1- Ngày nhàn xem truyện "Tam công",Thương người hiền sĩ sinh không gặp đời.Cuộc cờ thúc quý đua bơi,Mấy thu vật đổi sao dời, than ôi!5- Kể từ Thạch Tấn ở ngôi,U Yên mấy quận cắt bồi Khiết Đan,Sinh dân nào xiết bùn than,U Yên trọn cũng giao bàn về Liêu.Theo trong người kiệt rất nhiều,10- Ôm tài giấu tiếng làm tiều, làm ngư.Nước non theo thói ẩn cư,Thờ trên nuôi dưới, nên hư mặc trời.Lại thêm Phật, Lão đua lời,Nghĩ lòng người với đạo đời thêm thương.15- Nhà năm ba gánh cương thường,Phận ai nấy giữ, trọn giường thời thôi.Đời vương đời đế xa rồi,Nay Di mai Hạ biết hồi nào an.Năm trăm vận ở sông vàng,20- Nước còn đương cáu, khôn màng thánh nhân,Đã cam hai chữ "tỵ Tần",Nguồn Đào tìm dấu, non xuân ruỗi miền.Có tên rằng Mộng Thê Triền,Tuổi vừa bốn chục, nhân duyên năm lần,25- Nhà nghèo ở núi Bạch Vân,Dẹp văn theo võ, tách thân làm tiều.Ngày ngày đốn củi rừng Nghiêu,Hái rau non Thuấn, phận nhiều lao đao.Đông Xuyên lại có người hào,30- Tên rằng Tử Phược, họ Bào, làm ngư.Trong (thông?) minh ba chục tuổi dư,Sinh con mười đứa bé thơ thêm nghèo.Ngược xuôi trên nước một chèo,Nay doi mai vịnh, nghề theo lưới chài,35- Họ Bào họ Mộng hòa hai,Trước theo nghề học đều tài bậc trung.Chẳng may gặp buổi đạo cùng,Treo kinh dẹp sử, lánh vòng loạn ly.Người nam kẻ bắc phân đi,40- Nước non rẽ bạn cố tri bấy chầy.Cách nhau mười mấy năm nay,Tình cờ lại đặng một ngày gặp đây.Ngư, Tiều mở tiệc vui vầy,Ngâm thơ, uống rượu, đều bày chí xưa.
- I- Tiều ngâm thơ rằng:Non xanh mấy cụm đội trời thu,Sưu thuế Tây Liêu chẳng đến đầu.Tên đã gác ngoài sân thúc quý,Minh liền dầm giữa suối Sào, Du.Vui lòng bạn cũ thơ vài cuốn,Rảnh việc ngày nay rượu một bầu.Chút phận riêng nương hơi núi rạng,Trăm năm ra sức dọn rừng nhu (nho).II- Ngư ngâm thơ rằng:Nghênh ngang trên nước một thuyền câu,Chèo sóng buồm giong,trải mấy thu.Ngày xế tấm mui che gió Tấn,Đêm chầy bếp lửa chói trời UMặc tình sở ngộ đời trong đực,Vui thú phù sinh bến cạn sâu.Trăm tuổi trọn nhờ duyên cá nước,Dù lòng ngao ngán giữa dòng nhu (nho).
- III- Ngư, tiều hoài cổ ngâm ngụ ưu đạo ý(thử xướng, bỉ họa)Từ thuở Đông Chu xuống đến nay,Đạo đời rậm rạp mấy ai hayHạ Thương đường cũ gai bò lấp,Văn Vũ nền xưa lúa trổ đầy.Năm bá mượn vay, nhân nghĩa mọn.Bảy hùng giành xé, lợi danh bay,Kinh Lân mong dẹp tôi con loạn,Sử Mã khôn ngăn mọi rợ bầy.Dùi mõ Mặc, Dương thêm chộn rộn,Tiếng chuông Phật, Lão rất vang ngầy.Lửa Tần, tro Hạng vừa nguôi dấu,Am Hán, chùa Lương lại réo dầy,Trong đám cửu lưu đều nói tổ,Bên đường tam giáo cũng xưng thầy.Khe Đào, động Lý nhiều đoàn trốn,Rừng Trúc, đình Lan lắm bạn say.Phép báu Thi, Thư dòng mực nát,Màu xuê Lễ, Nhạc nhiễm sương bay,Mấy dòng biển nghiệt chia nguồn nước,Trăm cụm rừng hoang bít cội cây.Hơi chính ngàn năm về cụm núi,Thói tà bốn biển động vàng mây.Ngày nào trời đất an ngôi cũ,Mừng thấy non sông bặt gió tây.
- IV- Du sĩ độc nhân sư thi:Xe ngựa lao xao giữa cõi trần,Biết ai thiện tử, biết ai thần?Nhạc thiều tiếng dứt khôn trông phụng,Sử Lỗ biên rồi khó thấy lân!Khỏe mắt Hi Di trời ngũ quý,Mỏi lòng Gia Cát đất tam phânCông danh chi nữa, ăn rồi ngủ,Mặc lượng cao dày xử với dân
- V- Đạo Dẫn ngâm thơTrời đông sùi sụt gió mưa tây,Đau ốm lòng dân cậy có thầy,Phương cũ vua tôi gìn trước mắt,Mạng nay già trẽ gửi trong tay.Trận đồ tám quẻ còn non nước,Binh pháp năm mùi sẵn cỏ cây.Hỡi bạn Y lâm ai muốn hỏi,Đò xưa bến cũ có ta đây.
- VI- Thập nhị kinh lạc ca(Bài ca về mười hai kinh lạc)Dịch nghĩa:Kinh Thủ Thái dương thông với ruột non,Kinh Túc Thái dương thông với bọng đái,Kinh Thủ Dương minh thông với ruột già,Kinh Túc Dương minh thông với dạ dày,Kinh Thủ Thiếu dương thông với tam tiêu,Kinh Túc Thiếu dương thông với mật,Kinh Thủ Thái âm thông với phổi,Kinh Túc Thái âm thông với lá lách,Kinh Thủ Thiếu âm thông với trái tim,Kinh Túc Thiếu âm thông với thận,Kinh Thủ Quyết âm thông với màng tim,Kinh Túc Quyết âm thông với gan VII- Hựu hữu ca(Lại có bài ca rằng)Dịch nghĩa:Kinh Thái dương thuộc thủy, úng với Thìn,Tuất,thông với ruột non, bọng đái,Kinh Dương minh thuộc kim, ứng với Mão, Dậu,thông với ruột già, dạ dày,Kinh Thiếu dương thuộc hỏa, ứng với Dần, Thân,thông với tam tiêu và mật,Kinh Thái âm thuộc thổ, ứng với Sửu, Mùi,thông với phổi và lá lách,Kinh Thiếu âm thuộc hỏa, ứng với Tý, Ngọ,thông với tim và thận,Kinh Quyết âm thuộc mộc, ứng với Tỵ, Hợi,thông với màng tim và gan.
- VIII.- Thập nhị kinh lạc khí huyết đa thiểu ca(Bài ca về khí huyết nhiều ít của mười hai kinh lạc)Dịch nghĩa:Nhiều khí, nhiều huyết, anh nên nhớ:Kinh Thủ Dương minh tức ruột già, vàKinh Túc Dương minh tức dạ dày.Ít huyết, nhiều khi, có sáu kinh:Tam tiêu, mật, thận, tim, lá lách, và phổi.Nhiều huyết, ít khí chia ra bốn kinh:Bọng đái, ruột non, màng, tim và gan.
- IX - Ngũ hành tương sinh ca(Bài ca về ngũ hành tương sinh)Dịch nghĩa:Mộc sinh hỏa chừ, hỏa sinh thổ,Thổ sinh kim chừ, kim sinh thủy,Thủy sinh mộc chừ, năm mối sinh,Trong khoảng trời đất đều tốt lành.X - Ngũ hành tương khắc ca(bài ca về ngũ hành tương khắc)Dịch nghĩa:Mộc khắc thổ chừ, thổ khắc thủy,Thủy khắc hỏa chừ,hỏa khắc kim,Kim khắc mộc chừ, năm mối khắc,Trong khoảng trời đất thảy tai ương.Ai mà rõ lẽ ngũ hành,400- Việc trong trời đất dữ lành trước hay.Trên thời mưa móc, gió mây,Dưới thời non nước, cỏ cây muôn loài.Giữa thời nhà cửa, đền đài,Năm hành tóm việc ba tài nhỏ to.405- Ví dù tạo hóa mấy lò,Hóa công mấy thợ, một pho ngũ hành.Muốn coi phép ấy cho tinh,Đồ thư Hà Lạc, Dịch kinh rõ bàn.Ngư rằng: Nơi ải Thiên Can,410- Có non Ngũ Vận để toan việc gì?Chưa hay chủ vận là chi?Lại thêm khách vận, sách ghi rộn ràng?Dẫn rằng: Mười chữ thiên can,Anh em thứ lớp, rõ ràng chẳng sai.415- Anh em một gái, một trai,Âm dương chia khác, lâu đài năm phương,Giáp, Ất: mộc, ở đông phương,Bính, Đinh: hỏa, ở nam phương tỏ tường.Mậu, Kỷ: thổ, ở trung ương,420- Canh, Tân: kim, ở tây phương ấy thường.Nhâm, Qúy: thủy, ở bắc phương,Đều rằng chủ vận, sử đương việc trời.Năm ngôi chủ vận chẳng dời,Ngôi nào theo nấy, có lời thơ xưa.
- XI - Chủ vận thi(Bài thơ về chủ vận)Dịch nghĩa:Mộc vận bắt đầu từ tiết Đại hàn ;Hỏa vận bắt đầu từ ba ngày trước tiết Thanh minh;Thổ vận bắt đầu từ ba ngày sau tiết Mang chủng;Kim vận bắt đầu từ sáu ngày sau tiết Lập thu ;Thủy vận bắt đầu từ chín ngày sau tiết Lập đông;Hết vòng rồi trở lại từ đầu, muôn năm vẫn như vậy.
- XII - Khách vận thi(Bài thơ về khách vận)Dịch nghĩa:Giáp Kỷ hóa ra thổ, Ất Canh hóa ra Kim,Đinh Nhâm hóa ra mộc, tất cả thành rừng,Bính tân hóa ra thủy, chảy đi cuồn cuộn,Mậu Quý hóa ra hỏa, bốc lên thành ngọn lửa ở phương Nam.
- XIII. Chủ khí thi(Bài thơ về chủ khí)Dịch nghĩa:Khí đầu tiên là khí Quyết âm (phong mộc) bắt đầu từ tiết Đại hàn.Khí thứ hai là khí quân hỏa, bắt đầu từ tiết Xuân phân.Khí thứ ba là là khí Thiếu dương (tướng hỏa), bắt đầu từ tiết Tiểu mãn.Khí thứ tư là khí thái âm (thấp thổ), bắt đầu từ tiết Đại thử.Khí thứ năm là khí Dương minh (táo kim), bắt đầu từ tiết Thu phân.Khí thứ sáu là khí Thái dương (hàn thủy), bắt đầu từ tiết Tiểu tuyết.