Cao Bá Quát hiệu là Chu Thần người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, con một nhà nho nổi tiếng hay chữ và có đức độ. Họ Cao ở làng ấy vốn là họ lớn, người trong họ nối đời khoa bảng xuất thân; danh vọng nhất là Cao Bá Hiển làm đến Binh bộ Thượng thư triều Lê kiêm chức Tham tụng (tể tướng) ở phủ chúa Trịnh. Từ nhỏ, Quát đã thông minh sáng dạ, ăn nói đanh thép, điệu bộ hùng dũng, chí khí khác thường. Lên năm tuổi, cha đã cho học chữ. Quát học đâu nhớ đấy, lại thêm chữ viết đẹp như rồng bay phượng múa nên sớm nổi tiếng là thần đồng. Mười tuổi, Quát có tài nhả ngọc phun châu, đặt bút là thành thơ. Càng lớn lên, Quát càng tỏ ra có khí phách ngang tàng, không chịu cúi đầu khuất phục cường quyền. Tương truyền, làng Quát có người lý trưởng cậy thế quan trên rất hống hách, lạm thu thuế của dân mà cả làng sợ uy không ai dám nói. Quát biết chuyện, tức lắm, nhân việc lý trưởng đứng ra thuê thợ đắp đôi voi ở đình bèn làm bài thơ đem đến dán. Thơ rằng: Khen ai khéo khéo đắp đôi voi Ðủ cả đầu đuôi, đủ cả vòi Chỉ có cái kia sao chẳng thấy Hay là thầy lý bớt đi rồi! Lý trưởng biết là Quát nói xỏ mình, song đành bấm bụng làm ngơ. Một lần khác, nghe tin Minh Mạng lên ngôi vua và ra Bắc để nhận phong của vua Thanh, Quát cũng ra Hà Nội xem vua. Hôm đó, trời nắng quá, Quát thấy bức bối trong mình bèn cởi quần áo xuống Hồ Tây tắm. Bất ngờ, Minh Mạng ngự chơi đền Trấn Võ. Lính cận vệ dẹp đường phát hiện ra Quát dưới hồ bèn gọi lên. Qúat giả đò sợ hãi không kịp mặc quần áo cứ trần như nhộng xin chịu trói. Vừa lúc, kiệu vua xịch đến. Minh Mạng thấy thế cho là hỗn láo vô lễ thì quở mắng. Quát nói mình là học trò, thật tình không biết lối vua đi, xin vua tha tội. Vua bảo: - Nếu ngươi là học trò, trẫm ra cho câu đối, đối được thì tha, bằng không phải phạt chục roi. Nhân thấy dưới hồ có con cá lớn đuổi bắt cá bé, Minh Mạng tức cảnh đọc rằng: - Nước trong leo lẻo, cá đớp cá. Quát gãi đầu gãi tai xin vua có tha tội mới dám đối, Minh Mạng thuận cho. Ðược lời, Quát đối luôn: - Trời nắng chang chang, người trói người. Minh Mạng biết mình hớ để Quát xấc xược, đánh đồng vua với Quát song trót hứa tha tội nên đành giả bộ thản nhiên khen hay rồi cho đi. Quát học trường nào đều được thầy yêu bạn quý. Cũng như Nguyễn Văn Siêu, ông nổi tiếng một thời ở Thăng Long là bậc văn hay chữ tốt, học rộng biết nhiều. Người đời phục tài mới gọi là thần Siêu, thánh Quát. Bọn quan đ ương thời thấy vậy ghen ghét, định bụng hễ Quát đi thi thì tìm cách bới móc đánh hỏng. Bởi thế, năm Tân Mão đời Minh Mạng thứ mười hai (1831), Quát thi ở Thăng Long đậu cử nhân. Nhưng khi vào kinh thi hội, khảo quan chấm quyển thấy giọng văn mạnh mẽ ngang tàng khác thường thì bảo nhau: - Quyển này hẳn là khẩu khí của Cao Bá Quát. Bèn đánh hỏng. Mấy khoá sau, khảo quan vẫn dò ra quyển của Quát nên Quát vẫn không đậu. Quát bực tức bỏ về. Năm Tân Sửu đời vua Thiệu Trị thứ nhất (1841), tổng đốc Bắc Ninh thấy Quát là người có tài mà chưa đươc dùng nên dâng biểu về kinh tiến cử. Thiệu Trị triệu Quát vào Huế nhưng chỉ cho làm chức quan nhỏ là Hành tẩu bộ Lễ. Lúc ấy, Quát đã ngót bốn mươi tuổi. Ðược vào triều, Quát thấy rõ vua quan đại thần rặt một lũ ngu dốt lại kiêu căng hống hách, không biết trọng người tài. Bởi thế, Quát càng thêm chán ghét, hay mượn lời châm chọc. Một hôm, vua Tự Ðức hỏi Quát về việc học vấn trong nước, kể từ vua quan đến thứ dân trăm họ. Biết Tự Ðức vẫn hợm mình là ông vua hay chữ, Quát thản nhiên nói: - Tâu bệ hạ, cứ như ý hạ thần xét thì cả thiên hạ có bốn bồ chữ. Bệ hạ kể ra cũng chưa được một bồ nhưng thần cũng kính dâng bệ hạ cả bồ, một bồ thì đem chia cho nho sĩ trong nước, còn hai bồ kia là phần của hạ thần. Lại một hôm khác, vua Tự Ðức nằm mơ thấy mình đọc được hai câu thơ chữ nho nhưng mỗi câu lại chen vào hai chữ nôm vua lấy làm lạ mới đem kể lại và truyền bảo các quan chép thử chơi: Viên trung oanh chuyển khề khà ngữ Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai (Nghĩa là: trong vườn, chim oanh học nói, tiếng khề khà. Ngoài đồng, hoa đào đâm bông, nở lấm tấm). Vừa dứt lời đã thấy Quát quỳ xuống tâu: - Tâu bệ hạ, hai câu đó không có gì lạ. Ðó là hai câu tam tứ (thứ ba, thứ tư) của bài thơ thần đã được xem. Vua bảo Quát đọc cho nghe. Quát ứng khẩu đọc ngay. Thật ra Quát dựa vào hai câu thơ của vua mà ghép thêm sáu câu khác thành bài, trong đó có câu: Khù khờ thi tứ đa nhân thức Khệnh khạng tương lai vấn tú tài (Nghĩa là: khù khờ không biết thơ ấy nhiều người biết. Lại còn khệnh khạng đem ra hỏi người tài). Vua biết Quát có ý xược, song không thể bắt bẻ được đành bỏ qua. Một buổi chầu, không biết vì lẽ gì, hai viên đại thần cãi lộn với nhau sau đi đến chỗ xô xát đấm đá. Khi ấy, Quát cũng có mặt nhưng giả bộ không hay, bỏ mặc. Quan Ngự sử đem cả hai viên đại thần ra hạch tội. Việc đến tai vua, vua triệu Quát vào để làm nhân chứng. Quát vốn chẳng ưa gì lũ triều thần kia hợm hĩnh, tranh nhau quyền hành, đục khoét, nay được vua bảo khai thì khai. Chẳng biết hư thực thế nào nhưng Quát tâu: - Câu chuyện ra sao không rõ; hai bên cãi nhau rất to; bên này bảo bên kia: chó! Bên kia bảo bên này: chó! Hai bên đều là chó, cuối cùng thì dùng võ, thần thấy nguy to vội co giò, thần chạy! Các quan lớn nhỏ đều sạm mặt. Vì vậy, họ đem lòng thù oán Quát. Cho nên, mới làm quan vài năm, Quát mấy lần bị giáng. Sau, Quát bị đẩy khỏi kinh đưa ra Bắc, cho làm giáo thụ ở phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây. Việc ấy là vào năm Tân Hợi đời vua Tự Ðức thứ tư (1851). Bấy giờ, gặp nạn dịch, dân chết hàng vạn không kịp chôn. Người nào sống sót lại bị nạn quan lại cường hào đè nén, hà hiếp, vơ vét đến cái tơ cái tóc nên ai nấy đều xơ xác thân tàn, ma dại, phải kéo nhau từng đoàn đi ăn xin. Quát là người có chí khí, thấy dân tình khổ quá mà vua quan nhà Nguyễn đều là một lũ bất tài vô hạnh, hại nước hại dân, nên càng chán ghét. Bởi thế, nhận thức giáo thụ được một năm, đến năm sau Nhâm Tý (1852) ông đã cáo quan bỏ về. Từ bấy giờ, ông càng quyết chí lập nghiệp. Ông đi khắp vùng Hà Nội, Hà Ðông, Hòa Bình, Sơn Tây, Bắc Ninh, Bắc Giang chiêu tập nghĩa sĩ. Từ quan t ước nho gia đến binh lính nông phu nhiều người đã hưởng ứng. Lại có quan lang người Mường là Ðinh Công Mỹ, suất đội Sơn Tây người thái là Bạch Công Trân cũng đem cả binh sĩ theo về. Ðến năm Giáp Dần (1854), thanh thế Cao Bá Quát đã lớn lắm. Giữa năm ấy, tổng đốc Bắc Ninh là Nguyễn Quốc Hoan nhận đựơc tin cáo giác Cao Bá Quát đang ngấm ngầm hoạt động thì giật mình, cấp báo về kinh. Tự Ðức bèn xuống chiếu truyền cho Nguyễn Quốc Hoan và tổng đốc Hà Ninh (Hà Nội, Ninh Bình) là Lâm Duy Thiếp phải khẩn cấp tróc nã bằng được Cao Bá Quát. Tự Ðức còn treo giải cho ai bắt sống Quát thì thưởng năm trăm lạng bạc, nếu chém lấy đầu đem nộp thì thưởng ba trăm lạng với quan tước lục phẩm. Bọn Hoan, Thiếp sợ tội, một mặt tăng cường tuần tra canh phòng rất ngặt, mặt khác tung quân và thám tử truy lùng khắp nơi nhưng không thấy, chỉ thấy tình hình có vẻ dịu đi, im ắng. Tự Ðức và bọn Hoan, Thiếp đã mừng, tưởng phía Quát sợ uy, không đánh đã vội tan. Ngờ đâu, Quát đã bí mật kéo sang Sơn Tây. Bấy giờ là vào mùa đông năm Giáp Dần (1854). Mấy ngàn nghĩa binh theo Quát họp nhau tại khu rừng ngang, huyện Mỹ Lương (Hà Sơn Bình) làm lễ tế cờ. Lê Duy Cự, một người dòng dõi nhà Lê, được tôn làm minh chủ. Cao Bá Quát làm quốc sư; Ðinh Công Mỹ, Bạch Công Trân, Nguyễn Kim Thanh, Nguyễn Văn Thực đều làm tướng. Sau lại có thêm Nguyễn Khắc Quyết đem một ngàn dân binh từ Bắc Ninh theo đường tắt kéo sang Mỹ Lương, kịp hội sư với nghĩa quân. Quốc sư Cao Bá Quát mừng lắm, mới họp tướng sĩ lại bảo: - Bọn ta đều là người trong khoa giáp, binh nghiệp, chí khí có kém ai. Nay gặp phải đời vua hèn hạ, ngu dốt, khinh người như cỏ rác, quan thì tham tàn nhũng nhiễu khiến dân khổ trăm đường, bởi thế bọn ta phải vào rừng núi nổi nghĩa binh như đức Cao Hoàng xưa. Các ông nên gắng sức cho nghiệp lớn mau thành! Nói đoạn, chia quân làm năm đạo giao cho năm tướng bí mật dẫn đi mai phục sẵn, hẹn đến giữa tháng mười thì nhất tề đánh chiếm các phủ thành Ứng Hòa, Thanh Oai, An Sơn (thuộc Quốc Oai), Vĩnh Tường, Tam Dương. Quát thì đóng ở Mỹ Lương để tiện đường tiếp viện. Tháng mười năm ấy, nghĩa binh thình lình nổi lên đánh tới. Quân triều đình bị đánh úp bất ngờ nên thua to. Tin dữ bay vào Huế. Tự Ðức cả sợ nửa đêm vội sai một bầy tướng tá điều ngay hai ngàn rưỡi quân Thanh Nghệ đem súng thần công theo đường thủy gấp đường ra Bắc ứng cứu. Lại khẩn truyền cho tổng trấn Bắc Thành phải dốc hết binh lực cùng đánh dẹp. Bởi thế, quân triều đình đông tới hàng vạn. Chúng ồ ạt tràn lên vây hãm cướp lại các phủ thành. Nghĩa binh chống lại hăng lắm,nhưng quân ít thế cô, ngày càng bất lợi. Tướng Nguyễn Khắc Quyết bị bắt sống. Các cánh quân khác cũng bị bắt, bị giết, tổn hại nhiều. Cuối cùng, quân triều đình đánh dồn vào An Sơn. Tình thế gấp lắm. Quốc sư họ Cao quyết định thân dẫn quân đi tiếp viện. Tướng sĩ có người can: - Quốc sư đi chuyến này e trúng kế điệu hổ ly s ơn (nhử hổ ra khỏi rừng) của giặc. Xin Quốc sư tính lại để lo chuyện lâu dài về sau. Quát không nghe, khẳng khái nói: - Ta dẫu chết chứ không thể bỏ tướng sĩ trong cơn hoạn nạn! Dứt lời, Quát nai nịt gọn ghẽ nhảy lên ngựa, lập tức dẫn quân bản bộ đi ngay. Mờ sáng hôm sau thì đến, Quát hô quân xông vào đánh luôn. Chẳng dè, viên suất đội triều đình là Ðinh Thế Quang được tin mật báo, ngầm đem pháo thủ phục sẵn đón đường, bất ngờ bắn như đổ đạn vào Quát. Quát trúng đạn tử trận. Cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương sau đó cũng tan dần, nhưng, người đời vẫn không ngớt lời truyền tụng về chí khí và văn tài của Thánh Quát.