Trái với dự kiến của Marx và Engels, quan niệm “chuyên chính vô sản” khi đem áp dụng vào thực tế đã không tạo ra được một nhà nước kiểu mới chuẩn bị cho sự tiêu vong của chính mình, mà cũng không thể tạo ra những thiết chế dân chủ hơn so với chế độ dân chủ tư sản. Lịch sử trong thế kỷ XX đã cho thấy quan niệm ấy chỉ dẫn đến sự ra đời của một chế độ chuyên chính kiểu mới, về bản chất có nhiều điểm tương đồng với các chế độ độc tài (chuyên chính) đã từng có trong lịch sử, nhưng về hình thức thì được hiện đại hoá, và được tô vẽ bằng một bề ngoài cách mạng, dân chủ. Nhà nước xô-viết - nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên trên thế giới, trong thực tế đã trở thành một nhà nước tiêu biểu cho chế độ toàn trị (totalitarianism, totalitarisme), nghĩa là một thể chế trong đó Nhà nước khống chế, kiểm soát toàn bộ các hoạt động của xã hội. Nhận xét về nhà nước xô-viết dưới thời Stalin, Raymond Aron cho rằng hiện tượng toàn trị thể hiện ở năm yếu tố như sau:
[1]Raymond Aron, Démocratie et totalitarisme, sđd, tr. 287-288. [2]Oligarchy, oligarchie: Danh từ có nguồn gốc từ chữ Hy Lạp oligo (số ít) và arkhê (quyền chỉ huy). Dùng để chỉ một chế độ chính trị trong đó quyền lực nằm trong tay một vài người hay một vài gia đình (Petit Larousse). Đào Duy Anh dịch là quả đầu chính trị (Từ điển Hán Việt), Thanh Nghị dịch là quả đầu chính thể (Pháp Việt tân từ điển minh hoạ). Quả trong tiếng Hán-Việt có nghĩa là ít. Cách dịch này chính xác hơn là cách dịch hiện nay: chính thể đầu sỏ, chế độ đầu sỏ. [3]Raymond Aron, Sđd, tr. 258-264.[4]“Union of Soviet Socialist Republics”, Encyclopædia Britannica 2000, 1994-2000.[5]“Communist Party of the Soviet Union”, Encyclopædia Britannica 2000, 1994-2000.[6]“So với tên phản bội Kautxky, thì tên phản bội Bernstein chẳng qua chỉ là một con chó con mà thôi” (Lenin, Cách mạng vô sản và tên phản bội Cau-xky, sđd, tr. 27).[7]Còn được dịch là giai cấp quan liêu.[8]Raymond Aron, Sđd, tr. 312-315.[9]Xem: “Hydraulic civilization”, Encyclopædia Britannica 2000, 1994-2000.[10]“Lenin’s Testament”, Encyclopædia Britannica 2000, 1994-2000.
- Một đảng duy nhất nắm độc quyền trong hoạt động chính trị.
- Đảng chính trị độc quyền được trang bị một ý thức hệ (hệ tư tưởng) và ý thức hệ này trở thành chân lý chính thống của Nhà nước.
- Để rao giảng chân lý chính thống đó, Nhà nước nắm độc quyền về các phương tiện bạo lực và các phương tiện tuyên truyền. Tất cả các phương tiện thông tin đại chúng đều được lãnh đạo, chỉ huy bởi Nhà nước.
- Phần lớn các hoạt động kinh tế và nghề nghiệp đều lệ thuộc vào Nhà nước và theo một cách nào đó, trở thành một bộ phận của chính Nhà nước. Các hoạt động kinh tế và nghề nghiệp này cũng được nhuộm màu ý thức hệ.
- Mọi hoạt động đều là hoạt động của Nhà nước và đều lệ thuộc vào ý thức hệ, do đó mọi sai lầm trong hoạt động kinh tế và nghề nghiệp đồng thời cũng là một sai lầm về ý thức hệ. Cuối cùng dẫn đến một tình trạng chính trị hoá, một sự chuyển hoá ý thức hệ đối với mọi sai lầm có thể có của mọi cá nhân; điều này dẫn đến một sự khủng bố vừa mang tính chất cảnh sát, vừa mang tính chất ý thức hệ. [1]
°
Chuyên chính vô sản, qua các đặc điểm vừa nêu trên, không thể là một chế độ dân chủ, mà chỉ là một chế độ thiểu số trị (oligarchy, oligarchie), trong đó quyền lực rơi vào tay một đẳng cấp có đặc quyền trong xã hội (các đảng viên cộng sản); và trong nội bộ đẳng cấp này, quyền lực lại được tập trung vào tay một vài người có thế lực trong Bộ chính trị, thậm chí rơi vào tay một cá nhân. Nguyên nhân của tình hình này bắt nguồn từ chỗ Marx bác bỏ những nguyên tắc của chế độ đại nghị. Chính vì bác bỏ chế độ đại nghị cho nên chuyên chính vô sản thiếu hẳn một cơ chế hãm có khả năng ngăn chặn tình trạng lạm dụng quyền lực. Điều đáng lưu ý là những giải pháp mang tính dân chủ mà Marx và Engels đã nêu lên qua kinh nghiệm của Công xã Paris đều không được thực hiện, hay nói đúng hơn là không thể thực hiện được: Trước hết là việc bầu và bãi miễn các thành viên của Nhà nước. Do chỗ Đảng cộng sản độc chiếm quyền lực chính trị cho nên việc bầu cử trong các nước xã hội chủ nghĩa theo mô hình của Lenin chỉ là một sinh hoạt mang tính hình thức nhằm hợp pháp hoá việc chọn lựa nhân sự của Đảng: dân được quyền bầu cử, nhưng danh sách ứng cử viên lại do Đảng chọn; dân chỉ được quyền chọn lựa trong số những người Đảng đã chọn trước. Những người bất đồng chính kiến hay không được Đảng tin cậy đều bị gạt ra khỏi danh sách trước đó. Việc bầu các chức danh chủ chốt lại càng chặt chẽ hơn, đến mức các chức vụ chủ chốt của bộ máy Nhà nước hầu như được qưyết định trước trong các cuộc họp của Đảng. Với cung cách ứng cử, bầu cử như thế thì người dân hoàn toàn không có quyền bầu và bãi miễn bất cứ một ai. “Đảng cử, dân bầu”. Nói cách khác bầu cử chỉ là một hình thức xem xét mức độ tín nhiệm để bảo đảm cho ý Đảng hợp với lòng dân. Trong trường hợp lòng dân và ý Đảng không phù hợp thì người dân cũng không biết cách nào hơn là trông chờ vào sự sáng suốt của Đảng: sự trông chờ này có cái gì tương tự như sự trông chờ của dân đen vào sự sáng suốt của thiên tử và các cận thần trong các xã hội Á Đông chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Mặt khác, trong khi Marx và Engels ca ngợi Công xã Paris vì đã công khai hoá mọi hoạt động của mình, thừa nhận những khuyết điểm của mình thì chuyên chính vô sản trong thực tế luôn luôn che giấu các hoạt động của mình, nhất là che giấu khuyết điểm - kể cả những sai lầm tệ hại nhất. Câu chuyện về Di chúc của Lenin là một ví dụ điển hình cho tính chất che giấu, bí mật trong các hoạt động của Đảng cộng sản LiênXô. Văn kiện này có tên chính thức là Thư gửi Đại hội. Lá thư này gồm có hai phần: phần đầu được viết trong thời gian từ 23 đến 26.12.1922, phần thứ hai (bổ sung) được viết vào ngày 4.1.1923, với mục đích dành để gửi cho một Đại hội thường kỳ của ĐCS (b) Nga. Do tình trạng sức khoẻ kém, Lenin không thể tự viết mà phải đọc cho thư ký ghi. Lá thư được chép thành vài bản, được niêm phong cẩn thận. Chỉ có Lenin mới được mở niêm phong và trong trường hợp ông chết, thư phải do chính tay Krupskaia (vợ ông) mở. Mặc dù lá thư được viết trước Đại hội lần thứ XII (tháng 4 năm 1923), nhưng lá thư vẫn chưa được công bố tại Đại hội này. Mãi đến tháng 5 năm 1924, bốn tháng sau khi Lenin mất và vài ngày trước khi khai mạc Đại hội lần thứ XIII, Krupskaia mới chuyển lá thư đến Ban chấp hành trung ương và nói rõ yêu cầu của Lenin là lá thư phải được công bố trước Đại hội. Nhưng BCH TƯ (lúc này đã bị Stalin khống chế ) quyết định chỉ đọc lá thư tại từng đoàn đại biểu riêng lẻ thay vì đọc trước Đại hội, đồng thời cấm sao chép, công bố hay trích dẫn. Do sự ém nhẹm đó, bức thư đã không được công chúng ở Liên Xô biết đến; mặc dù ở phương tây, Max Eastman đã công bố vài đoạn của lá thư trong tác phẩm Từ khi Lenin chết vào năm 1925, và báo The New York Times đã công bố toàn văn lá thư vào năm 1926. Ở Liên Xô, mãi đến Đại hội XX của ĐCSLX (năm 1956), người ta mới biết được lá thư đó. Tại Đại hội, Khrushchev đã trích đọc một số đoạn trong lá thư để làm căn cứ cho việc tố giác tội ác của Stalin; và sau Đại hội, toàn văn di chúc của Lenin được công bố rộng rãi cho công chúng biết [10]. Che giấu sự thật gần như trở thành đặc điểm chung cho tất cả các chế độ học tập theo mô hình chuyên chính vô sản của Lenin. “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; trong bốn vế ấy, chỉ có vế thứ ba (dân làm) là được thực hiện, còn ba vế kia chỉ là khẩu hiệu suông, không có thực chất. Marx và Engels mong ước sau khi giai cấp vô sản nắm chính quyền, sẽ khởi đầu một quá trình xã hội hoá Nhà nước, đến mức xã hội công dân nuốt mất Nhà nước. Trong thực tế, đã diễn ra một quá trình nhà-nước-hoá xã hội công dân, đến mức Nhà nước nuốt chửng toàn bộ xã hội. Sở dĩ có quá trình đảo ngược ấy là do sự lãnh đạo của Đảng cộng sản được tổ chức theo khuôn mẫu của Đảng bolshevik.[1]Raymond Aron, Démocratie et totalitarisme, sđd, tr. 287-288. [2]Oligarchy, oligarchie: Danh từ có nguồn gốc từ chữ Hy Lạp oligo (số ít) và arkhê (quyền chỉ huy). Dùng để chỉ một chế độ chính trị trong đó quyền lực nằm trong tay một vài người hay một vài gia đình (Petit Larousse). Đào Duy Anh dịch là quả đầu chính trị (Từ điển Hán Việt), Thanh Nghị dịch là quả đầu chính thể (Pháp Việt tân từ điển minh hoạ). Quả trong tiếng Hán-Việt có nghĩa là ít. Cách dịch này chính xác hơn là cách dịch hiện nay: chính thể đầu sỏ, chế độ đầu sỏ. [3]Raymond Aron, Sđd, tr. 258-264.[4]“Union of Soviet Socialist Republics”, Encyclopædia Britannica 2000, 1994-2000.[5]“Communist Party of the Soviet Union”, Encyclopædia Britannica 2000, 1994-2000.[6]“So với tên phản bội Kautxky, thì tên phản bội Bernstein chẳng qua chỉ là một con chó con mà thôi” (Lenin, Cách mạng vô sản và tên phản bội Cau-xky, sđd, tr. 27).[7]Còn được dịch là giai cấp quan liêu.[8]Raymond Aron, Sđd, tr. 312-315.[9]Xem: “Hydraulic civilization”, Encyclopædia Britannica 2000, 1994-2000.[10]“Lenin’s Testament”, Encyclopædia Britannica 2000, 1994-2000.