chất chưởng, tôi cũng không cắt nghĩa được. Sự tự ti nặng nề bấy giờ đã làm tiêu tan cả suy nghĩ và nghị lực, lắm điều đã biết, đã nghiên cứu hẳn hoi, thế mà nghe nói lại, đọc lại cứ thấy như mới, như chưa tỏ tường bao giờ. Tự nguyện hay không, tôi thấy tôi phải đi mới giải quyết được bế tắc cho mình.
Tôi đáp tàu thủy xuống Thái Bình. ở bến Phà Đen tàu xuôi khi chưa rạng sáng, cho đến lúc trông ra thấy mặt sông Cái đỏ ngầu mênh mang giữa hai bờ thấp thoáng chân đê, lũy tre, bãi ngô, làng xóm. Những bụi chuối xơ xác vàng rượi, những ruộng mới vỡ, những lò gạch- bóng con bò và người cày trên bãi hiện ra gầy cao cao. Mới đi một lúc mà thành phố và mọi công việc tôi như đã bỏ lại ở đẩu ở đâu rồi. Cái tàu thủy “màn xế” đỗ từng bến với người các vùng dọc sông quen thuộc đã lâu đời. Người xuống khoang ngồi ràn rạt đầy các hàng ghế, nhà tàu mới đi đếm đầu phát vé. Năm 1958 đã khác trước, làng xóm vào tổ đổi công, đương lên hợp tác xã. Chuyến tàu Trung Hưng, tôi đi ngót một ngày về đến Cầu Bo, người lên xuống các bến nơi nào thì đoán ra quang cảnh ấy. Một bà chít khăn vuông hoa choạc ngón tay chùi mép quết trầu, nói: “ối dà, chính phủ đương thu người các nơi về làm ruộng, làng nào cũng đông ơi là đông. Bây giờ mới ra cái thời nhất nông nhì sĩ, các ông ạ".
Nhưng bà ấy thì đương chạy chợ, buôn chuyến. Những khiêng củ nâu không biết từ bến đường ngược nào xuôi về. Bà xuống các chợ Thái lùng mua cau. Đến vùng mía Trình Xuyên thì nhiều quang gánh buôn mật lên bến.
Nhộn nhịp khắp nơi, chẳng phải chỉ có một cảnh người về làng trong tiếng “ối dà” câu nói lộn lưỡi của mấy mụ hàng chợ. Tôi nghỉ lại thị xã, trọ hàng cơm trên bến Cầu Bo. Tôi đạp xe lên đầu tỉnh qua phố chính Guyn Pickê ngày trước. Hai bên đường cỏ tranh cao ngập đầu. Bao nhiêu nãm đã qua, cái trường tiểu học ông giáo Nguyễn Công Hoan dạy ở chỗ nào. Cái bến ô tô Thái Bình-Nam Định-Hà Nội mà ông lang Dương làng tôi đã từng đứng đầu du côn tranh khách cho hãng ô tô Mỹ Lâm con thỏ chẳng nhận ra đâu nữa. Đầu phố huyện Vũ Tiên, nhà hát bà ký Đường, Nguyễn Khắc Mẫn đã viết truyện ngãn Bà ký Đưòng đăng tuần báo Ngày nay, có đêm ông lang Dương đã dẫn chúng tôi vào hát. Chỉ còn trong tưởng tượng. Giữa bãi hoang loáng thoáng những vườn dâu.
Hôm sau, đi Thái Ninh sớm. Cái xóm tôi đến là xóm Đồng. Về quê, chỉ những cái tên cũng đã mường tượng được lai lịch làng xóm. Không phải như bây giờ nhà cửa cứ mọc loang ra khắp nơi. Những cái tên ngày ấy đã chỉ ra gốc gác. Xóm Đồng, xóm Trại, xóm Mới, xóm Ao... là những nơi ở mới bên lũy tre rìa làng, bọc quanh các xóm Trung, xóm Giữa, xóm Đình sầm uất của các nhà có máu mặt, các nhà chức việc. Xóm trong luỹ, ngoài lũy là nhà thiên hạ đến ngụ cư, nhà mõ, hay là nhà đông người phải san ra, dần dần nhiều năm mới ấm chỗ, có khói bếp, cây cau, cây rơm và đường cứt trâu.
Đứng trên đê trông xuống mênh mông - cả tỉnh Thái Binh đều bốn phía chân trời, không nhấp nhô gò đống, không một chấm núi. Chỉ rợn lên những cánh đồng, những con đê, những bờ tre. Con sông Diêm lừ đừ phẳng lặng. Cái chợ họp hôm họp mai chốc lát đầu bến cũng gọi là chợ Phố, có lẽ vì cũng có lò rèn, lò may, quán nước. Chốc chốc lại đi qua một bọn các cô, ống quần gấu váy túm lên tận bẹn, cặp đùi đen nhánh tròn như cái chĩnh. Đoàn người vác những cái dặm xuống chuôm sâu. ở đồng đất này, đàn bà đi đặt lờ cá, đánh te, cày bừa chẳng khác đàn ông. Gặp khi một bọn đi dưới đồng lên các cô cứ nồng nỗng trần truồng ở đầu cống Bắc thì đàn ông cũng không dám bén mảng qua.
Những đồng cao đương làm màu, khoanh bờ cuốc đi cuốc lại, cắm dây khoai. Người ngâm mình dưới đìa nước vác bùn lên úp vào đầu bờ. Nhưng không phải đắp cho khoai mà đánh đống phơi ải để ít nữa tãi xuống ruộng mạ. Mấy hôm sau, được biết mỗi xã viên đương phải quảy ngày năm mươi gánh bùn. Phùng Quán đã đi làm được mấy buổi, mỗi hôm xong gánh bùn khoán lại vớt lá trang, cỏ năn, dong nước về ủ cái hố phân xanh của chúng tôi.
Cống Trà Linh ngăn mặn, làng xóm và cánh đồng bên kia lợ nước ra tận biển, đến mùa nước, những con rươi hiếm hoi vẫn nổi từng đám. Đường ngoằn ngoèo xuống Diêm Điền có đến mười mấy cây số ngập trong cỏ. Người sang đò về bên Thụy Anh, trong bóng chiều chỉ nghe ánh ỏi, lao xao như tiếng chim chích choè chặp tối hót về tổ.
Vào xóm càng rõ ra cái xóm trại còn tạm bợ. Nhà nhà đều tường đất, những hốc khoét vào trong tường đựng mọi thứ, cái điếu cày, bó đóm, nắm giẻ rách, rổ đậu đãi, niêu tép kho. Cái bùi nhùi rơm lấy dưới bếp lên, tiếng thổi lửa phù phù. Đâu mà có giẻ rách làm nòm, ở xó xỉnh này cái giẻ cũng được khối việc khác. Một người vục cái bát đàn vào vại nước, vừa uống vừa nhìn ra xem ai lạ vào xóm. ở cái xe đạp của tôi phát ra tiếng kêu tách tách cũng kéo được mấy đứa trẻ tò mò chạy ra, trong đám có Hoàng Trung Thông lực lưỡng cởi trần, râu rậm Trương Phi. Tôi hỏi:
- Cánh ta ở xóm này a?
- Rải rác các xóm ở ngoài này. Rách một tý, nhưng thoáng mát dễ chịu.
Tôi đùa:
- Lại ôn nghèo gợi khổ, bắt rễ xâu chuỗi à?
Thông cười:
- Không, thích nhà nào ở nhà ấy. Tôi đã chọn cho ông một nhà ít người, kề ruộng kề sông. Ông vào xem, mà không vừa ý thì đi nhà khác. Có rễ sẵn, rễ cái hẳn hoi.
Tôi nói:
- Có phải bắt rễ tôi cũng xong ngay. Cậu không nhớ tớ đã đội phó cải cách a?
Tôi đi cải cách ruộng đất, hai đợt ở Quảng Xương, ở Nông Cống rồi cả đội chuyển ra Hải Dương, đã dự hai kỳ tổng kết cả tháng trong Hậu Hiền rồi ra Quỳnh Cơi ở Thái Bình này. Đến bây giờ vẫn như còn mê ngủ,ng Phan Khôi nào vẫn ngồi tựa bụi tre lép kia.
Năm trước sang sân bay Gia Lâm, tôi tiễn ông đi Trung Quốc dự kỷ niệm năm sinh Lỗ Tấn, máy bay ấy ghé Côn Minh rồi mới lên Bắc Kinh. Cà vạt màu đỏ thậm dưới bộ râu lưa thưa. Tướng ông giống một học giả Nhật Bản, vẻ phương đông mà hiện đại. Tri thức của ông xứng đáng ra thế giới kỷ niệm Lỗ Tấn lắm chứ.
Lúc này thì tôi quên những hoang dã ngang ngược của ông ở Việt Bắc, ông đau dạ dày phải mổ cấp cứu. Thể lực đuối, lại trọng bệnh giữa rừng, ông không chết nhờ nơi bác sĩ Tôn Thất Tùng trên Chiêm Hoá mới nhận được máu khô ngoại viện. Khi ông bình phục, chủ tịch Hồ Chí Minh gửi mừng ông bộ quần áo lụa.
Hoạ vô đơn chí, ông thường kể chuyện vui “trời đánh ông cũng không chết” là cũng có sự thực của nó. Hồi ở Phú Thọ, đêm mưa sấm sét dữ dội, ông trông thấy một con sét hòn xanh lẹt ngoằng giữa nhả. Mà ông không việc gì. Tôi nghe ông kể chuyện ấy, nhưng việc này thì tôi chứng kiến. ở Tuyên Quang dự lớp chỉnh huấn, buổi sáng ông ngồi trước lán. Một cành cổ thụ to như cột nhà gẫy rơi ngay trước hai chân ông duỗi ra sưởi nắng. Rồi về Hà Nội, ông viết bài Ông năm Chuột.
Tôi cũng không gần ông liền năm, tuổi tác lại chênh đến ngót ba con giáp. Tôi biết ông ương bướng, mà cũng không phải chỉ thế, ông vốn trọng công việc. Khi đương tập kết ông được mời vào khu 5 nói chuyện kháng chiến thắng lợi với đồng bào ở Bình Định, Quảng Ngãi lúc ta chuyển quân ra Bắc. Ông đi ngay. Và mỗi khi tôi nhờ việc, nhờ viết bài, ông làm đến nơi đến chốn. Tôi đã cậy ông so sánh các bản dịch tiểu thuyết Mặt trời trên sông Tang Càn của Đinh Linh, ông soát và viết báo cáo nhận xét cẩn thận, kỹ lưỡng.
Ông thích nói tiếu lâm chọc cười, cũng như không biết giận, tưởng như ông cốt nói ngang hơn, to tiếng vặc lại, chỉ vì ông không để bụng lâu. Chao ôi, không ương bướng thì đã không phải là Phan Khôi, cái câu giễu “Lý luận Phan Khôi” mà các báo Phong Hoá, Ngày Nay đã đặt cho ông chẳng đã thành tiếng thuở nào.
Tôi lại mơ màng rồi, trông cái ông Ngải không biết chữ mà lại hoá ra học giả Phan Khôi một bồ chữ sao được.
Ông Ngải ngồi như đống đất, thế mà ông nghiêng tai, lối nghe của người ngễnh ngãng, ông đã đánh hơi được có người đi tới.
- Ai thế?
Tôi gọi to.
- Ông Ngải!
- Ai...
- Cán bộ Tư chào...
Tôi chưa dứt câu, ông Ngải đã run run gối đứng lên.
- Anh Tư đấy à?
Ông lão lại nghếch mặt hỏi:
- Có anh Quán đấy phải không?
Ông lão nghe rất thinh. Khế cười ngặt nghẽo:
- Khế ôm đây, cụ tổ ạ.
- Anh Quán...
Tôi nói:
- Anh Quán mất rồi.
- ối sao thế?
- Giỗ đầu, giỗ hết rồi.
- Khốn khổ
Ông Ngải nắm cánh tay áo tôi. Tôi đỡ ông ngồi xuống, lại tựa vào bờ tre. Ông Ngải bảo tôi, như ngày trước, như mọi khi: “Anh ra vườn ngắt mấy cái lá chè". Rồi ông hỏi: “Anh vẫn uống nước chè vò chứ?
Mảnh vườn chỉ còn một luống đất. Không biết chỗ nào cái hố phân xanh ngày xưa. Nhưng tôi vẫn nhớ bài học hái chè ông Ngải dạy. Bỏ lá già, tôi ngắt một ôm lá đương bỡi. Bên bờ tre, Khế đã đun nồi nước.
Rồi Khế vò chè, luộc chè, đổ nước cho ngấm. Như ở nhà chú và cả đất Thái Bình này đều biết món chè vò.
Để ý kỹ, búi tre xác xơ nhưng đã lan ra thành hũm vững chắc trông như trong cái hang có ổ mái lợp những tàu cau, xung quanh táp phên vách, trên đặt một giát giường to hơn cái mâm chõng, như túp nhà trẻ con dựng chơi đình chùa.
Tôi hỏi:
- Ông vẫn ngủ trong bụi tre à?
Ông lão đương ủ hai bàn tay xù xì trên mặt cái ấm vừa sưởi để xem chừng hơi nóng mà biết chè chín đến đâu. Tôi hỏi lại rõ từng tiếng, ông Ngải mới à à ừ ừ: “Ngủ ngoài này chứ ở cái nhà trong kia thì chết ngạt chẳng ra bộ gì. Thế các anh bây giờ...”. Tôi hiểu ý ông Ngải hỏi anh em chúng tôi dạo ấy. Tôi kể: tổ trưởng Thông mất rồi, anh Chu Ngọc đã được sang nước Tiệp Khắc ấy mà, cũng ốm chết rồi. Cả tổ còn anh Trần Lê Văn, anh Hoàng Cầm và tôi. Ông Ngải trầm ngâm nhm ra rồi nói: “ ở ngoài tỉnh hại người lắm. Anh Quán còn ít tuổi, khoẻ mạnh thế mà cũng đi rồi. Tội nghiệp, ở tỉnh làm quái gì! ”
Trên cành tre tay tre vẫn cái bát đàn, thêm chiếc ca nhôm, cả ống điếu cày treo lủng lẳng. Chắc vẫn có người qua lại, ghé ngồi. Ông Ngải nói: “được", rồi bảo Khế rót nước trong ấm đất ra bát.
- Người ta miếng giầu làm đầu câu chuyện, tôi cả đời chỉ có miếng nước". Ông Ngải tưởng tôi vẫn uống chè vò như ông.
Đã lâu, một lần tôi đi Hà Tnh về làng có uống chè vò bây giờ mới lại được nhắp, nước nóng vào đến đâu thấy chát ngọt lìm lịm đến đấy. Nhớ những tinh mơ ông Ngải dậy từ gà gáy uống hết hai ấm vại chè vò mặc cả nhà ăn cơm đèn rồi ông xách cuốc ra ruộng, lòng không dạ đói đến quá trưa mới về, đeo một giỏ ếch nhái, cá cua sau lưng. Trông ông lão vẫn phảng phất đồng áng bờ bụi thế. Hai con mắt toét nhèm viền vải tây điều đã sụp xuống ti hí. “Lúc nào tôi cũng thấy trời sắp tối, anh ạ". Nhưng ông nhìn bằng tai, cái tai ông dở điếc mà vẫn nghe ra tiếng người, mấy người và tiếng chó, tường lắm.
Ông Ngải đưa tôi vào trong nhà. Tôi trông thấy trên giường thờ ảnh cu ốc, mặt trang nghiêm, đội mũ cát sao vàng.
Ông Ngải nói:
- Cái thằng ốc lại mải đi theo anh Quán tập dân quân rồi. Cả bà nó nhà tôi cũng đi chơi với nó. Mẹ con nhà mày ạ, có anh Tư về chơi.
Tôi bấm Khế ra sân.
Tôi ở lại, sớm mai về. Nếu cháu ở lại được...
- Để cháu xem.
- Bây giờ cháu lên trên Cống mua thẻ hương, tìm đâu được con gà. Tôi cúng cậu ấy, cả bà cụ...
Khế nổ máy xe, đi ngay. Tôi rút nén hương trên bàn thờ rồi lấy diêm châm cái đèn hoa kỳ. Tôi đã đến nhiều nhà thấy trên bàn thờ ảnh và tryuền thần chân dung các chiến sĩ. Tôi cứ tưởng như không phải người đã khuất. Anh ấy ốm đau gì đâu, cái ảnh lại trẻ đẹp thế kia, ý nghĩ ngây dại thường trở lại trong tôi.
Nhà ông Ngải chỉ khác cái mái bằng và tường xây để mộc, giường phản vẫn tuềnh toàng thế. Nhà kín bưng, ẩm mốc. ở trong làng bây giờ cứ đua nhau nhà tầng, nhà gác, có người méo mặt vì ganh nhau làm nhà.
Ông Ngải thắp nén hương rồi lại lò dò ra ngồi bụi tre. Ông Ngải nói:
- Xóm này nhà ngói, mái xi măng hết. Bữa ăn bữa nhịn, cũng lên nhà tây. Anh Quán mà về thì không kiếm ra đất bức vách ủ phân.
- Thời buổi mới, đâu cũng ăn nên làm ra, ông ạ. ối người đi vay lãi, bán lúa từ lúc vào đòng để làm nhà. Chỉ khác ngày xưa lý trưởng, phó lý giầu có bây giờ chủ tịch, bí thư, xà đội, dạo trước còn chân chủ nhiệm, kế toán nữa cũng trộm cắp mà nên giàu có cả. à anh biết chủ nhiệm Sự...
- Ông ghét ngói hoá, bê tông hoá nên ra nằm đây.
- Có mà hoá điên hoá rồ. Hồi còn thằng Tây tôi đã sợ cái hầrn lô cốt. Tôi không chịu được ở nhà hầm, tôi mà ở trong nhà hầm ấy thì tôi chết đã lâu.
- Sao ạ?
- Suốt ngày nắng nung sân xi măng, mái xi măng, đêm vẫn oi như trong chảo rang. Tôi làm thằng kéo vó, ra đây chui vào cái lều vó cạn. Chẳng nắng gió nào động được lông chân. Chân mễ tôi kê cao cho con hổ mang, hổ lửa lấy đường đi, tôi nằm trên. Chỉ có thằng rắn ráo thì đợi nó leo lên, tôi tóm cổ. Thịt rắn ráo ngon hơn thịt gà. Anh chưa được ăn nhỉ?
Tôi rụt rè hỏi về ốc. Nhưng ông Ngải nói như đương chuyện với ma:
Nó tập bắn súng gỗ với anh Quán. Rồi đến dạo ngày đêm máy bay ngoài bể vào, bay ngang mặt đê.
Đến mùa nước có đứa đồn máy bay Mỹ sắp phá đê cho cả tỉnh chết đuối. Các làng lên đê đặt ụ súng bắn cho nó không dám xuống thấp, bắn súng thật.
Cả đêm cũng đòm đòm.
ấy thế mà thời buổi tàu bay tàu bò lại kiếm ăn được. Chuyện này cô Hến về đã kể cho nghe. Chặp tối, đàn máy bay chúng nó đi ném bom về qua ném xuống hàng trăm cái vỏ thùng hết dầu. Đầu tiên tưởng nó ném xăng đốt làng. Ra xem mới biết cái thùng rỗng, thế là vớ bở. Thôi thì làm nồi, lảm vại, làm thùng, làm muôi, bán đồng nát, bán cân cho nhà mậu giũa làm lược, làm hình máy bay đồ trẻ con chơi...
Thanh niên ca cẩm: ngày nào cũng bắn mà cấm nhặt được thằng Mỹ nào. Rồi có đợt tuyển quân.
Thế là đi, ốc cũng theo. Nhà con một, xã cho miễn. Nhưng ốc bảo làm tiểu đội trưởng dân quân thì phải đi với quân, đi ít lâu xem sao rồi về thôi mà. Được một năm rưỡi, giữa tháng tám nhận được giấy báo hy sinh ở mặt trận phía Nam. Một năm sau thì mẹ cũng mất.
Cô Hến kể:
- Bố em bảo thôi thì nằm xuống ở đâu cũng là nằm. Bố em hãi cả ai nhắc đến, bố em sợ nghe ai nói thương binh liệt sĩ. Nhưng chúng em không yên lòng. Giải phóng rồi, nhà em đi tìm mộ. Đeo một tay nải thẻ hương, tối nào cũng thắp một nén khấn, rồi c thế đi. Run rủi thế nào lên núi Trường Sơn đến khu mộ liệt sĩ Thái Bình có hơn một nghìn ngôi đã bốc về đấy. Dò hết một ngày, tàn nén hương thì gặp mộ anh, rõ ràng cả quê quán, cả tên ở nhà, tên lúc đi bộ đội. Nhà em đã lấy giấy rập khuôn đá bia đem về tạc hệt cái bia ở núi Trường Sơn trong kia.
Trên bàn thờ, sau tấm ảnh ốc, một tấm đá bia khắc dòng chữ: Liệt sĩ Kiên Cường tức Lại Văn ốc hy sinh ngày...
Ngày trước, có lần ông Ngải đã kể như tâm sự với tôi ông vào hợp tác sớm vì ông tin ở Chính Phủ, con ông lớn lên trông vào hợp tác, chứ vợ chồng già rồi chết rồi, con cái biết nhờ cậy ai. Nhưng bây giờ ông Ngải không nói chuyện ốc, có nói thì cứ như ốc vẫn đứng đâu đấy trong nhà.
Tiếng xe máy xè xè ngoài đê. Khế về. Con gà trống, thẻ hương buộc trên túi trước tay lái. Tôi bảo Khế:
- Bây giờ cháu về...
Khế nói:
- Cháu ở lại với bác.
- Nhà mong thì sao?
Cháu đã vào uỷ ban gọi nhờ điện thoại, nhà cháu yên chí rồi.
Ông Ngải bỗng nói góp:
- Xã này có điện mồm rồi, chưa có điện đèn. Chỉ nghe nói mà tôi đã ghê cái điện đèn. Thấy bảo có nơi mắc điện bẫy chuột bãy cá, điện chạy sang người giật chết nhiều người lắm.
Khế đã nhanh nhẹn bắc bếp ngoài bờ ao đun nước làm gà. Tôi vào đặt thẻ hương lên giường thờ, thắp nén hương mới. Ông Ngải lại đã ngồi ngoài búi tre.
Cả ngày ông quanh quẩn đấy. Ông đem ra cái áo bộ đội- chắc áo của ốc để nhà, ông mặc thêm vào.
Trời chiều đã se lạnh. Tôi đỡ ông xỏ tay áo, lộ mảng xương sườn gồ ghề. Bao nhiêu năm rồi, ông Ngải ngồi bên búi tre lép, ngày ngày mọi việc trôi qua như dòng sông quanh ngoài chân tre. Tôi cũng đã móm mất cả một hàm răng rồi mà ơ hay, ông lão vẫn còn răng cửa như ngày trước, buổi chiều vàng mùa lúa, mùi rơm mùi thóc mới, con trâu kéo đá. Không biết có còn cái sân trâu kéo đá không. Nhưng vẫn đây, cái búi tre cổ thụ búi tre thấp lè tè đốt thẳng không gai, búi tre trâu cọ lưng nhẵn thín trông ra miếng ruộng xuống bờ sông, bàn tay ông Ngải đã cuốc nên. Cũng đồng đất ấy, nhưng chẳng ai nhắc đến thời hợp tác xã. Người đòi hay tránh cái đau, cái hèn kém cả đến trong ăn nói cũng kiêng những tiếng thô, tiếng bỗ bã.
Một con trâu vào xóm. Đường ngõ vướng tường và nhà cao, chân trâu bước âm âm rời rạc như tiếng chày giã bèo. Rồi ló ra con trâu đi, một bé cưỡi trâu, một người đàn bà vai vác như cái sào, như cây mía, một bé quảy gánh cỏ rảo bước như chạy. Ông Ngải không nhìn ra, nhưng nói:
- Mẹ con nhà nó.
Nói rồi ông ngước mặt:
- Anh Tư về ---~~~mucluc~~~--- ---~~~cungtacgia~~~---
!!!247_2.htm!!!chơi, mẹ Hến à!
Cô Hến ngả nón. Cô Hến chỉ bé sắt người lại còn thì vẫn như trước, cứ hao hao mà không khác mấy.
- Anh mới về. Mấy chục năm rồi...
- Năm nay cô bao nhiêu tuổi, cứ trừ đi khoảng mười lăm năm thì là bấy nhiêu lâu.
- Tính làm gì cho già người. Trông anh vẫn thế, bố em mà không gọi tên. em vẫn nhận ra.
- Cô với cháu đi làm đồng về. Thằng bé cưỡi trâu này ngày trước nằm võng phải không?
- Em vào trong xóm mua chuối.
- Có lần tôi đi với vợ chồng cô khiêng buồng chuối xuống chợ Diêm.
- Anh nhớ dai quá. Nhưng bây giờ không khó nhọc thế nữa. Em đi các nhà có chuối, được giá thì mua để đấy Đến hẹn có xe công nông về chở xuống Diêm.
Mà cũng không phải bán chợ, đem xuống tàu hết. Làm sao mà các nước người ta ăn chuối xanh khoẻ thật lực bao nhiêu cũng bỏ vào tàu tải đi bằng hết.
- Thế thì cô là lái chuối.
- Lèo lái chẳng ra sao, có điều cũng đỡ vất. Nhưng thừa người lại thiếu việc. Không còn gian dối như cái hồi hợp tác năm xưa cứ bầy việc ra để gãi công điểm.
Tôi hỏi:
- Anh Toàn nhà cô đâu?
- Đấy thừa người thiếu việc là cái tích ấy. Nhà em đi bộ đội về, cả nhà em với ông, bác ốc liệt sĩ vẫn được tính, có mấy sào mẫu ruộng, con trâu với cái máy đập thuê nó nuốt sạch việc, nửa năm làm nửa năm chơi nhong nhóng. Báo cáo với anh, nhà em lên Hà Nội làm xế lô. Có khi anh gặp mà không nhận ra thôi. Đến mùa thì về đỡ đần việc nhà. Cày cuốc ra hạt gạo, thì đồng tiền lại hiếm Chẳng đạp cái xế lô thì đào đâu ra tiền làm nhà, trát sân, lại tiêu pha cho các cháu đi học. Thằng nhớn cũng thôi học rồi, chưa đến tuổi tuyển quân, đương đòi xuống Diêm làm cửu vạn, dưới ấy bây giờ còn vui hơn Hà Nội. Cả làng, cả vùng kéo ra Diêm bốc vác, có nguời sắm xe máy chuyển hàng cho nhanh. Để nhà em về, chuyến này chúng em tính. Có khi nhà em cũng về làm dưới Diêm cho gần gũi cửa nhà, anh nhỉ?
Cô Hến lại kể:
- Nhà em bảo em lên ở Hà Nội. Giàu có nhà quê không bằng ngồi lê Kẻ Chợ, vẫn đồn thế mà. Người hèn đớn cũng kiếm được, không mất bữa. Gánh đồng nát mà lãi quan viên. Nhà em bảo thế, em cũng đã lên xem sao.
Rồi cô Hến cười rúm mặt lại:
- Chưa nổi phiên chợ em phải nhảo về. Kệch đến ngày xuống lỗ
- Thủ đô đấy, mà cô chê a?
- Mỗi tối thuê cái chiếu nằm gầm cầu, có tiền bạc của nả thì gối đầu, giắt lên ngực. Bốn bên lủng củng người nằm, nói anh bỏ lỗi, nó đéo nhau huỳnh huỵch rồi lại chửi nhau, quát nhau to tiếng hơn ô tô chạy ngoài đường. Cả đêm không tải nào chợp mắt, ăn cơm lại oẹ ra, ốm đến nơi. Thế là cút ngay. Thuê kẹo em cũng không bao giờ dám lên Hà Nội nữa.
- Anh ấy ở Hà Nội cả năm, cả tháng thì sao!
- Có cái chiếu nằm tơ hơ không màn mùng, muỗi như chấu. Em bảo cho nhà em ở trên ấy tha hồ vơ váo con nào cũng được. Nói ra nặng thế chứ nhà em hiền lành, vài ba tháng lại đem tiền về, cả quần áo các con cũng lo tươm tất. Tội nghiệp, anh Quán còn trẻ, khéo chỉ bằng tuổi nhà em, thế mà đã mất, ốm thế nào ạ?
- Sau này chú ấy để râu, lọm khọm lắm.
- Để râu thì để râu, trẻ thì vẫn trẻ chứ.
ở sân sau, con trâu giẫm đứt cái mành mành che chuồng xí, hai con cô Hến hí hoáy buộc lại, xong rồi ra xúm quanh anh Khế ôm. Khế đã nhanh lại khéo tay. Khế làm gà, cô Hến vo lẻ gạo nấu cơm nếp. Đun bếp lá tre, một mình Khế tay dao tay thớt làm cả.
Tôi khen thì Khế bảo: “ ở bên Tây cháu cũng chân bếp núc, những thằng lười đi làm về thuê mình làm. Cũng kiếm thêm tí ti".
Ông Ngải bước vào trong nhà. Mới biết lúc nãy ông mặc thêm cái áo bộ đội không phải vì chiều gió heo mà ông mặc áo cho tề chỉnh. Ông lấy thẻ hương, rút hai nén cắm lên bình rồi vái, lẩm nhẩm khấn, lại nói như nhắn:
- Anh Tư về chơi, có mâm cơm cúng. Mẹ con nhà mày về ăn với cả nhà.
Mọi người đã vào mâm. Ông Ngải ngồi tựa lưng vào tường, nhìn ơ hờ. Cô Hến nói: “Ông em dạo này có chứng nghẹn, mắt lại kém, cứ vừa ăn vừa thở, lâu mới xong bữa". Ông Ngải cầm đũa. Ông và miếng cơm, nhai mãi. Quả là ông hay nghẹn. Cô Hến đã mua về một lẻ rượu. Ông Ngải vẫn không rượu như ngày trước.
Còn tôi, đụng đến rượu thì phải có sự thế nào, chẳng vui cũng chẳng cơn cớ gì mà uống, tôi và Khế cũng chỉ đểnh đoảng một chén. ánh cái đèn phao treo sáng cả gian nhà, bữa chén buồn buồn.
Ông Ngải nói:
- Có anh về tôi vui không biết nói thế nào cho hết, không ăn được mà cái lưng không cho ngồi lâu. Hai ông cháu cứ cơm rượu tự nhiên, tôi phải đi ngả lưng.
Sang canh tôi dậy nấu nước thì anh ra uống với tôi.
Ngày trước hôm nào anh cũng uống chè sớm. Rồi anh có nghiện không? ừ mà rượu Tây rượu Tàu, chứ nghiện đâu cái nước chè nhà quê!
Cô Hến nói:
- Đêm nay giở gió, ông không được ra ngoài bụi. Mà nhà có khách, ai lại nằm bờ ao. Ông em lẩn thẩn lắm, cứ bảo ra ngoài ấy dễ ngủ.
Ông Ngải nói:
- Hay là bố con anh ra với tôi. Cái lá chuối khô, ấm hơn chăn bông.
Cô Hến lại bảo ông Ngải:
Cháu nó giải lá chuối phản trong nhà rồi. Cả chỗ nằm cho hai ông con anh Tư.
Ông Ngải ngồi im rồi đứng dậy, nhưng ông không ra búi tre mà sang cái phản bên. ổ lá chuối khô hai thằng cháu đã ôm vào từ lúc nào.
Tôi nói:
- Ông Ngải này!
Ông Ngải sột soạt cựa quậy trong ổ lá. Tôi ghé xuống:
Có cái quà biếu ông. Ông có nhớ hôm tôi buộc cọc dây galen lên cây cau ông nghe galen nói eo éo, cái này còn hơn galen nhiều.
- à!
Tôi lấy trong ba lô ra chiếc đài National bằng bàn tay chạy điện chạy pin đều được, mà nhà văn Nhật Ôta đã cho tôi hôm chia tay ở Đacgiơlinh. Tôi cũng dùng từ ngày ấy, cái đài vẫn tốt. Từ lúc Ôta cho đài, không hiểu liên tưởng thế nào tôi đã nghĩ có thể rồi một ngày tôi đem về biếu ông Ngải. Xuống đây, cũng có phần trong ngụ ý việc vui ấy.
Ông Ngải nghiêng đầu lên. Tôi nói thong thả lại câu vừa rồi và giơ cái đài. Ông Ngải lắc đầu.
- Tôi không... tôi quên cả rồi.
Cô Hến nói:
- Ngày trước ông cháu mê galen nghe suốt đêm. Sau có cái đài chạy pin, rồi ông cháu đem bổ đài ra bóc vỏ làm đóm.
Khế hỏi ngơ ngẩn:
- Lạ nhỉ, đài hát vui lắm.
Cô Hến rầu rầu:
- Cứ nhở nghe nói đến thương binh liệt sĩ ông cháu tắt đài ngay. Ông cháu sợ.
Có một bóng người lù lủ dật dờ vàò. Tiếng thều thào:
- Anh Tư về chơi, còn nhớ tôi không? Sự, thằng Sự đây mà...
Tôi reo lên:
- Anh Sự! Quên thế nào được. Mạnh khoẻ chứ. Định sáng mai sang anh.
- Không mạnh, cũng không khoẻ. Sang tôi nhé.
Sự ngồi ghé vào ánh đèn. Trông rõ một bộ xương run run ngồi. Chưa thấy người nào gầy vêu vao nhường này. Tôi hỏi nửa thật nửa đùa:
- Lo nghĩ sao mà rạc cả người thế? Chị ấy với các cháu thế nào?
- Tôi phải cái chứng ho, ho bệnh anh ạ. Trông anh cũng già, chúng mình già cả rồi. Chóng quá Thôi đã khuya, anh đi nghỉ chả mệt. Mời anh sáng mai, anh với cậu này sang bên tôi rượu cháo lòng. Ông Ngải nữa, mời ông. Ngoài đầu xóm có nhà mổ lợn lòng sốt ăn được.
Không đọi tôi trả lời, Sự lại lù đù về. Bước lẩy bẩy mà cái cách ăn nói “dứt điểm” vẫn nóng như lửa.
Cô Hến nói:
- Không phái bác ấy ốm, mà bác ấy nghiện đấy.
- Nghiện cái gì?
- Thuốc phiện ạ, nặng lắm. Bác gái thấy để ở ngoài Diêm không tiện vì khách khứa, buôn bán ra vào. Mà nghiện ngập thì ở làng nước còn thông cảm chứ ngoài Diêm người ta bắt đi cai rồi.
- Nhà bác Sự ra ở Diêm rồi sao?
Cô Hến kêu lên:
- ấy chết, từ nãy quên kể, nhà bác Sự bây giờ giàu nhất vùng chứ lại chả nhất làng. Bác gái với cái Soi, đảm lắm. Hai mẹ con buôn hàng tàu đỗ ở ngoài bể. Mối lái các nơi về cất hàng lúc nào cũng đầy nhà khảch. Đủ thứ, xe máy, đồng hồ, tủ lạnh, buôn cả người nữa. Nhà em mà bỏ xế lô cũng phải ra xin việc nhà ấy. Con Soi diện mốt ăn đứt gái Hà Nội kia. Sáng mai anh sang chơi, bác Sự tốt bụng mời thật đấy. Nhà trong này cũng sang hơn cả nhà chủ tịch. Điện thoại nói chuyện bắt vào tận tai, sướng chưa!
Nhưng rồi cô Hến chép miệng:
- Nứt đố nổ vách thế mà con cái hỏng ráo. Hai thằng con trai thì ngồi ăn cơm nhà đá. Còn cái Soi ra ngoài tàu ngủ với trăm thằng, cả mẹ nó...
- Già mõ ra rồi.
- Bà lão cũng chẳng tha thằng nào. Có thế mới giàu như điên.
Tôi tặc lưỡi:
- Những nhà có của ở đâu cũng thế.
Trong ổ lá chuối, ông Ngải đã nằm im từ lâu. Ông vẫn quen ngủ sớm hay là ông trằn trọc trong im lặng.
Khuya rồi, tôi quá giấc cũng không chợp mắt được. Quả nhiên, ông Ngải đã ra ngồi uống nước từ lúc gà chưa gáy. Mọi thứ chè vò, ấm bát các cháu đã sắp sẵn. Thói quen đã khoẻ hơn cả nỗi già nua. Ông Ngải vẫn một mình một bóng in trên vách. Tôi ra với ông lại bởi không ngủ được. Đã lâu mới lại được nếm cái vị chè vò chát mà đậm giọng. Ngày trước thì ông đã chuyện ran rỉ, nhưng bây giờ chỉ lặng im.
Nhà anh Sự khang trang thật, không còn lù lù đống cây rơm ở góc sân. Năm gian mái ngói âm dương, sân lát gạch hoa từ thềm ra tận bờ ao, cổng xây hai cột trụ như cổng đình. Tôi đã nhắc là hôm qua anh Sự mời ông Ngải sang ăn sáng. Ông lắc đầu “Cả đời có ăn sáng bao giờ. Anh biết đấy. Anh kiếu hộ tôi".
Trong nhà, gian giữa, bộ ghế xa lông bóng cánh gián. Trên mặt tủ chè, đặt chiếc choé đồng sáng nhoáng. Gian bên trống hốc, mọi cái sang trọng lẫn với lạnh lẽo, tựa như cái nhà không người. Lạ là trông thấy máy điện thoại kia, nhưng không thấy đài, vắng tiếng nói tiếng hát rộn rã mà các nhà hợm của hay mở cả ngày. Có lẽ bởi người nghiện sợ tiếng ồn. Trên cái sập gụ; Sự quấn chăn chùm đầu, đương hi hoáy nạo sái. Anh đẩy cái gối, mời tôi nằm bên chiếu. Đã lâu mới lại trông thấy cái bàn đèn kiểu cách cấu kỳ. Năm mới giải phóng, vào Sài Gòn, Điều rủ tôi đi tiệm hút ở chợ Cũ. Tôi đã toan đi, rồi lại thôi, bởi vì nhớ có lần Nguyễn Tuân đem ra Hà Nội cái gối đầu lấy ở một tiệm hút, vẫn cái gối sành trắng hếu, rỗng ruột, trong nhét cái giẻ lau đen xỉn, trước kia đã thấy những cái gối lạnh rợn mắt này trong tiệm hút chui rúc ở Hà Nội, ở Chợ Lớn, ngõ Sầm Công cũng như đường Cây Mai, tôi ghê ghê lợm giọng.
Rồi ông Nguyễn cũng vứt cái gối ấy ngoài hiên, chỗ chai lọ đồng nát. Dẫu ở nhà ông Hy Chả Cá, cái bàn đèn riêng gọn ghẽ, rồi lên vùng cao, chiếc dọc tẩu làm bằng đốt hóp đá, tôi cũng không để ý, nhưng bàn đèn của Sự thì chưa được thấy ở đâu. Chiếc khay gỗ đen tuyền, chụp đèn pha lê xanh nhạt, cái dọc tẩu khảm trai lấp lánh, những cái tiêm, cái nạo, cái khoe bằng kền bằng bạc nhoang nhoáng. Các thứ đồ lề của làng bẹp khác mắt này chắc phải chuốc tận các tổ hút lò hút bên Ma Cao, Hồng Kông mới có được
Tôi bảo Sự:
- Để tôi tiêm cho.
Sự cười, miệng mếu nhợt nhạt như rách ra.
- Anh cũng biết tiêm thuốc a?
Thật tôi cũng chỉ trông người ta tiêm, thấy chẳng phức tạp gì. Tôi hơ thuốc rồi vê lại, nghiêng vào ngọn đèn vun thành cục nướng xèo xèo bên lỗ nhĩ rồi đưa miệng dọc tẩu sang cho Sự.
Sự nói:
- Mời anh hút trước.
- Vui với anh thôi, tôi không hút.
Cũng không ép tôi thêm, Sự gò lưng đến rụt cổ, cong hai vai kéo điếu thuốc rồi ngồi lên, chiêu ngụm nước hãm bát nước chè vò đặc sánh.- “Anh tiêm được đấy. Biết tiêm mà không hút, ừ, tôi phải học anh, nhưng tôi đắm đuối quá rồi, anh ạ. Sáng ngày ra tôi kéo sáu điếu cả thuốc cả sái mới mở được mắt. Tôi đã bảo cả rồi, các thứ ăn uống đều làm bên kia, sắp mang sang.”
Tôi hỏi Sự về những người, những việc tôi còn nhớ. Tôi không động câu nào về nhà anh. Nguồn cơn buôn bán giàu có; tại sao vướng vào vòng nghiện ngập; anh có còn là đảng viên không. Tôi e Sự khó nói hay là tôi ngại. Có lẽ cả hai.
- Ông Dũng trong làng hồi này thế nảo?
- Ra tỉnh mở hàng cơm một dạo. Chết đã lâu rồi.
- Lại thắt cổ à?
- ốm bệnh già thôi.
- Cậu Quốc...
- Đại uý Quốc. Rồi cậu ấy đi bộ đội thiết giáp. Xe tăng vào chiếm dinh Độc Lập đấy.
Nói câu ấy, Sự nhô vai, cổ nổi gân đũa, hăng lên như khoe chiến công của mình.
- Bây giờ làm hội Cựu chiến binh, chủ tịch xã kiêm bí thư đảng uỷ...
Chỉ hỏi qua loa mà ra bao nhiêu chuyện và đời người khác nhau. Nếu ở lại đây vài hôm, vào trong làng, gặp lại những cô Dăm, cô Vĩnh thì chắc đêm nào cũng còn mất ngủ nữa.
Tôi nhận ra Sự nói vẫn sang sảng, anh Sự bẹp tai mà làm như vẻ ta đây. Tôi không hào hứng chuyện đồng ruộng và làng xóm, tôi hỏi chuyện khác.
Nghe ngoài Diêm đương xây cảng lớn, tàu nghìn tấn vào được. Anh có hay xuống Diêm chơi không?
Sự chau mặt:
- Không! Xuống làm chó gì!
Một cô bé quảy một gánh hai cái thúng con con bước vào. Một bên nồi cháo đương sôi bốc trắng kẽ vung, bắc trên cái bếp dầu vặn nhỏ lửa. Quang bên kia, cái mâm đậy lồng bàn- “Mày giái chiếu rời dọn ra". Đã gọn gàng cả, hai đĩa to đủ cả lòng, dồi gan, cổ hũ... Cái rổ con xếp mở húng chó, mùi tàu, quả chanh và mấy quả ớt chín vàng bên bát mắm tôm. Chai rượu trắng đã đặt đầu mâm với đũa bát tình tươm. Con bé không phải người nhà hàng, nó được thuê cơm nước hầu ông bẹp Sự.
Tiếng xe máy xình xịch vào đầu xóm.
Sự lẩm bẩm, không nhìn ra.
- Mẹ con nó về. Tôi đã điện thoại bảo có anh sáng nay sang chơi.
Vào trong ngõ, một cái đrim màu mận chồm thẳng qua bậc cổng. Người đàn bà cưỡi ghì như hiếp cái xe. Cứ như những chuyện cô Hến nói thì tôi đoán nó là cái Soi, chứ làm sao tôi nhận ra con bé ngày trước đứng ơ mặt nhìn nghe cái galen ở nhà ông Ngải và con bé xúc thóc trộm hợp tác, mấy mẹ con suýt đánh nhau với bố. Nó đã cứng tuồi, nhưng ăn mặc như trẻ trung đương thì. Một cô “tiếp thị” đúng mốt, áo thụng tám túi, đeo cái túi xách hai ngăn. Tóc cắt vét tém, bôi son môi, quầng mắt xanh, váy bò cỡn trên đầu gối, thừa ra nửa bắp chân trên đôi giày da nâu đế cao. Đằng sau, ngồi một bà béo ục ịch, chắc mụ Sự đây. Mụ cũng sấy tóc cũn, quần phăng đen, sơ mi hồng dài tay, mặt bự phấn, cổ đeo dây chuyền vàng to như cái xích mèo. Nước hoa đã phả vào nhà thơm sực nức.
Hai mẹ con bước vào, như không trông thấy bố Sự ngồi đấy. Tiếng cười khành khạch và một câu chào hàng:
- ối kìa anh Tư. Vẫn thế, trẻ ra đấy.
- Tôi không nhận được chị.
- Cái thời mỡ màng theo con gà ngày mùa nhặt thóc đã đút bếp rồi, anh ơi!
Mụ hỏi:
- Xe anh để đâu, ngoài đình à? Khéo nó tháo mất..
- Để bên ông Ngải. Các cháu nhà cô Hến cẩn thận, đã chằng cả cuộn chão vào hai bánh. Chú lái của tôi đây.
Tưởng cái ô tô hóa ra cái xe ôm, thế là mọi chuyện đểnh đoảng dần rồi nhạt thếch. Cái Soi ngồi bên sa lông, chốc lại vóng sang giục mẹ: “Nhanh lên! Nhanh lên! ”, chẳng giữ ý khách lạ. Mụ Sự cũng không để mắt đến mâm cháo. Có lẽ vì tôi và mụ câu chuyện chẳng còn ăn nhập gì. Mụ nói: ” Sáng nay khách tôi ngoài tàu hẹn. Có thong thả thì mời anh ra Diêm chơi". Rồi cười rung má, đá mắt nhìn Khế ôm. Mụ nói lửng, ỡm ở không vẻ mời mọc, hiểu sao thì hiểu.
ấy thế mới là đời bây giờ. Tôi nghĩ chua chát. “Thằng Sự còn mấy hơi mà chặt cổ thằng nào nữa, chuyện cổ tích lắm lắm rồi".
Cái Soi vùng vằng cứ ra nổ máy xe. Tôi không thể còn đầu mối nào chắp được chuyện những cái cô Dăm, chị Sự, cô Vĩnh năm xưa nói “chúng em như con gà, ngày mùa thì gà béo” với mụ Sự bự rự son phấn này. Đến lúc tôi trông thấy mụ ngồi, đôi dép đặt lên cái vấu sau xe, chỗ gót chân mụ còn hằn vết sẹo khía đen nẻ miếng thì tôi gật gù khoan khoái như đã được an ủi là tìm ra cái dấu nối rồi.
Sự ngồi yên, hai con mắt như lồi ra. Khi tiếng xe đã lên trên đê, Sự văng một câu dõng dạc:
- Đồ đĩ rạc!
Sức lực gân cổ Sự dồn cả vào câu chửi sau lưng ấy. Rồi rót rượu, nói:
- Mời anh nhắm tự nhiên. Nồi cháo sôi cạn cả.
Bữa chén cụt hứng, đâm loãng hẳn.
Tôi về, ông Ngải đã ra ngồi bên búi tre lép đan rỏ. Hai thằng cu nhà Hến đã đi kéo riu tép. Con trâu lên trên mặt đê gặm cỏ. Rỗi rãi, trâu được thả đi ăn từ sớm. Xóm làng bày ra những trái ngược, nhưng cũng dễ cắt nghĩa. Chỉ không biết rồi mai kia sẽ thế nào.
Tiếng gọi nghé văng vẳng trong cánh đồng.
Nghé ơi... nghé ơ...
Chân đi thon thót
Vọt chẳng bén lưng
Bé ăn chơi dưng
Lớn phải đi cày
Đi cho đến bờ đẽo lại
Đập rợ vào lưng, là vặt bước vào
Đi cho thẳng đườig cày, cho ngay đường bừa
Chân đi tai nghe, dạ nhớ lâý
Chớ đi quàng, phải đòn
Nghé ơ...
Bốn phía phẳng lặng đồng không. Chẳng trông thấy ai gọi nghé. Chỉ là tai tôi phảng phất tưởng nhớ mà thôi.

Truyện Chiều Chiều ---~~~cungtacgia~~~---

38 Tác phẩm

--!!tach_noi_dung!!--


Nguồn: Hùng
Được bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên
vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--