Bắt đầu thu học phí Tôi chuyển trường từ Teppōzu đến Shinsenza vào năm Minh Trị thứ nhất, hay còn gọi là năm Keiō thứ tư (1868-ND). Vì trường có từ trước cuộc Minh Trị duy tân, nên tôi lấy niên hiệu đó để đặt tên cho trường thành Keiō-gijuku (Khánh Ứng nghĩa thục). Các học trò tản đi, nay quay trở về và trường lại trở nên đông vui, tấp nập. Số lượng học sinh nhiều lên, cần thiết phải tăng cường việc quản lý nơi ăn, chốn ở chặt chẽ hơn, nên tôi đã viết một cuốn sách nhỏ về nội quy trường học. Nếu ngồi chép lại sẽ mất nhiều thời gian, công sức nên tôi cho in và phát cho mỗi học sinh một cuốn. Trong đó có ghi nhiều điều, nhưng có một điểm là hàng tháng sẽ thu học phí từ học sinh. Đó là ý tưởng mới, được thực hiện đầu tiên ở trường Keiō-gijuku. Trước đó, trong các trường tư thục của Nhật đều theo cách của người Trung Hoa, tức là các thầy sẽ thu tiền hoặc lễ vật khi nhập môn để nhận thầy. Trong suốt quá trình học, mỗi năm sẽ phải mang lễ đến hai lần vào dịp Obon [1] và dịp cuối năm. Tùy từng học sinh mà có thể chuẩn bị tiền hoặc đồ vật gì đó, gói ghém cẩn thận mang đến dâng thầy. Nhưng theo tôi thì những đồ vật đó sẽ không có tác dụng thiết thực. Giảng dạy cũng là một công việc, mà đã là công việc thì phải được trả lương. Không có chuyện gì xấu ở đó, nếu như quy định mức lương rõ ràng và công khai. Tôi gọi là “Tiền học phí” và hàng tháng tiến hành thu của mỗi học sinh 2 Bu tiền vàng để các học sinh lớp trên dạy lại các học sinh lớp dưới. Thời đó, một tháng cứ có khoảng 4 Ryō tiền vàng là đủ để chi phí cho việc ăn ở trong trường. Vì vậy, hàng tháng sẽ trích tiền học phí mà học sinh nộp để chi cho giáo viên, mỗi người 4 Ryō là coi như tạm sống được, còn thừa sẽ đem bổ sung vào quỹ của trường. Ngày nay, việc thu học phí là chuyện đương nhiên, nhưng khi mới bắt đầu thực thi, thiên hạ xung quanh phải trố mắt vì ngạc nhiên. Tôi bảo mỗi tháng học sinh chỉ cần mang đến 2 Bu tiền vàng, không cần gói vào giấy hay thắt dây gì hết. Có cả thông báo rằng, nếu mang 1 Ryō sẽ được trả lại tiền thừa. Thế nhưng cũng vẫn có những học sinh gói tiền cẩn thận vào giấy, buộc lại và đem đến. Mà như thế thì tôi bảo: gói vào giấy buộc lại sẽ khó cho việc kiểm tiền và cố tình tháo ra trả lại học trò. Chúng tôi thực hiện quy định này khá nghiêm chỉnh, nên việc mọi người xung quanh lấy làm ngạc nhiên cũng là điều dễ hiểu. Thú vị là hiện nay, việc này đã đương nhiên trở thành cách làm chung trên toàn nước Nhật mà không ai có ý kiến gì. Không cần nói đến ý nghĩa của việc làm đó là lớn hay nhỏ, mà chỉ riêng sự cố công thực hiện những quy định mới như vậy đã phải rất cần một sự táo bạo, quyết đoán. Nhưng cũng may là việc làm đó được tiến hành trôi chảy từ đầu đến cuối và nhanh chóng lan rộng ra nhiều nơi khác. Đối với tôi, đó coi như một sở nguyện đã thành hiện thực nên không còn gì vui hơn nữa. Keiō-gijuku, trường học hoạt động duy nhất trong cả nước Nhật Mặc dù tôi không động tĩnh gì, nhưng diễn biến trong thiên hạn thì thật khó hiểu. Ngay trong cơn binh mã tao loạn mà ở đâu đó tự nhiên lại rộ lên phong trào tìm hiểu về phương Tây. Sau trận khói lửa ở Ueno lại đến chiến sự ở Ōshū (Áo-Châu) [2]. Khi đó, vẫn có nhiều học sinh đến nhập học và trường của tôi càng nhộn nhịp hơn. Nhìn ra bên ngoài thấy các trường học của Mạc phủ tất nhiên đã bị xóa bỏ, thậm chí các thầy đồ không biết đã đi đâu về đâu. Còn chính quyền mới thì chưa bình tĩnh ngồi lại để nghĩ đến việc mở trường học. Trên cả nước Nhật chỉ có trường Keiō-gijuku là nơi duy nhất duy trì việc nghiên cứu, học tập. Khi đó, có lần tôi nói chuyện với học trò rằng: “Ngày xưa trong cuộc chiến của Napoleon, vận mệnh nước Hà Lan đã đi đến tuyệt vong. Không chỉ ngay tại bản quốc, mà những vùng đất người Hà Lan chiếm được trước đây cũng bị tước đoạt đến tận Ấn Độ, đến mức người Hà Lan không còn chỗ để cắm cờ. Nhưng may thay, thế giới này còn một chỗ duy nhất, đó là đảo Dejima (Xuất-đảo) ở Nagasaki của Nhật Bản. Dejima vốn là nơi người Hà Lan đến cư trú. Chiến tranh ở châu Âu không ảnh hưởng đến Nhật Bản, nên quốc kỳ của Hà Lan vẫn được cắm hiên ngang ở Dejima, có nghĩa là vương quốc đó chưa hẳn đã tuyệt vong. Đó là điều mà cho đến nay người Hà Lan vẫn tự hào. Nói như thế để thấy rằng, trong ngành Tây phương học, trường Keiō-gijuku của chúng ta cũng có thể ví như đảo Dejima, dù bên ngoài có đổi thay, có biến động thế nào thì trường vẫn vững vàng duy trì ngành Tây phương học. Trong tình hình căng thẳng như vậy, nhưng chúng ta quyết sẽ không nghỉ một ngày nào. Chừng nào trường này còn thì Nhật Bản vẫn còn là một nước văn minh trên thế giới. Các trò phải làm sao để không bị chi phối bởi tình hình bên ngoài”. Tôi đã nói như vậy để động viên đông đảo các học trò chú tâm vào việc học. Khó khăn trong việc quản lý trường - Nạn viết bậy gia tăng Mặc dù vậy, việc quản lý trường cũng rất khó khăn. Sau chiến loạn, số lượng học trò tăng lên ngoài dự đoán, nhưng thành phần khá phức tạp. Nhiều người là lính tham gia chiến sự ở Ōshū hồi năm ngoái, sau đó bị loại trừ khỏi đoàn quân binh, không trở về quê mà gác súng ống vào trường tôi xin học. Trong đó còn có cả những tướng lĩnh trẻ của vùng Tosa, đeo hai thanh gươm lớn nhỏ. Họ không mang súng, nhưng mặt thì hằm hằm như sẵn sàng tuốt gươm bất cứ lúc nào. Có người còn mặc áo kimono màu đỏ của phụ nữ. Hỏi ra thì họ hãnh diện trả lời rằng, đó là kimono đã lấy được trong chiến trận ở Aizu (Hợp-Tân) [3]. Thực ra, đó là những người hung hăng và đáng sợ, chỉ nhìn qua đã thấy không nên động đến là hơn. Như đã nói, khi còn ở Shinsenza, tôi có thảo một bản nội quy đơn giản, quy định về việc cấm học sinh cho nhau vay tiền. Phải đi ngủ và thức dậy đúng giờ quy định. Đến bữa phải xuống nhà ăn đúng giờ. Ngoài ra, tuyệt đối không được vẽ bậy. Vẽ lên tường, lên tấm liếp ngăn tất nhiên là cấm, mà vẽ lên giấy bao quanh đèn lồng, bàn ghế hay bất cứ một đồ vật gì của riêng mình cũng không được. Đã quy định như vậy có nghĩa là học sinh phải nghiêm chỉnh thực hiện. Tấm liếp nào bị viết bậy, đích thân tôi mang con dao nhỏ đến khoét đi và buộc học sinh ở phòng đó phải dán giấy mới vào. Trong trường hợp giấy bao quanh đèn lồng bị vẽ bậy, bất kể đó là đèn lồng của ai cũng phạt chủ nhân của chiếc đèn đó. Nếu các học trò có biện luận: “Thưa thầy, không phải con mà người khác vẽ!” tôi cũng không tha. Đổ lỗi cho người khác, không dám nhận coi như là bao biện. Đèn của mình mà ngồi nhìn để người khác vẽ bậy là không được. Đấy cũng là một tội. Đèn có hình vẽ bậy không được để trong trường mà phải xé giấy ra dán lại. Tôi phạt rất nghiêm, không tha cho một trường hợp nào. Kể cả những cậu hung hăng, có nói thế nào tôi cũng không chùn bước và thực hiện rất triệt để. Có một cậu học trò mà tôi không còn nhớ tên đã viết bậy cả lên gối đầu bằng gỗ. Tôi bắt được và bảo: “Gì thế này? Thầy đã quy định không được vẽ bậy lên bất cứ vật gì, kể cả đồ riêng mà tại sao trò lại cố tình trái ý? Thầy muốn xóa đi, nhưng gối bằng gỗ không xóa được. Thầy sẽ đập vỡ. Con phải đem gối khác đến!”. Nói rồi tôi lấy chân giẫm cho vỡ chiếc gối đó. Để xem các học trò phản ứng như thế nào? Nếu họ tiến lại gần, mặc dù không nói ra rằng, sẽ sẵn sàng làm đối thủ của họ, mà chỉ tỏ thái độ đã làm họ không dám. Tạng người tôi vốn cao lớn, nhưng thực ra đến Nhu đạo tôi cũng không biết. Từ thuở cha sinh mẹ đẻ, tôi chưa đánh ai bao giờ, nhưng vẻ giận dữ thì như sắp lao vào người khác, không chỉ to miệng mà cả thân hình cũng làm đối phương co rúm lại và nghe theo. Những kẻ hung hăng từ chiến trận trở về cũng phải im lặng và trật tự trong trường tạm thời được thiết lập trở lại. Trong số đó cũng đã có nhiều học trò ngoan, chịu khó học tập và giữ nghiêm kỷ luật. Điều đó làm cho không khí trong trường lành mạnh lên rất nhiều. Tôi đã ở khu Shinsenza cho đến năm Minh Trị thứ tư (1871-ND). Bộ Giáo dục đầu tiên Những biến động bởi cuộc cải cách dần cũng tạm lắng, thiên hạ yên bình trở lại. Chính phủ mới lao vào giải quyết những tàn dư cũ. Đó không phải là việc dễ dàng, nên cho đến mãi năm Minh Trị thứ năm (1872-ND), thứ sáu vẫn chưa thể quay ra quan tâm đến giáo dục được. Lúc đó, trên toàn quốc chỉ có một cơ sở duy nhất dạy Tây phương học là trường Keiō-gijuku của tôi. Cho đến trước khi chính phủ thực thi chính sách Haihanchiken (Phế-phiên-trí-huyện) [4] thì vẫn chỉ có trường Keiō-gijuku là hoạt động. Sau đó, Bộ Giáo dục mới được thành lập. Từ đó trở đi, chính phủ bắt đầu thực sự dồn sức vào phát triển giáo dục. Trường tôi vẫn dạy như trước đây và ngày càng có nhiều học sinh đến nhập học. Số lượng học sinh luôn ở mức từ 200 đến 300 người. Chúng tôi quyết định chỉ dạy cách đọc và giải nghĩa sách viết bằng Anh ngữ, chứ không dạy Hán học như đã từng được tiến hành ở Nhật từ trước đến nay. Vì vậy, trong số học sinh có rất nhiều người không đọc được chữ Hán. Dần dần, càng xuất hiện nhiều học sinh có thể đọc được bất kỳ văn bản bằng tiếng Anh nào, mà sách vở, thư từ chữ Hán thì lại không hiểu gì. Hơi ngược đời, vì người ta học chữ Hán trước, sau mới chuyển sang tiếng Anh, còn ở trường tôi thì có người học Tây phương học xong mới chuyển sang Hán học. Những người như cậu Hatano Shōgorō (Ba-Đa-Dã Thừa-Ngũ-Lang) [5] từ nhỏ học toàn sách vở tiếng Anh và không đọc được sách vở của Nhật Bản. Nhưng nhờ có văn tài bẩm sinh và trí lực dồi dào, nên sau khi học Tây phương học, cậu đã chuyển sang Hán học và tiến bộ nhanh chóng. Cho đến nay, cậu Hatano đã trở thành một học giả xuất sắc và không hề gặp trở ngại gì về mặt ngôn ngữ. Phương châm giáo dục: dạy chủ yếu về khoa học tự nhiên và giáo dục tinh thần độc lập Nhờ có nhiệt tâm muốn quảng bá Tây phương học trên toàn nước Nhật và muốn xây dựng đất nước văn minh, giàu mạnh như các nước phương Tây, nên trường Keiō-gijuku của tôi đã trở thành tiên phong, hướng đạo cho ngành Tây phương học ở Nhật Bản. Trường đã đóng vai trò như một “đại lý” trong ngành nghiên cứu Tây phương học, một việc không phải do người phương Tây nhờ vả. Vì vậy, chúng tôi bị những người ngoan cố, cổ hủ ghét là chuyện dễ hiểu. Tư tưởng giáo dục của tôi là coi trọng những quy luật tự nhiên, dạy học sinh chủ yếu là hai bộ môn toán học và vật lý. Tôi muốn họ suy nghĩ về mọi sự vận động của những vật hữu thể như con người, vạn vật theo lối tư duy đó. Còn về mặt đạo đức, chúng tôi công nhận con người là chí tôn, chí linh của vạn vật nên phải trân trọng, không được coi thường hay khinh miệt và cũng không được làm điều gì trái với nhân luân con người. Bất nhân, bất nghĩa, bất trung, bất hiếu, những điều xấu xa đó, dù có ai nhờ hay thúc bách đến đâu, cũng không được làm. Mỗi người đều phải hướng đến những hành động cao thượng và phải có tinh thần tự lập cao. Trước hết, phải có một cơ sở giữ cho tâm không được động loạn và chuyên chú vào điều mình định hướng đến. Thử nhìn tương quan giữa phương Đông và phương Tây, về sự tiến bộ trước-sau, nhanh-chậm sẽ thấy một sự khác biệt lớn. Cả hai nền học thuật đều thuyết giáo các vấn đề về đạo đức, đều có những lý luận về kinh tế. Cả văn lẫn võ, cả hai đều có những sở trường, sở đoản khác nhau. Nhưng nếu xét về sức mạnh của một quốc gia, về phú quốc cường binh và vấn đề hạnh phúc của người dân thì các quốc gia ở phương Đông phải chịu lùi bước trước các quốc gia phương Tây. Sức mạnh của bất kỳ một quốc gia nào cũng sẽ bắt nguồn từ giáo dục, nhưng phương pháp giáo dục của phương Đông và phương Tây lại khác nhau. Phương Đông nặng về tư tưởng Nho giáo, còn phương Tây thiên về chủ nghĩa văn minh. Nếu so sánh như vậy thì phương Đông thiếu hai điểm. Về mặt hữu hình, thiếu các khoa học tự nhiên, và về mặt vô hình thiếu tinh thần độc lập. Chính trị gia thì trị nước, doanh nhân thì tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh, người dân phải có tinh thần yêu nước, gia đình phải đoàn tụ, chan hòa hạnh phúc. Nếu tìm về cội nguồn sẽ hiểu nguyên do tại đâu. Ví dụ một cách gần gũi, dễ hiểu là phạm vi một quốc gia, mà xa xôi hơn là phạm vi toàn nhân loại. Toàn thể loài người và vạn vật ở đâu cũng không thể thiếu được các tri thức về khoa học tự nhiên, ở đâu cũng không thể thiếu tinh thần độc lập. Nhưng điều quan trọng đó lại quá bị coi thường ở Nhật Bản. Vì thế, không thể mở cửa để sánh vai với các cường quốc phương Tây được. Tôi tin tưởng một cách sâu sắc, đó là do lỗi của nền giáo dục Hán học. Trong hoàn cảnh hiện nay, không đủ kinh phí, không thể xây dựng những khoa học chuyên ngành, nhưng trong điều kiện có thể, chúng tôi quyết định theo phương châm giáo dục dạy chủ yếu về các khoa học tự nhiên. Bên cạnh đó, về mặt đạo đức thì đề cao tư tưởng độc lập. Từ sớm đến chiều, trong bất cứ câu chuyện nào, chúng tôi cũng đều nói về sự cần thiết hoặc tiến hành các bài giảng, viết sách chỉ dẫn về phương châm đó. Chúng tôi đã cố công mày mò và nỗ lực thực hiện chủ trương đề ra, nên niềm tin của các học sinh đối với Hán học nhạt dần đi. Khi được nghe kể, hiện nay các học sinh cũ của trường đang tích cực hoạt động bên ngoài xã hội, mặc dù ở cương vị công tác nào họ vẫn không rời xa các tri thức về khoa học tự nhiên, giữ gìn phẩm cách cao thượng và tinh thần độc lập. Đối với tôi, đó là niềm vui lớn lao nhất trong những năm về già. Một mình đối địch với cả nền Hán học trong nước Tôi không tôn thờ Hán học và không đặt Hán học ở vị trí quan trọng. Hơn thế, từ lúc còn trẻ, tôi đã có tâm huyết muốn loại bỏ hết những học thuyết thủ cựu hủ nho. Việc các thông dịch viên hay những nhà Tây phương học phê phán các nhà Hán học là chuyện bình thường, không hại gì cả. Nhưng tôi lại là người đọc khá nhiều sách Hán học. Tôi đọc, nhưng luôn tỏ ra không biết để những lúc cần thiết lại cho ra những phê phán thâm sâu. Điều này đã làm cho các nhà Nho thời đó không thể không hận tôi được. Với những người khác thì tôi luôn thật lòng, nhưng với các nhà Nho thì khác. Tôi có biết các điển tích, điển cố mà các nhà Nho thường dùng vì như tôi đã nói, từ thuở nhỏ tôi đã theo học các sách vở kinh điển khó từ những người thầy nghiêm khắc. Những cuốn như Xuân thu tả thị truyện, Quốc ngữ, Sử ký, Hán thư thì tất nhiên là tôi đã đọc. Ngoài ra, còn học tứ thư ngũ kinh như Kinh Thi, Kinh Thư... Cả những cuốn rất thú vị của Lão Tử, Trang Tử tôi cũng đều đã được nghe thầy giảng hoặc tự mình nghiên cứu. Đó là nhờ công dạy dỗ của thầy Shira'ishi, một danh Nho của Nakatsu. Mặc dù thông hiểu những sách kinh sử như vậy, nhưng tôi luôn tỏ ra không biết và khi có dịp thì nắm ngay những điểm yếu của Hán học để tấn công không thương tiếc, cả bằng lời nói và trên sách vở. Chuyện đó người ta gọi là “nuôi ong tay áo”, mà đối với các nhà Nho thì tôi là kẻ ngoại đạo xấu xa. Việc tôi lấy Nho giáo làm kẻ đối địch của mình đến mức như vậy, vì theo tôi, trong thời đại mở cửa mà để tư tưởng thủ cựu của Nho giáo đọng vào trong trí não lớp hậu thế, thì tư tưởng văn minh của phương Tây sẽ rất khó vào được Nhật Bản. Tôi nỗ lực hết sức để cứu lớp trẻ, để đưa họ đến với nền học thuật mà tôi đặt niềm tin tuyệt đối vào đó. Thực tâm tôi đã chuẩn bị tinh thần tập hợp tất cả các nhà Nho đến để một mình đối đầu với họ. Nhìn vào tình hình chính phủ và xã hội bên ngoài, nói chung, việc giáo dục văn minh đã được truyền bá khá rộng rãi, nhưng những người từ trung niên trở lên lại không thể bước vào địa hạt của Tây phương học được. Khi làm chuyện gì đó, họ đều phải dựa vào Hán học, mọi sự đều suy tư từ Hán học. Vì thế, việc tôi dám coi thường và thách thức với cả nền Hán học mà họ cho là thần bí, thâm hậu là việc rất nguy hiểm cho bản thân tôi. Một mình viết và dịch sách Hơn nữa, trước và sau cải cách Minh Trị là thời kỳ mà tôi dồn sức vào viết, dịch sách. Về bối cảnh ra đời của các tác phẩm này, tôi có cho in trong Tuyển tập Fukuzawa Yukichi, nên xin được lược bớt, không trình bày lại ở đây. Việc dịch và viết sách vốn là ý tưởng của riêng tôi. Tôi không nhận lời yêu cầu, chỉ thị của ai cũng như không bàn bạc cùng ai, mà tự mình viết theo ý của mình. Không kể với các nhà Nho thời đó, tất nhiên, mà với cả bạn bè cùng chí hướng theo Tây phương học, tôi cũng không đưa cho xem và cũng không nhờ viết giúp cả lời giới thiệu. Như thế có lẽ không được hay. Đáng ra tôi nên nhờ một ông thầy cao niên nào đó viết giúp lời tựa thì tốt hơn. Nhưng tôi không thích như vậy. Dài dòng quá, mà không cần biết bản dịch của tôi thực tế thế nào, tất cả những người theo trường phái Hán học cổ xưa có lẽ đều không ưa gì. Mặc dầu vậy, những cuốn sách đó vẫn được phổ biến rộng rãi, là vì đang có cao trào tư tưởng mở cửa, khai hóa văn minh. Chương 13 Lấy danh nghĩa sách nguyên bản để kiếm tiền Có lần tôi đã mang sách nguyên bản đến chỗ Karō tên là Okudaira Iki và nhờ mua giúp. Karō vốn là một chuyên gia, nên khi nhìn thấy cuốn sách liền bảo ngay: “Cuốn này hay đấy. Chắc là đắt!”. Ông ta hết lời khen ngợi, nhưng tôi vốn biết rõ bụng dạ ông ta thế nào. Nếu tôi vênh vang bảo cuốn đó rất hữu ích và giá mà tôi bán là giá rẻ không ngờ, ông ta sẽ nói: “Nếu đúng như thế, cậu đem đi chỗ khác mà bán!”. Tôi biết rõ tim đen của ông ta, nên đã đón đầu: “Đúng là như thế, đây là cuốn sách mà tôi rất cần và việc tôi đến nhờ ông mua giúp là vì tôi có thể nhận tiền đó để chi tiêu, nhưng lại có thể mượn về lúc nào cần. Thực ra, đó là cách để tôi nhận không tiền của lãnh địa. Vì vậy, tôi mạo muội bày tỏ thật suy nghĩ của mình và mong ông cấp cho tôi tiền, trên danh nghĩa là tiền mua sách. Nói tóm lại, tôi chỉ là một kẻ ăn mày khéo xin mà thôi!”. Thấy tôi nói thẳng căng ra, ông ta cũng đành chịu. Chuyện tôi dám làm như vậy là vì, có nghe kể rằng, chính ông ta đã đem bán một cuốn sách nguyên bản cho lãnh địa với giá 20 Ryō gì đó, nên có một đối sách ngầm là nếu ông ta từ chối, tôi sẽ làm tung mọi chuyện ra. Đây quả thực là một phương tiện uy hiếp hữu ích, nên ông Karō không còn cách nào khác, đành thuận theo. Tôi lấy danh nghĩa là bán sách theo đúng như tiền lệ đã có từ trước để lấy hơn 20 Ryō. Trong đó, tôi gửi về quê cho mẹ 15 Ryō, tạm thời giúp cụ qua cảnh nghèo túng. Con người là sâu mọt của xã hội Như vậy, tôi đã làm một việc hết sức đáng bị khinh bỉ và không còn gì để biện minh. Tôi làm việc đó mà không hề biết xấu hổ, không hề cho rằng, đây là việc xấu, mà chỉ nghĩ, nếu không lấy thì thiệt mà thôi. Như người đi săn sẽ chọn việc bắn một con chim nhạn hơn là đem về một con sẻ nhỏ, tôi đã chỉ nghĩ là làm thế nào để có thể lấy được một khoản tiền lớn và thầm hãnh diện về việc mình làm. Đó thực ra là một điều đáng khinh rẻ, nhưng bản chất của tôi không hẳn là tồi tệ đến mức đó. Tôi sinh ra trong một gia đình mà gia phong không phải là tồi, từ nhỏ đã được giáo dục bởi một người mẹ có tâm hồn trong sáng và ngay thẳng. Tôi tự đặt ra cho mình một nguyên tắc: Khi giao du với người khác, không bao giờ được màng đến tiền bạc của họ. Nhưng chỉ với những cơ quan chức trách của Mạc phủ là tôi luôn có dã ý làm những việc trái với nguyên tắc sống của mình mà không hề cảm thấy xấu hổ. Thế mới thấy con người chính là sâu mọt của xã hội. Tình hình xã hội mà luôn ở một trạng thái ổn định thì sâu mẹ sẽ đẻ sâu con và cứ như thế đến vô tận. Để thay đổi bộ mặt của những con sâu, tức những nô lệ của thói tục cũ đó, xã hội cần có một cuộc cải cách lớn. Bởi vậy, sự kiện Mạc phủ, tức bộ máy chính quyền đã từng tồn tại trong suốt 300 năm bị lật đổ, là một cuộc cải cách lớn của xã hội Nhật Bản. Theo đó, tôi cũng như người tỉnh dậy sau cơn mộng mị và cũng phải thay đổi cách ứng xử của mình với Mạc phủ. Cho đến nay, tôi đã làm những điều đáng xấu hổ, vì đã quá tôn sùng người của Mạc phủ, coi họ là người cao quí và tài sản của họ là của công, của thiên nhiên. Vì thế, chính tôi bất giác đã trở thành kẻ vô liêm sỉ. Nhưng từ nay, các lãnh chúa cũng là những người bình thường, bình đẳng như bao người khác. Từ cách nhìn nhận này tôi đi đến ý nghĩ cho rằng, việc tham lam vơ vét đồ của người khác là không xứng đáng với một người đàn ông. Khi đó, tôi không nghĩ sâu sắc và cũng không nói ra bằng lời, nhưng hiểu trong mình đã có một sự chuyển biến lớn. Một người trước đây đã từng làm những việc đáng khinh rẻ với Mạc phủ như vậy, mà sau này có lúc người của Mạc phủ mang đến cho tôi cũng từ chối thẳng thừng. Tôi không từ chối thì bên ngoài cũng không ai cười chê mà tự nhiên lại biến đổi ra như vậy. Kẻ mà cho đến gần đây vẫn tham lam như người Triều Tiên, bây giờ lại thẳng thắn bỏ trả những thứ người ta đem đến cho mình và trở thành một kẻ sĩ cao thượng, liêm khiết không khác gì anh em nhà Bá Di, Thúc Tề [6]. Đó há chẳng phải là một sự chuyển biến phi thường hay sao? Đây không phải là chuyện của người khác, mà chính là chuyện của bản thân tôi, là điều tự tôi nhìn lại và phê phán mình. Cũng phải nói thêm rằng, cùng với việc chính quyền phong kiến trung ương bị lật đổ thì tâm lý bị coi là nô lệ trong từng cá nhân cũng theo đó mà mất đi. Không nên đặt hy vọng vào văn minh Trung Hoa Nói rộng ra một chút phải nhắc đến Trung Hoa. Nhìn vào thực trạng hiện nay, khi mà nhà Mãn Thanh vẫn tồn tại thì việc đưa người dân Trung Hoa tiến lên khai hóa văn minh là điều không tưởng và vô ích. Nói gì thì nói, nếu đào đến tận gốc rễ chính quyền cũ và thiết lập một cơ cấu mới, lòng người cũng sẽ thay đổi theo. Chính phủ mới, dù có những nhân vật kiệt xuất đến thế nào, kể là có một trăm ông Lý Hồng Chương [7] cũng không thể làm được gì. Người Trung Hoa muốn tiến hành khai hóa văn minh, thay đổi nếp nghĩ của người dân, không còn diệu kế nào khác hơn là phải lật đổ chính quyền trung ương hiện nay. Lật đổ được chính quyền đó, nhưng tiếp theo đó có tiến hành được cuộc Vương chính duy tân như ở Nhật hay không còn là điều khó mà bảo đảm được. Muốn giành độc lập cho đất nước, không còn cách nào khác là phải lật đổ chính phủ hiện nay. Chính phủ là của quốc gia hay quốc gia thuộc về chính phủ, những điều như vậy tôi chắc người Trung Hoa cũng hiểu. Sự yên ắng trong lãnh địa là nhờ chính mình Từ chuyện về tiền bạc tôi viết lan man thành ra dài dòng, nhưng tiện đây, tôi cũng xin kể một chút về lãnh địa Nakatsu. Như đã nói ở phần trên, tôi không tham dự gì vào những cuộc tranh luận về chính trị ngoài thiên hạ như Cần vương, Tá Mạc. Về đường hướng chính trị của lãnh địa Nakatsu, tôi cũng rất lạnh nhạt, nên tự do, không phải vướng bận gì. Khi cuộc Vương chính duy tân được tiến hành, quan sát sự tình của các lãnh địa, tôi thấy những tranh luận về Cần vương, Tá Mạc ngày càng lan rộng. Hơi xảy ra chuyện gì là người ta liền bắt các cựu đại thần mổ bụng tự sát. Hoặc để cải cách thể chế hành chính của Mạc phủ với một quyết định anh minh nhất, lại nổ ra những cuộc tranh luận và chia bè phái dẫn đến mâu thuẫn, đổ máu. Trong mười lãnh địa, phải có đến tám, chín lãnh địa xảy ra tình trạng như vậy. Khi đó, nếu tôi có tham vọng chính trị và về lãnh địa phát biểu quan điểm của mình là Cần vương hay Tá Mạc thì nhất định sẽ xảy ra bạo loạn chứ không sai. Thế nhưng, tôi im lặng, không hề phát ngôn gì. Hơn nữa, còn thờ ơ đến mức có ai đến nói gì, tôi cũng gạt đi bảo không cần nói nhiều những chuyện như thế, nên thôi đi thì hơn. Nhờ vậy, lãnh địa Nakatsu rất yên ắng, không có chuyện giết chóc lẫn nhau. Tôi nghĩ đó là do tôi không bình luận, nên trong lãnh địa không có chuyện giết chóc, cũng không xảy ra việc người này thăng quan, người kia thoái chức hỗn loạn. Nói chuyện một cách nửa vời với những vị chức trách của lãnh địa Năm Minh Trị thứ ba (1870-ND) tôi về Nakatsu đón mẹ. Khi đó, thể chế hành chính của lãnh địa đang ở vào tình thế biến đổi mạnh mẽ. Nghe phong thanh Fukuzawa từ Tōkyō về, người ta cho gọi đến tư dinh của lãnh chúa. Ở đó đã tập trung đông đủ những vị chức sắc quan trọng của lãnh địa. Có lẽ họ đều chờ tôi đến và phát ngôn điều gì ghê gớm. Khi thấy tôi xuất hiện họ hỏi xem lãnh địa cần phải làm thế nào, rằng, họ như đang đứng trong sương mù, phân vân không biết nên đi theo đường hướng nào. Họ nói với vẻ mặt rất lo lắng, nên tôi trả lời rằng: “Không cần phải làm gì cả. Các lãnh địa đang ầm ĩ về việc phải chia lại bổng lộc cho đều, còn theo tôi thì cứ để nguyên như hiện nay, không nên làm gì cả. Người nào trước kia nhận 1000 Koku thì nay vẫn giữ nguyên 1000 Koku, người nhận 100 Koku cũng cứ cho họ nhận 100 Koku. Giữ nguyên sự yên bình như hiện nay là thượng sách”. Tôi nói cụ thể và rành rọt ý nghĩ đó, nên tất cả những vị chức sắc có mặt đều ngạc nhiên, đồng thời vui mừng ra mặt, khi thấy tôi trò chuyện một cách ôn hòa như vậy. Khuyên bán vũ khí Câu chuyện tiến sâu thêm thì tôi đưa ra một đề nghị: “Như tôi vừa nói, vấn đề bổng lộc hay đẳng cấp nên để nguyên như vậy. Nhưng tôi muốn khuyến cáo một điều rằng trong lãnh địa hiện nay có cả súng lớn và súng nhỏ. Có vũ khí thì lập được nước. Đó là điều dễ thấy. Thế nhưng, với những vũ khí mà các võ sĩ và lãnh địa có trong tay, liệu trên thực tế chúng ta có thể tiến hành chiến tranh được không? Tôi cho là không thể! Chẳng hạn như hôm nay mà người Chōshū đến làm bạo loạn, chúng ta cũng đành phải theo họ. Mà nhỡ quân Sasshū có kéo đến tấn công, chúng ta cũng không chống trả lại được, đành khuất phục theo. Đây mới là điều tôi thực sự lo lắng. Theo tôi, lãnh địa yếu thế không có lỗi, mà việc có vũ khí chỉ gây họa thêm. Thế nên, tôi chỉ muốn lãnh địa bán hết vũ khí đi. Nhìn lại, thấy đại bác của chúng ta toàn là đại bác Krupp [8]. Thời giá bây giờ mỗi khẩu có thể bán được 3000, 5000 hay 10.000 yên. Chúng ta nên đem bán hết đi như đảo Ryūkyū (Lưu-Cầu) [9] ngày xưa. Khi người Chōshū đến, ta cũng “Dạ, dạ”, mà người Sasshū đến, ta cũng “Vâng, vâng”. Nếu người Sasshū bảo thế này, thế kia, ta bảo họ đi mà nói trực tiếp với Chōshū. Còn khi người Chōshū yêu cầu gì, ta nên bảo họ trực tiếp đến nhờ người Sasshū. Nghĩa là ta nên chuyển những phiền toái cho người khác, còn lãnh địa chúng ta thế nào cũng chấp thuận được. Theo tôi xử sự như thế là hơn. Làm như vậy sẽ không có chuyện giết người, mà không giết người thì họ sẽ không có cớ gì để bắt ta. Hơn nữa, dù thế nào đất nước này cũng theo đường khai hóa văn minh. Vì vậy, chúng ta nên xây dựng trường học, giáo dục cho lớp trẻ trong lãnh địa theo chiều hướng đó là tốt nhất. Nếu chúng ta quyết định thực hiện theo phương châm này và bán hết sạch vũ khí đi thì quả là tuyệt vời. Ở đây có một chuyện thế này. Qua khảo sát tình hình Tōkyō, tôi thấy chính phủ mới đang định tiến hành cải cách toàn bộ hải quân và đang bí về chuyện tiền bạc. Thế nên, ta thử viết giấy vừa như là đơn xin vừa như là giấy đăng ký xin bán là được. Lãnh địa Nakatsu của chúng ta bỏ vũ khí như vậy, mỗi năm sẽ để ra được mấy vạn yên. Chúng ta mà bảo sẽ nộp tiền đó cho chính phủ để họ tùy ý chi tiêu thì Bộ hải lục quân sẽ rất vui mừng. Về phần chính phủ, nếu ba trăm lãnh chúa, mỗi người chế tác một loại vũ khí khác nhau, mỗi người tổ chức một quân đội khác nhau, cuối cùng làm sao thâu tóm được? Chuyện làm thế nào để thống nhất thiên hạ chẳng phải là đã nằm trong sách lược của chính phủ hay sao? Thế nhưng, nếu ở nơi này dùng súng Krupp, lãnh địa bên cạnh lại dùng đại bác của Armstrong [10], nơi kia lại dùng các loại súng nhỏ của Pháp, ngay ở đây lại có cả súng Geweer [11] nhập từ Hà Lan về từ ngày xửa ngày xưa. Tình trạng trong toàn nước Nhật có hàng trăm, hàng nghìn loại vũ khí như thế, mà bây giờ có sự biến gì cũng không thể tiến hành chiến tranh được. Chúng ta nên nộp tiền cho chính phủ. Như thế không chỉ bên phía chính phủ mừng rỡ mà cả lãnh địa Nakatsu cũng được an lạc. Đó chính là hành động nhất cử lưỡng tiện, nên tôi khuyên lãnh địa hãy làm theo như thế”. Võ sĩ lưng trần Thế nhưng, phía lãnh địa lại gay gắt phản đối ý kiến của tôi. Trong số ba, bốn người phụ trách về mặt quân sự của lãnh địa, những người như ông Suganuma Shingoemon (Gian-Chiểu Tân-Ngũ-Tả-Vệ-Môn) [12] là phản đối kịch liệt nhất. Tất cả cử tọa hôm ấy đều thống nhất một ý kiến. Tôi chẳng thể làm gì được hơn, mới quay ra các võ sĩ bảo họ nên buông gươm kiếm, để thắt lưng trần, nhưng họ bảo, chỉ có điều đó là dù thế nào cũng không thể bỏ được. Vì vậy, tôi cũng không bàn sâu thêm nữa. Không được thì thôi, đừng làm, với tôi thế nào cũng được. Họ cứ việc làm theo ý họ, còn việc tôi nói là vì, tôi cho rằng, nên như thế. Và câu chuyện kết thúc ở đó, nhưng cũng nhờ tôi không có nhiệt tâm bàn luận các vấn đề chính trị mà các võ sĩ của Nakatsu cũng không bị thương tích gì. Đó là một sự thực và ngẫu nhiên tôi đã làm được một việc tốt cho lãnh địa. Hơn nữa, ở Nakatsu người ta không tiến hành giảm bổng lộc mà chia đều theo đầu người, nên có người tự nhiên lại được nhận nhiều thêm. Phần chia rất có lợi. Ví dụ như cô Ri (Lý), vợ tôi, trước đây có thu nhập 250 Koku thì nay nhận được phiếu công trái trị giá 3000 yên. Nhà anh Imazumi Yutarō (Kim-Tuyền Tú-Thái-Lang), tức là anh rể của vợ tôi trước đây, thu nhập 350 Koku, nay được nhận 4000 yên. Nhưng bổng lộc nhận được thì cũng như một thứ tiền chẳng trong sáng gì, thoáng chốc đã hết veo. Chỉ có một điều tôi muốn nhấn mạnh là trong khi bên ngoài biến động ầm ầm thì lãnh địa Nakatsu lại rất yên ả. Chú thích[1]Obon hay còn gọi là Urabon vốn bắt nguồn từ “Ullambana” của tiếng Phạn, dùng để chỉ nghi lễ Phật giáo được tổ chức vào ngày 15 tháng 7 âm lịch, hay còn gọi là Lễ Vu Lan. Vào ngày này, người ta thường tụng kinh, đi thăm mộ và dâng đồ thờ cúng lên những vị đã quy tiên trong họ tộc mình.[2]Địa danh xưa, trải rộng trên các tỉnh Fukushima, Miyagi, Iwate và Aomori của vùng Đông Bắc Nhật Bản. [3]Tên một lãnh địa xưa, nằm ở phía tây tỉnh Fukushima ngày nay.[4]Haihanchiken (Phế-phiên-trí-huyện) là chính sách được thực thi bắt đầu từ ngày 14 tháng 7 năm Minh Trị thứ tư (1871) nhằm xóa bỏ lãnh địa và các đơn vị hành chính cũ, đưa các lãnh chúa lên tập trung ở Tōkyō. Thay vào đó là các tỉnh trưởng được chính quyền trung ương trực tiếp bổ nhiệm và phái xuống các địa phương. Tháng 11 năm 1871, thể chế hành chính quốc gia với 3 phủ và 72 tỉnh được thiết lập.[5]Hatano Shōgorō (1854-1929), người vùng Totominokuni Kakekawa (thuộc tỉnh Shizuoka ngày nay). Ông đã kinh qua nhiều trọng trách như đại biểu nghị viện thành phố Tōkyō, Tổng Biên tập báo Nihon shimbun, Giám đốc điều hành Ngân hàng Mitsui,…[6]Bá Di, Thúc Tề là hai nhân vật sống vào thời cổ đại của Trung Quốc. Tương truyền rằng, khi Vũ vương nhà Chu tiến hành cuộc chinh phạt Trụ vương nhà Ân, hai anh em Bá Di, Thúc Tề đã vỗ vào ngựa của Vũ vương và khuyên ngăn, nhưng Vũ vương không nghe theo, nên họ tự thấy xấu hổ khi nhận bổng lộc của nhà Chu bèn ẩn vào Thủ Dương Sơn ăn cây độc mà chết. Họ được coi là tấm gương của tâm hồn cao thượng và thanh khiết.[7]Nhà hoạt động chính trị hàng đầu của chính phủ Mãn Thanh.[8]Tên của công ty chuyên sản xuất vũ khí của Đức.[9]Tên cũ của đảo Okinawa ngày nay.[10]Tên của một nhà chuyên sản xuất chế tạo đại bác và các loại máy móc thủy lực người Anh.[11]Geweer tiếng Hà Lan là chỉ súng tiểu lục, nhưng năm 1831 có một đợt nhập súng nhỏ này từ Hà Lan một cách ồ ạt và từ đó, người Nhật quen gọi tiểu lục của Hà Lan là Geweer.[12]Là võ sĩ cấp cao và am hiểu về cả binh pháp của phương Đông và phương Tây.