Du Địa Ngục

I. Du Địa Ngục
Tự Trần
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Mô Phật.
Bạch thầy.
Trước kia con là người đại ác, nhưng sớm thức tỉnh tu hành, theo Phật, Pháp, Tăng, trong lúc hành đạo, con đã trải qua bao nhiêu thử thách đắng cay. Số mình dốt nát, Kinh, Luật chẳng thông, phiền một nỗi tuổi già tu muộn. Ngoài đời khảo đảo, trong đạo mỉa mai, biết mình nghiệp nặng, kiếp trước vụng tu. Nên con có nguyện cùng mười phương chư Phật cho con được trả hết nghiệp trong một kiếp này, mong chờ kiếp sau trong sạch mà đi ngay vào đường đạo. Không còn bị oan gia dẫn dắt, nghiệp chướng kéo lôi.
Vì lời dại nguyện đắc thành, nên Diêm chúa cho bắt hồn con xuống Địa ngục để xử án. Ôi, vì mình tạo ác nên phải trả nghiệp thật quá xót xa tê tái. Nào trầm mình nơi biển lạnh, thân thể cứng đờ, nào bị bầy gà, vịt mổ đá, cắn xé tơi bời, nào nuốt lửa toàn thân lên khói, nào ngất xỉu nơi ngục thứ bảy: Vì thấy sự hình phạt quá gớm ghê, nào phải vào núi lửa ở cửa ngục thứ mười, tưởng đâu thân này ra tro mạt.
Đáng lý con phải chết luôn, nhưng ơn trên thấy chúng sanh đời mạt pháp, tội ác chập chồng không tin nhân quả, tưởng đâu chết rồi là hết, nên cho con sống lại để nói chuyện Địa ngục, hầu nhắc nhở bà con cô bác sớm thức tỉnh tu hành.
Đến khi trở về cõi thế, thân con còn phải mang câm, điếc. Thế mà lắm người nông nổi, cho con là tà đạo, dùng lời giả dối để mê hoặc chúng sanh. Như uống nước: Nóng hay lạnh tự mình biết lấy, chớ việc chánh tà lý đạo đã quá phân minh.
Con nghĩ: Đạo Phật là đạo từ bi, lòng xót thương vạn loài đang lặn hụp trong biển khổ sông mê, đồng thời tìm phương giải cứu, để tận diệt gốc Khổ cho chúng sanh. Xét vậy dù cao hay thấp dù thật hay huyền diệu, điều đồng một mục đích dẫn dắt chúng sanh đến bờ giác ngộ giải thoát.
Mô phật.
Nhưng hôm nay thầy chẳng đắn đo lời thề, gạt bỏ tiếng thị phi, cho phép con kể chuyện Địa ngục cho thầy nghe, nhờ thầy chứng minh cho con, nếu như chánh thì thầy bảo con kể để nhắc nhở bà con, cô bác tu hành, còn như tà thì thầy dạy con không nói nữa.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Thích nữ Huệ Hiền Kính bút.
Tục danh Cô Ba Cháo Gà.

Truyện Cô Ba Cháo Gà Du Địa Ngục Thay lời tựa Xuống Địa Ngục Lần Thứ Nhì Khuyến Thiện Vào Núi Lửa Du Địa Ngục Nằm Mộng Chết Đi Địa Ngục Lần Thứ Nhất Quả Báo Cầu Siêu Kết Án Chịu Quả Báo !!!4619_22.htm!!! Đã xem 111591 lần. --!!tach_noi_dung!!--


Luật Trời

--!!tach_noi_dung!!--
Nếu... Người làm việc chẳng lành
Mà sau hiển đạt vang danh lẫy lừng
Người dầu không hại, không trừng
Luật trời ắt chẳng bao dung được nào.
Ham Thích Điều Lành
Điều lành điều phải khá nên ham
Việc ác đừng vui, chớ kiếm tâm
Gặp được điều lành như giải khát
Nghe điều hung giữ tránh xa xăm
Làm lành rất được an vui
Đạo lành to lớn như trời bao la.
Lời Lành
Ta nói lời lành đẹp da nhau
Đừng nen nặng nhẹ khiến người đau
Đừng nên đâm thọc cho sanh chuyện
Đừng ỷ thế thần giọng thấp cao
Lời nói thanh bai ý diệu hiền
Đượm màu chơn thật, đượm tâm thiền
Nghe như giọt nước cam lồ rưới...
Mát mẽ tâm lòng tạo thiện duyên.
Sấm Ông Đồ
Người sanh trong cõi Nam Hoàng,
Không phen đài các, cũng hàng Lạc Long
Muốn cho rạng vẽ Tiên Rồng,
Muốn bình thên hạ trước phòng quốc gia.
Muốn cho lợi nước yên nhà,
Trước lo sửa trị gia hòa khiêm cung.
Muốn cho gia đạo hiền hùng,
Tự thân trước phải tư dung nhân hiền.
Nhàn xem sách vở luân thường,
Thầy đồ người ở hậu trường Sài Châu.
Trăng khuya băm sáu tuôi đầu,
Thế thời gặp phải gió âu phong trần.
Mặc Tôn dầu đặng cái lân,
Lòng son Cử trị lãnh phần long đong.
Ra đi vừa lố mặt hồng,
Dường mòn ngoắc ngoẻo như lòng quăn queo.
Trời trưa nắng đổ trên đéo,
Gợi lòng thêm chạnh phận nghèo đắn đo.
Nghĩ mình xưa cũng yên cho,
Chức làm thầy ký dưới trò hoạn quan.
Gia đình cũng khỏi cơ hàn,
Vợ là lương thị tánh nàng xa hoa.
Nàng ưa quý của sang nhà,
Thấy chồng chơn thật sanh ra hẫn hờ.
Trách ông không rõ thời cơ,
Oai như ông Thượng cuốn cờ theo Tây.
Ta nên giả điếc giả ngây,
Thánh hiền chi đó cho tầy khô bao.
Ông Y, ông Doãn thế nào,
Ôm cầy cuốc bẩm con gào vợ than!
Anh tài như cụ họ Phan,
Hết lưu hải ngọai bàng giang ngồi tù.
Anh hùng Yên Bái công phu,
Sa cơ còn phải mạng tru tan tành.
Tài tình như cụ Phan Thanh,
Ba Đình nhất thủ cũng đành co tay.
Trở cờ một sánh ấy hay,
Xu thời theo thế là tài lập an.
Kìa xem ông lớn nhà quan,
Biết tôn người Pháp mà sang mà giàu.
Quan thời kín cổng lầu cao,
Tới chi dân giả mà đâu mà lòng.
Chỉ theo thời thế lập công,
Cúi đầu mọp xá cho xong lẽ nào.
Ông mà không nghĩ trước sau,
Con thơ bốn đứa ai hầu đảm đang.
Buồn đời lại gặp vợ gàn,
Đến quan gai mắt về nhà xốn xang.
Bỗng nghe thiên hạ nhôn nhàng,
Dân nghèo trốn thuế, lính làng nên ghê.
Chú cai, thầy Đội nhùn trề,
Đánh thôi không kể chửi điên nhiếc mờ.
Thảm thương cho đám dân khờ,
U đầu sưng mặt biết nhờ cậy ai.
Cúi xin ông Đội thầy Cai,
Hưởng vài kỳ hạn chúng tôi chạy tiền.
Vợ con đau ốm liên miên,
Mùa màng thất bát làm phiền các ông.
Cha già, mẹ yếu, của không,
Sở làm chẳng có biết phòng cậy ai.
Áo cơm thiếu hụt hằng ngày,
Cúi xin quan lớn nới tay khoan hồng.
"Đồ khốn! Lũ bây cuồng ngông,
Muốn làm cách mạng không tuân lệnh làng.
Ký đồ đem sổ trước quan,
Hãy làm biên bản tống giam lũ này."
Đồ rằng: "Cớ sự như vầy,
Dân nghèo đói khổ tội này bởi quan.
Nhớ xưa dân chúng cơ hàn,
Ông vũ coi việc khai đàng sông Thương.
Cho nước khỏi ngập ruộng vườn,
Vì dân vì nước lòng thường siêng năng.
Thế mà ông còn bảo rằng,
Nếu dân bị lụt tội này về ông.
Ông tắc coi việc điền công,
Đốt trầm đuổi thú cho dân cày bừa.
Ông rằng nếu dân thất mùa,
Vợ con đói khổ tội này về ông.
Người hiền mãi lo việc công,
Kẻ khôn! Chỉ muốn ở không làm nền.
Đinh, Lê, Lý chúa Nam Hoàng,
Khuyếch trương kinh tế dân làng ấm no.
Thuế sưu đơn giản nhẹ lo,
Nay vì quan lớn ăn no ngồi rồi.
Cướp bóc, hà khắc đủ điều,
Phần mùa thất bát thế nào cho dân.
Thương người như thể thương thân,
Quan trên xin thử cân phân thế nào.
Dẫu cho tước trọng quyền cao,
Cũng thương lấy chút đồng bào dân ta.
Ham chi chút bã lang sa,
Mà gây lắm nỗi phong ba bất bình".
Thấu tai quan nổi lôi đình,
"Khá khen thầy ký dám kình với ta,
Linh quyền lột chức đuổi ra,
Tẩy chai cho nó khôn qua đóng tiền".
Thôi rồi thế sự ngửa nghiêng,
Từ đây con vợ than phiền đến đâu.
Éo le đơn khảy mấy câu,
Nước xao mấy lượn nghĩ âu nực cười.
Cho hay vậy cũng là người,
Con Hồng cháu Lạc hồ ngươi chẳng là.
Trời Nam một dãy sơn hà,
Linh đinh bể cả biết mà về đâu.
Ba Đồ một vẽ âu sầu,
Khi buồn khi tức câu mâu đủ điều:
Kia nhà phú quý quan liêu,
Thiếm Cai bà Đội đủ điều phong dinh.
Quan oai kẻ bẩm người trình,
Phủ đường có lính có binh gác hầu.
Bà lớn sang biết là bao,
Ra đường thiên hạ cúi đầu sợ oai.
Đi thời xe cộ hẳn hoi,
Trùm làng vòn nể mựu đòi thứ dân.
Ông Đồ là người bất nhân,
Học đòi liêm sĩ giết lần vợ con.
Nhẫn tâm một chút chịu lòn,
Nã dân lập nghiệp vợ con nó nhờ.
Ông không xét rõ thời cơ:
Thử xem thiên hạ bây giờ có ai,
Nhìn kỹ quan liêu ngày nay,
Phần đông môn đệ học tài với ông.
Cớ sao nó lại nên công,
Còn ông thì lại tay không chân rồi.
Chúng con khi dễ đến tôi,
Xem ông như rác đưng ngồi với ai.
Pháp định gặc đức tranh tài,
Quan trên bắt lính để bài tồng quân.
Ông ra gánh vác chút phần,
Làm sổ biên bản lập thân với đời.
Ấm no thê tử vui tươi,
Tệ chi lắm lệ trời ơi là trời.
Hết khuyên rồi lại lắm lời,
Mắng chồng rồi lại tơi bời đánh con.
Tội chi mà phải chịu đòn,
Áo cơm không có lại còn vọt roi.
Trẻ thơ lắm nỗi đắng cay,
Nhìn cha, cha thảm, nhìn mẹ, mẹ sầu.
Sợ mẹ hồn vía lên đầu,
Bồng em chạy trốn dãi dầu thảm thê.
Ác vàng nhựt tợ ngoại kề,
Cánh buồm bao quản bốn bề gió xiêu.
Ông Đồ một mực chuộng chiều,
Tìm lời to nhỏ cho yên qua ngày.
Rằng: "Xem thiên hạ thời nay,
Biết bác cơ cần đọa đầy thảm thương!
Thuê sưu ép ngặt đủ đường,
Lâm cơn nghèo thiếu lại vương lao tù.
Ta có nghèo đói mặc dù,
Cũng là chia sẽ nổi buồn cùng ai".
Thất nghiệp ngày tháng loay hoay,
Lần hồi sự nghiệp gia tài sạch không.
Con thơ đói rách long đong,
Bạn bè xa lánh biết trong cậy ai.
Hết phương tính một liệu hai,
Hết lời to nhỏ hết nài hết lơn.
Bà Đồ tột độ căm hờn,
Dân mâm xán chén dặm chơn kêu trời.
"Mặt này cũng tại vì ai,
Làm ra mặt phải có tài được không?".
Thầm cho lũ trẻ bập bồng,
Bữa râu bữa cháo bữa lòng vắng hoe.
Xin cơm, mượn gạo lăm le,
Bữa có bữa chẳng rách te áo quần.
Chôi con lọng gió tưng bừng,
Ngẩn ngơ trúc tử khôn ngừng dòng châu.
Hoa non trời nở mưa ngâu,
E cho tan tác mái đầu non non.
Gió đông thổi buốt lòng son,
Làm cho con én đầu non dật dờ.
Bèn tan rã cánh lờ đờ,
Ngẩn ngơ hồn bướm biết nhờ vào đâu.
Đau lòng lụy nhỏ thấm bâu,
Ông đồ nhỏ nhẹ rầu thốt ra.
Bà cùng con ở lại nhà,
Hẩm hiu rau cháo cho qua tháng ngày.
Tôi ra miền Trung phần ngoài,
Tìm sở làm mướn một vài tháng qua.
May nhờ phước dư ông bà,
Bay tiền chi độ chẳng là ấm no.
Dứt lời bà hứ tiếng to:
"Cái bộ ông đó sớm lo ở tù"
Hết lời biện bạch trí ngu,
Nói nhiều thêm oán chác thù ích chi.
Một hai gì cũng phải đi,
Đi cho khuất mắt huốn chi ở nhà.
Chơn ông vừa mới bước ra,
Lũ trẽ triều mến xót xa khôn cùng.
"Cha ơi! Cho con đi chung,
Ra về sớm tối con cùng bên cha".
Rằng: "Con tạm ở lại nhà,
Cha đi giây lát mua quà cho con.
Gượng vui kẻo mà bị đòn,
Khi về cha ẫm cha bồng cha cưng".
Ngỡ cha nó đi cầm chừng,
Không dè biền biệt Thê lương tháng ngày.
Chợt nhìn trời tối mới hay,
Ông Đồ mãn nhớ mãn gay mãn sầu.
Ở đây là ở đâu đây?
Gió hòa thông khóc, nước reo nhạc sầu.
Vang vang vượn hú non đầu,
Như say mới tỉnh giây lâu bên đàng.
Xem chừng làng xóm thôn trang,
Lần đến đầu ngõ ngỡ ngàng bước vô.
Thưa cùng anh chị cậu cô,
Tôi người thất nghiệp đạo đồ lang thang.
Hỏi ra mới biết xóm làng,
Gần đến Phan Thiết, Nha Trang ranh ngoài.
Ngàn năm một thuở là may,
Có ông Triệu phú mới hay thầy Đồ.
Mời vế thăm hỏi tề mô,
Rược cơm trà nước lại phô ý mình.
"Nhà tôi có lũ Môn sinh,
Vốn dòng con cháu Nho Kinh gia đường.
Ngặt nổi lối đi vào trường,
Xa xôi e ngại thêm đường rừng hoang.
Gặp thầy tôi cũng đặng an,
Xin thầy ở lại mở trang phá ngư.
Ơn thầy tôi cũng đền bù,
Năm đồng mỗi tháng công phu của thầy".
Như vầy thì cũng là hay,
Ông đồ vui dạ tỏ ngay cùng là.
Vừa dạy vừa cũng dò la,
Tìm hiểu Tiệu phú giàu mà làm sao.
Rõ rồi lòng cũng nao nao:
Ai ai nước đục cũng ào thả câu.
Việc người đành mặt người âu,
Xây dựng lũ trẻ chút câu nhân tình.
Những khi cơm nước linh đình,
Nhớ đến gia đạo nổi mình mà đau.
Giờ này con ra làm sao?
Bà Đồ xoay trở lẽ nào có hay!
Ở đây đời việc ngoài tai,
Nhớ thì thêm ghét, sầu thì hay thương.
"Thương là thương đấng cang cường,
Anh hùng trụy lạc ẩn tường nơi nao.
Thương cho huynh đệ đồng bào,
Sưu cao thế nặng lâm vào nạn tai".
Thương rồi ghét đắng ghét cay,
"Ghét là ghét kẻ bất tài mị dân.
Ghét thay cái lũ vô ân,
Giả danh bảo hộ lột trần dân ta".
Nghĩ gần rồi lại nghĩ xa,
Ghét thương, thương ghét không ra kẽ nào.
Ngủ thời thiêm thiếp chiêm bao,
Ăn thời như thế cho vào đặng no.
Dạy thời! Liêm là thẳng, Chi là cho,
Nhân là hiền, Cang là cưng, Gia là nhà, Bất là không.
Cơm thời miễn đặng no lòng,
Tiên thời mỗi tháng năm đồng còn nguyên.
Gượng cười gượng nói cho yên,
Đúng kỳ ba tháng ta đành hồi quê.
Còn năm ngày nữa gần kề,
Đến rằm tháng chạp công thuê mãn kỳ.
Bãi trường từ giã chẳng trì,
Cơm khô gói sẵn phòng khi thượng hành.
Bến tàu dừng lại nghĩ quanh,
"Nếu đi tàu hỏa tiền dành mẻ đi.
Âu ta cuốc bộ một khi,
Tiền lương ba tháng chớ tiêu đồng nào.
Về xem con, vợ làm sao,
Bặt tin ba tháng âm hoa chưa tường.
Để cho con, vợ nó mừng,
Mười lăm đồng bạc tết từng cũng vui.
Thôi thì ta cũng làm nguôi,
Ba phải thời thế cho xuôi lòng bà".
Tinh gần rồi lại nghĩ xa,
Đói ăn cơm rán khát hòa nước sông.
Trời xuân con én đưa song,
Ai ngồi bên cửa trông chồng ru con.
Tiếng luồng theo gió nỉ non,
Hòa theo đơn suối chảy lòn cầu lam.
"Lỡ tay trót đã nhúng chàm,
Đánh liều nhúng hết hai bàn cho xong.
Gió tây chuyền ngọn đòng đòng,
Sông nam gợn sóng biết lòng vào đâu.
Ù ơ ví dẫu ví dầu,
Bí bầu chê ghét biết đâu về chiều.
Mẹ gà con vịt chít chiu,
Mấy đời mẹ ghẻ thương yêu con chồng".
Bước qua đàng vắng xa xong,
còn nghe văng vẳng tiếng đồng như tơ.
Trời chiều quạnh quẽ như tờ,
Ngư về viễn Phố Mục về cô thôn.
Thu không tiếng mõ đầu đền,
Đèn nhà lắp lóe hoàng hôn phủ đằng.
Bóng cầu đen vắt sông ngang,
Sao in đấy nước chớp làn sống châu.
Rảo chơn vừa quá nhịp cầu,
Chợt nhìn thấy bóng người đâu lẹ làng.
Đàn bà bụng lại có mang,
Đâm sầm xuống mé muốn toan liều mình.
Kính hồn Đồ chạy tới nhìn.
Nắm áo níu lại sự tình hỏi han.
"Rằng tôi nhiều nỗi ức oan,
Chết đi cho mất sống càng khổ thân.
Chồng tôi là kẻ thường nhân,
Thất mùa chư đóng thuế thân bị đầy.
Phần tôi thai nghén gần ngày,
Một mình đói khổ ai hoài hẩm hiu.
Nuôi một con heo sớm chiều,
Phòng bán nuôi sống, đở nghèo khi sanh.
Nào ngờ gặp đứa lưu manh,
Mua heo với giá bạc đành mười lăm.
Bắt heo tiền trả tôi cầm,
Sáng ngày ra chợ toan tầm mua than.
Mới hay bạc giả kinh hoàng,
Lính làng đòi phạt đòi răn sỗ sàng.
Đầu đuôi tôi phải kêu oan,
"Xin làng cho kẻ truy tầm bắt giam".
Làng rằng: "Làng mắc việc quan,
Công đâu mà tính chuyện gàn bông lông".
Về nhà ngồi đứng không xong,
Đếng này sinh sản hết trông phương rồi.
Bà con không có ai nuôi,
Cô thân chỉ có mình tôi khổ đời.
Mồ cha nó bắt chồng tôi,
Bằng không đâu có lôi thôi thế này.
Đồ hay cớ sự như vầy,
Lòng đau như cắt biết tài nào cao.
Rằng: "Đâu bạc giả làm sao?
Đưa tôi xem thử lẽ nào cho minh".
Xoay qua phía khác cho minh,
Trao đưa bạc thiệt tỏ tình nguồn cơn.
Thôi thôi tôi cũng làm ơn,
Giúp giùm cho nó khỏi cơn nguy nàn.
Vốn tôi là thầy Lỗ Ban,
Thư phù bạc giả hóa thành bạc chơn.
Nàng rằng: "Còn có chi hơn,
Tôi xin ghi dạ đội ơn muôn đời".
Cầm tiền từ giã đôi lời,
Ông Đồ đứng ngó thương người dân quê.
"Thật thà chơn chất, vụng về,
Dốt nát thiên hạ, dễ bề gian tham.
Cơ mưu họ khéo dụng tâm,
Cho dân ngu dốt dễ lầm dễ sai.
Bảo tin kẻo bị tội đày,
Bảo sợ kẻo bị hình hài phat răn.
Chẳng hề lo việc mở mang,
Để cho dân chúng bị tòn yêu ma.
Ngồi không vẽ lắm điêu ngoa,
Nghĩ sưu toan kế cho ra tùi tiền.
Dân nghèo chạy ngửa chạy nghiêng,
Ráng cho ra tốp dưới quyền quát la.
Vừa suy vừa nghĩ gần xa,
Chợt liền nhớ lại thân ta thêm phiền:
"Mười lăm bạc giả cầm nguyên,
Về đây biết nói biết yêu lẽ nào.
Làm sao thì mặc làm sao,
Người chết ta nỡ lòng nào làm ngơ".
Trời đêm lặng lẽ như tơ,
Vạc kêu đồng nội trống hơ đầu thôn.
Nhá nhem nhà cửa tối om,
Dò theo lối cũ quanh chòm trúc thưa.
Xơ rơ một mái nhà xưa,
Vách hay rước gió chái thừa trút mưa.
Xác xao cành liễu đồng đưa,
Âm thầm đứng tựa vách thưa nhìn vào.
Ngạc nhiên ông đồ thở phào!
Bà đồ nay khác biết bao cho cùng.
Áo quần rách rưới lạnh lùng,
Thế mà bình tỉnh vô cùng hiền lương.
Con ba bốn đứa trần truồng,
Ngồi kề bên mẹ ra tuồng thương yêu.
Xưa thầy phát ghét bao nhiêu,
Nay xem gương mặt yêu kiều dễ thương.
Ai dạy bà ở hiền lương,
Ai bảo bà sửa khác thường hơn xưa.
Trước kia gương mặt chẳng vừa,
Thấy mà phát tởn có ưa được nào.
Nói thời như tát nước vào,
Con thời bị đánh la gòa thất thanh.
Mà nay xem vẽ hiền lành,
Mẹ con xúm xít xem đành biết bao.
Làm sao chưa hẳn làm sao,
Thoạt nghe trẻ nhỏ bều bào nói ra:
"Mẹ ơi! Con bụng xót xa,
Vì đói lạnh quá! Nhớ cha vô cùng".
Mặt bà điềm đạm ung dung,
"Con ôi! Vì bởi bần cùng phải cam.
Bạc tiền ai lại chẳng ham,
Nhưng của phi nghĩa mà tham làm gì.
Mẹ mà xưa biết lễ nghi,
Thì cha con chẳng ra đi xa đàng.
Phụ tử tình nghĩa đã mang,
Cha con bao nỡ dứt đàng hay sao.
Chờ năm ba bữa chẳng lâu,
Sắp đến ngày tết bắt đầu sang năm.
Cha con chắc sẽ về thăm,
Chẳng nhiều cũng ít chị em con mừng".
Ông Đồ đứng dửng dừng dưng,
Muốn bỏ đi trốn bước dừng dở dang.
Bỗng thấy bà đứng gần bàn,
Ngước lên liền thấy ngang hàng mõ, chuông.
Đốt hương bà nguyện buồn buồn,
Mấy đứa nhỏ cũng sắp hàng quỳ theo.
Cắm hương chuông, mõ tụng reo,
"Ờ! Ra bà đã quên nghèo vì tu.
Thật là đạo cả công phu,
Như vậy thật đáng đền bù công ơn.
Nghĩ mình xưa lỗi đường chơn,
Chẳng hiểu Phật pháp thật hơn đâu màng.
Cho rằng: Mê tín dị đoan,
Cho rằng: Cái đạo làm càn mị dân.
Cho rằng: Những kẻ chán trần,
Vào chùa chuông mõ lãnh phần chuối xôi.
Lại cho cái đạo mị đời,
Tín càn không có ít thời chi chi.
Coi thường các bực tu trì,
Rằng: Từ bi ấy ngoa nghi bỏ quàng.
Nào hay đạo cả thinh thang,
Bao nhiêu cũng đủ đáp toàn lời ta.
Thật là phước đức không xa,
Mới hay đạo Phật vốn là tại tâm.
Bao nhiêu cũng rõ thậm thâm,
Thật nước cam lộ rải nhằm đến ta.
Từ bi phước đức hà sa,
Còn hơn phú quý mà đa tham tàn.
Cúi lạy đức Phật trên bàn,
Từ bi tế độ muôn vàn khổ đau.
Thật tôi có phước làm sao,
Đạo Phật xây dựng thế nào mà hay.
Nhớ ơn đức Phật cao dày,
Độ người ám muội ngày này quang minh".
Nghe bà vừa dứt lời kinh,
Cất tiếng phục nguyện lại in tấm lòng.
"Nguyện mười phương Phật chứng minh,
Cho trong lệ tội tình tiêu tan.
Hết cơn vẫn bị tai nạn,
Thoát cơn ác quỷ lạm đàng nhiễu nhương.
Cầu hồn xiêu lạc bốn phương,
Diệt hết phiền não Tây phương sớm gần.
Nguyện chư Bồ tát ai lân,
Độ ông Đồ mạnh tinh thần bằng an".
Thành tâm vừa nguyện vừa van,
Ông đồ ngoài cửa lại càng phục lăn.
Phục bà thật có thiện căng,
Cảm Phật lại kính chư Tăng hoàng triều.
Tự quy bà đứng lạy liền,
Mấy đứa nhỏ cũng ngoan hiền lạy theo.
Ngoài thềm năm vóc cũng gieo,
Như có thần lực nào đeo bên mình.
Cũng cúi cũng xá cũng quỳ,
Ông Đồ như tỉnh qua thì cơn say.
Đằng hằng lên tiếng bên ngoài,
Mẹ con mở cửa loay hoay đón mừng.
Giờ đây náo nhiệt tưng bừng,
Lũ trẻ lăn líu tươi cười lắm thay.
Gượng cười dòng lệ chảy ngay,
"Mừng bà được khỏe con rày bình an".
Vuốt ve trẻ nhỏ dịu dàng,
Thầy bà vui vẽ lòng càng vững yên.
Bà không hỏi tới bạc tiền,
Mà hỏi: "Ông đặng bình yên chẳng là?
Bây giờ tôi mới sáng ra,
Bây lâu có một như lòa khác chi.
Ông thật coa quý ai bì,
Thanh tao liêm sĩ đáng vì nêu cao.
Thế mà tôi đã hỗn hào,
Xin ông tha thứ cho bao lỗi lầm.
Si mê trót đã tối tâm,
Đuốc từ vừa nhóm phóng tầm quang huy.
"Lạ chưa bà thật nên hay,
Lẽ ra tội ấy tôi gây thêm buồn.
Bỏ con bỏ vợ luôn tuồng,
Thế mà bà lại chẳng buồn chi tôi.
Việc rồi đã qua thì thôi,
Bà tu chừ đặng bao hỡi mà cao.
Tôi xem bà thắm tương chao,
Ai dạy cách thức làm sao hở bà?"
Đứa nào bập bẹ khoe khoang,
"Mẹ con niệm Phật không la khỏi rấy.
Tay mẹ mềm mại thế này,
Khác hơn khi trước như cây như chà".
Rầy em: "Đừng nói ba hoa,
Để mẹ kể lại cho cha nghe cùng".
Bà rằng: "Đạo cả bao dung,
Duyên lành gặp đặng phước tùng hậu lai.
Vì đời lầm lạc mê say,
Đọa cao siêu lại xem bày dị đoan.
Pha trò phù thủy phá hoàng,
Giấy tiền vàng mã lập đàn làm chay.
Ở chùa phạm giới phá trai,
Theo trò danh lợi làm sai chơn truyền.
Làm cho hoen ố cửa thiền,
Bởi nhà thực trị chính nghiêng mưu thần.
Mặc cho dân chúng sai lầm,
Cố cho dân tộc nhân tâm suy đồi.
Đạo đời vướng phải lôi thôi,
Cho dễ tự ý ghế ngồi vững yên.
May mà còn chút thiện duyên,
Con Hồng cháu Lạc còn truyền chơn sư.
Đứng lên cố xúyt vô từ,
Cùng hàng trí thức quyết trừ tà mê.
Từ Nam chí Bắc nhất tề,
Đại sư thiện đức cụ Lê Khánh Hòa.
Nam kỳ Phật học mở ra,
Lương Xuyên Phật học, phước Hòa Trà Vinh.
Các Tổ Huệ Quang, Khánh Anh,
Rồi đến họat động tại thành Sài Châu.
Tăng già giáo hội cầm đầu,
Như lai sứ giả khắp châu hoàng truyền.
Xa nhà may có thiện duyên,
Khai đàn diễn giảng trước niên đình làng.
Tôi được nghe giảng mãn đàn,
Mười bài thuyết pháp chơn toàn phổ thông.
Mới rõ tà cánh đục trong,
Đạo, đời chơn chán ngỏ hòng mở mang.
Phật dạy nhơn quả rõ ràng,
Phá mê dân chúng tự cường cách tân.
Từ bi tỏa khắp nhân dân,
Tôn trọng bình đẳng không phân sang hèn.
Tại gia năm giới tập rèn,
Tự mình tu luyện như đèn nhà đêm.
Năm giới trong đó phân tìm,
Cũng làm căn bản đời thêm thái bình.
Thử xem gia đạo của mình,
Gia không có đạo thế tình ra sao.
Năm điều ai cũng ước ao,
Sống, giàu, đẹp đẽ, trí cao ngôn từ.
Áp dụng năm giới phước dư,
Muốn sống đừng sát nhơn từ chi hơn.
Muốn giàu bố thì làm nhơn,
Muốn đẹp tà hạnh sạch trơn trong lòng.
Muốn thông vọng ngữ phải phòng,
Muốn có trí tuệ mưu hòng say sưa.
Chuyển lòng niệm Phật sớm trưa,
Chay lạt tu tập dứt chưa sân sì.
Tự thân lấy đó làm nghi,
Trị gia lấy đó làm quy tông đàng.
Trị quốc nhờ đó bằng an,
Năm điều yếu tố nhân gian hòa bình.
Xét chút thế sự nhân tình,
Xưa nay lọan, trị lưu truyền sử sanh.
Loạn hết tới trị an ninh,
Trị hết đến loạn thế tìng đâu sai.
Trị là nhân kẻ thảo ngay,
Loạn là phạt kẻ dày tiền thân.
Ai tu cứ giữ đạo chân,
Nghe chi nói thánh nói thần rộn tai.
Thấy dân khổ sở hoang mang,
Xưng thần xưng thánh rằng toan cứu đời.
Rằng sắp tận thế tới nơi,
Thay trời đổi đất rót rồi đều sai.
Phật dạy thiện, ác chiêu lai,
Hết loạn đến trị xưa nay lẽ thường.
Trịnh, Nguyễn xưa cắt biên cương,
Ba mươi năm loạn đủ đường đắng cay.
Nghĩ xưa mà ghét ngày nay,
Đừng nghe mà mị rầy tai hư mình.
Tu thì cứ học luật kinh,
Chớ tu đâu cứ luận tình thế gian.
Bàn tán nói dọc nói ngang,
Cũng đừng luyện xác tập đoan cầu kỳ.
Ăn ngay ở thật theo thì,
Rộng lòng tế độ hay vì phân minh.
Sửa mình sớm kệ chiều kinh,
Ăn chay niệm phật giàu tình từ bi.
Dẹp hết phiền não sầu si,
Diệt sạch nghiệp chướng ràn vì phát minh.
Giáo lý cao cả thinh thinh,
Thắm nghe tôi lại giật mình thở ra.
Bấy lâu bèn hạ xấu xa,
Tham, sàn, si, chướng mới ra nỗi này.
Nhờ thầy chỉ dạy như vầy,
Tam quy làm hướng đoạn dây tam đồ.
Năm giới phước đức tài bồi,
Như vầy ai dâm nhọ bôi đạo nhà.
Tinh hoa vốn đạo ông bà,
Học Phật thờ Phật con nhà Lạc Long.
Ông nghe mát dạ vừa lòng,
Êm như gió thoảng đẹp bằng tráng thu.
"Như vầy ai lại không tu,
Như vầy thật đáng công phu sĩ hiền.
Như vầy ai lại không kiêng,
Văn hào trí thức còn khuyên nễ vì.
Đạo mâu huyền diệu tri tri.
Phước này con có phước gì cho hơn.
Dù cho giàu có tước quờn,
Mà thiếu đạo đức chuốc hờn ích chi.
"Sao ông ngồi mãi nghĩ suy,
Không phân chẳng luận tiếng chi lại thù.
Ông đi cớ sự hà như?
khi về lộ vẽ ưu tư bàng hoàng".
Giờ đây ông đồ ngở ngàng.
Rằng: "Tôi làm nướn vì nàng vì con.
Tiền lương ba tháng vẹn toàn,
Đem về định để vợ con nó mừng.
Hôm chiều gặp việc dửng dưng,
Thấy người lâm nạn tạm dừng hỏi ra".
Đầu đuôi kể lại gần xa,
Vừa nói vừa lên coi bà xem sao.
Bà không buồn giận chút nào,
lại còn cười nói am nào đầu đuôi.
"Bạc tiền tiêu đặng bao lâu?
Vợ con ăn hết còn đâu phước lành.
Ông làm điều ấy phước dành,
Con ông nhờ đó nên danh với đời.
Vậy là điều đáng vui mừng,
Cớ sao ông lại lộ người lo âu.
Sống theo đạo đức nhiệm màu,
Sốn mạnh sống rộng cao sâu vô cùng.
Sống mạnh là đức đại hùng,
Diệt hết phiền náo hung sùnh nơi tâm.
Mạnh dạn nhìn nhận lỗi lầm,
Khi người chỉ lỗi không câm chẳng hờn.
Văn vương là phụ chi dân,
Nghe lờinói phải ân cần kính vâng.
Người dầu sức mạnh ngàn cân,
Trăm trận trăm thắng tài bằng Hạng Vương.
Dường ấy chưa phải đại hùng,
Tự thăng dục vọng tâm trung ai bằng.
Diệt sạch phiền não ác căn,
Mới là sống mạnh tài bằng pháp vương.
Sống rộng là mở lòng thương,
Thương người thương vật tai ương đọa đầy.
San phẳng hầm hố chông gai,
Xá hết oán giận còn ai tranh giành.
Lo gì không dứt chiến tranh,
Sống mà dường ấy sử xanh còn hoài.
Sống chừng vài tháng cũng hay,
Sống lâu vô nghĩa như cây trên rừng.
Ngàn năm no sống đã từng,
Hai lẽ sống ấy ông ưng lẽ nào?
Ông sống ý nghĩa đã cao,
Cớ nào ông lại nghĩ sao mà rầu.
Ông Đồ nhẹ nhõm tới đâu,
Trong lòng quả cảm đạo màu thênh thang.
Nếu bà không tu để an,
Ít ra bà cũng tụng tan cả ngày.
Thế mà bà lại cười dài,
Làm cho đáng phục nhắc hoài không thôi.
Tu sao nhẩn nại vô hồi,
Tu sao bà lại thật thôi hiền hòa.
Lại thêm rộng lượng hài hòa,
Từ bi hỷ xả bao la tội đời.
Dầu cho lở đất long trời,
Mà vẫn bình tĩnh không lời núng nao.
Đói rách khổ đến làm sao,
Cũng vẫn yên tĩnh anh hào ai qua.
Trăm năm trong cõi người ta,
Quý chăng một chữ ấy là chữ tu.
Phiền não u uất từ lâu,
Bỗng tan theo gió mạch sầu sạch trơn.
Như vầy con có chi hơn,
Khen bà đã đáng hiền nhơn trên đời.
Con vui bà lại tươi cười,
Thế là gia đạo đẹp mười từ đây.
Một nhà đặng như thế này,
Mười nhà rồi đến đông, tay thẩy đều.
Thấm nhuần đạo đức cao siêu,
Quốc gia thạnh trị quan liêu nhân từ.
Lo gì đời chẳng an cư,
Làm gì xã hội chẳng như thái bình.
Gác tay nghĩ lại gia đình,
Xuân nhựt sắp đến liệu tình làm sao.
Nát óc xoay xở lẽ nào,
Của đâu sắm mặc làm sao no lòng.
Trẻ thơ tuổi dại đèo bồng,
Áo cơm không có dưa hồng cũng không.
Thế nào giải quyết cho xong,
Chợt nghe gà gấy hừng đông rộn ràng.
Giấy hồng vuông gói rôn gàng,
Kêu bà thức dậy tính toan lẽ này.
"Gói nầy vật quý trong đây,
Bà mau cầm lấy ra ngay chợ làng.
Chiều qua tôi vừa đi ngang,
Thấy tiệm đề bảng khai trương cầm đồ.
Sáng nay bà sớm bước vô,
Đưa gói xin gởi món đồ cầm cho.
Bà đừng cấn biết căn do,
Cứ y như vậy chớ lo ngại gì.
Tôi bảo bà chớ hoài nghi,
Cứ như thế ấy bà đi là vừa.
Chần chờ kẻo trời quá trưa,
Lại sợ hư việc bà thừa lời ông.
Cầm đi lòng lại hỏi lòng,
Lạ thay không hiểu ý ông hế nào.
Mình nghèo đèn chí tử nguy,
Nào có của báo vật gì lạ thay.
Cầm thì nhẹ hỏng trên tay,
Sao ông cấm mở bảo ngay cứ cầm.
Vừa đi vừa nghĩ lầm thầm,
Vừa đến trước cửa xin cầm đưa vô.
Ông chủ tiếp lầy gói đồ,
Mở xem trịnh trọng cất vô văn phòng.
Hỏi bà muốn cầm bao đồng,
Bà Đố lúng túng biết hồng bao nhiêu.
Nhớ ông nói chuyện hồi chiều,
Ý chừng theo đó nói liều mười lăm.
Bà theo giá đó xin cầm,
Vui trao ba tấm bạc năm cho bà.
Đặng bạc bà liền bước ra,
Nghĩ đi nghĩ lại lạ mà làm sao.
Định về hỏi ổng thế nào,
Buộc ổng phải nói âm hao cho tường.
Cằn nhằn đón hỏi đủ đường,
Túng ông phải nói chuyện thường có chi.
Người ta quý chữ xưa nay,
Khai trương có chữ khéo hay là mừng.
Cho rằng! Đó là điềm hưng,
Tôi đà toan tính liệu chừng xa xăm.
Viết khéo hai chư õ"Chánh Tâm"
Sai bà cầm lấy đầu năm sắm quà.
Nghe xong bà lại xuýt xao,
Ấy chết như vậy mất mà Chánh Tâm.
Rồi chỉ còn lại tà tâm,
Người tu thà chết ai cầm thế ni.
Dầu cho nghèo đói chẳng chi,
Mang lấy tiếng thẹn còn gì ông ơi.
Đời ta nghiệp chướng nhiều rồi,
Vì mê vọng ngã chuyền dời lăng xăng.
Ai cùng sợ khổ tham ăn,
Vì chưa diệt vọng chấp càn mà ra.
Nếu mà diệt được cái Ta,
Thì không như có khổ mà như không.
Phải ngộ bản tánh chơn không,
Nào có chi khổ chẳng hòng chi vui.
Khổ vui thoát ra thật rồi,
Dẫu cho khốnđốn vẫn cười vẫn cam.
Gặp lúc sang trọng chẳng ham,
Khổ, vui giả tạm có can chi mình.
Như như không động đinh ninh,
Thì làm chi có nhơn tình lôi thôi.
Một hai gì cũng phải thôi,
Tôi xin đi chuộc "Tấm rồi mới an".
Nói xong bà đi vội vàng,
Ông Đồ chết sửng không rằng lời chi.
Đã tâm khốn khổ thế thì,
Cho đến tiếng nói có chi không bằng.
Người ta chịu đấm mà ăn,
Dầu bị sỉ vả mắng răng mặc tình.
Miễn cho no ấm gia đình,
Luồn cuối bợ đỡ mặc tình thị phi.
Ham mê nào biết lỗi nghì,
Mặt chai mày đá ngu ai đến cùng.
Bà nhà theo tánh đại hùng,
Tiếng gọi cầm chữ tâm trung vẫn còn.
Thế mà bà thật sắc son,
Mang tiếng một chút ý còn đón ngăn.
Làm ta lòng cũng băng khoăn,
Người mà đường ấy ai bằng được chăng.
Nam nhi đáng thẹn vô ngần,
Ta thật cương trực chưa bằng nữ nhơn.
Đến tiệm bà tỏ thiệt hơn,
"Làm người xin giữ tâm chơn mà dùng".
Chủ tiệm vui vẻ lạ lùng,
Nghe nói như vậy ông vùng cười khan.
"Hay bà chê rẻ phàn nàn,
Muốn thêm thì nói cho bằng thì thôi.
Không không xin ông cho hồi,
Để cho tôi giữ trọn rồi "Chơn tâm".
Trácg lòng ai nỡ đem cầm,
Rằng: "Không tôi cũng hồi tâm cho bà.
Nhà bà cách đây gần xa",
Hỏi thăm sau trước dò la rõ ràng.
Về nhà bà Đồ mới an,
Ông Đồ hết tính lại toan gãi đầu.
Nãy giờ cũng chẳng bao lâu,
Chợt thấy ông chủ ngỏ hầu bước vô.
Gia đình ông nghèo thế mô,
Dò xem tôi biết bà Đồ người ngay.
Ông trời tuồng chữ đại tài,
Chồng tài, vợ đức trên đời mấy ai.
Người đời mù mắt ù tai,
Vì danh vì lợi biết ai ngu hiền.
Kẻ giàu họ tưởng như tiên,
Thấy nghèo họ thị như điên như khờ.
Tôi người có mắt xem đời,
Biết người có đức gặp thời nạn tai.
Như vầy còn có chi hay,
Tiệm thiếu tài phú ông rày giúp tôi.
Tiền lương mỗi tháng đáp bồi,
Mười lăm đồng lẽ thì tôi sẳn mà.
Đồ rằng: "Đức ở nơi bà,
Tôi người thường thế có ra nổi gì.
Chủ rằng: Xưa nay hành vì,
Vợ mà chơn chánh chồng vì hiền lương.
Vợ gàn xuôi chồng tầm thường,
Vợ ác chồng cũng theo đường tà gian.
Vợ người Vương Bỉnh tham sang,
Xúi chồng lạm hối phải mang lao đề.
Vợ anh xa phu nước Tề,
Khích chồng liêm sĩ chức đề Đại phu.
Đơn bà nhân đức khéo tu.
Gia đình ảnh hưởng phước bù xuê xang.
Vợ ngay xúi chồng đàng hoàng,
Vợ chồng có đức thì an cửa nhà.
Tết nhứt nay đã đến ngày,
Giúp trước hai tháng ông xài đầu năm.
Ông Đồ cũng vừa an tâm,
Bà Đồ nhận bạc đầu năm ăn mừng.
Trẻ nhỏ nhảy nhót tưng bừng,
Mừng nay đã có gạo ăn vừa xài.
Cuộc đời bỉ cực thới lai,
Hết cơn vận bĩ tới ngày vinh sang.
Nom na góp để ít hàng,
Cầu cho trăm họ khi nhàn ngâm nga.
Chúc đời mau sớm âu ca,
Lấy lòng nhơn đức xây tòa non sông.
--!!tach_noi_dung!!--


Nguồn: Vietshare. com
Được bạn: ct.ly đưa lên
vào ngày: 6 tháng 1 năm 2005

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--
--!!tach_noi_dung!!--