Petronius gửi Vinixius:“Anh thật hỏng mất rồi, anh cháu thân yêu ạ(1)“! Rõ ràng nữ thần Venux đã khiến anh loạn trí, tước mất của anh trí tuệ, trí nhớ và khả năng suy nghĩ về bất cứ thứ gì khác ngoài ái tình. Một lúc nào đó anh hãy đọc lại những gì mà anh đã viết để trả lời cậu và anh sẽ nhận thấy rằng hiện giờ đầu óc anh quả là hững hờ với tất cả những gì không phải cô nàng Ligia., rằng anh chỉ quan tâm đến mỗi mình nàng, luôn luôn quay trở lại chuyện về nàng và quanh quẩn quanh nàng như một con diều hâu lượn quanh con mồi mà nó đã chọn. Thề có Ponlukx! Anh hãy tìm ra cô gái thật nhanh vào bằng không nếu lửa thiêu cháy anh thành tro thì hẳn anh cũng sẽ biến thành một con Nhân sư Ai Cập, mà người ta thường nói, quá say mê nữ thần Izyx mặt nhợt nhạt nên đã trở nên điếc đặc, hờ hững với tất cả mọi thứ và chỉ chờ đến đêm để được giương đôi mắt đá nhìn người tình.Đêm đêm anh cứ việc chạy lùng khắp thành phố trong bộ quần áo cải trang, anh cứ việc cùng với nhà triết học của anh lui tới các nhà nguyện của đám dân Thiên chúa giáo. Tất cả những gì tạo nên niềm hy vọng và giết thời giờ đều đáng ca ngợi cả. Nhưng xin anh hãy vì tình gắn bó với cậu mà làm hộ một việc: Tên Urxux, nô lệ của Ligia, hình như là một con người sức lực phi thường, vậy hãy thuê Kroton để cả bộ ba các anh tiến hành những cuộc thám hiểm. Như thế an toàn hơn và có lý trí hơn. Chắc chẳn rằng những người Thiên chúa giáo - nếu như bà Pomponis và Ligia thuộc về đạo này - không phải là những người như số đông chúng ta vẫn hiểu, tuy nhiên qua chuyện bắt cóc Ligia, họ cũng đã chứng minh rằng họ không đùa cợt khi ai đó động chạm đến một con chiên trong đám của họ. Nếu như anh trông thấy Ligia, cậu biết rõ rằng anh sẽ không thể cầm lòng nổi và anh sẽ muốn lôi nàng đi ngay lập tức, nhưng làm sao anh và lão Khilon có thể làm nổi chuyện đó cớ chứ? Còn Kroton thì sẽ làm được, dù cho tới mười thằng cha khỏe như Urxux bảo vệ nàng đi chăng nữa. Anh đừng để cho lão Khilon bóc lột, nhưng đừng tiếc tiền đối với Kroton. Trong tất cả những lời khuyên mà cậu có thể gửi tới anh, có lẽ lời khuyên này tốt hơn cả.Ở đây người ta đã thôi không còn nói tới Tiểu Auguxta và chuyện cô bé bị chết vì bùa phép nữa. Một đôi khi Poppea cũng còn nhắc tới chuyện đó, nhưng đầu óc của Hoàng thượng đang bận bịu về chuyện khác kia, mà nói cho cùng thì nếu như diva Auguxta hiện đang trong trạng thái tâm tính đổi thay thì chắc trong lòng ả, ký ức về đứa bé kia cũng đã bị xóa sạch rồi. Đã hơn chục ngày nay chúng tôi lưu lại Neapolix, mà chính xác hơn ở Baiae. Giá như anh có thể suy nghĩ về bất cứ điều gì thì chắc chắn những tiếng vang về việc chúng tôi đến đây cũng phải vọng tới tai anh, vì cả La Mã chắc hẳn không bàn tán về chuyện gì khác. Chúng tôi đã đi thẳng một mạch tới Baiae, nơi mà những tưởng niệm về người mẹ cùng những dày vò trong lương tâm đè nặng lên chúng tôi. Nhưng anh có biết Ahenobarbux (Râu Đỏ) đã tiến đến chỗ nào rồi không? Đến chỗ mà thậm chí tội giết mẹ đẻ đối với ngài cũng chỉ là một đề tài làm thơ và là nguyên cớ để diễn những vở bi hài kịch. Hồi trước ngài chỉ cảm thấy những cắn rứt thật sự khi còn là thằng hèn nhát. Còn giờ đây, một khi ngài đã tin rằng không hề có vị thần nào trả thù ngài cả, thì ngài lại giả vờ làm ra vẻ lương tâm cắn dứt để làm xúc động lòng người bằng chính số phận của ngài. Thỉnh thoảng ngài lại choàng dậy giữa đêm khuya và bảo rằng bị những nữ thần Furie săn đuổi, ngài đánh thức chúng tôi, ngài nhìn ngoảnh lại đằng sau lưng, ngài đóng vai một tên diễn viên hài kịch đang nhập vai Orext - mà là một tên diễn viên xoàng - ngài đọc thơ Hi Lạp và nhìn xem chúng tôi có thán phục hay chăng. Còn chúng tôi thì dĩ nhiên là thán phục sát đất rồi! Và thay vì bảo ngài: “Thôi đi ngủ đi, thằng hề” thì chúng tôi lại lên dây bi thảm và chúng tôi bảo vệ cho Người nghệ sĩ vĩ đại tránh khỏi các thần Furie. Thề có Kaxtor! Có lẽ ít nhất anh cũng chỉ cần biết rằng ngài đã công diễn ở Neapolix. Người ta đã lùa bọn vô lại Hi Lạp từ Neapolix và các thành phố lân cận tới, chúng khiến cho sân khấu sặc sụa mùi tỏi sống và mùi mồ hôi, đến nỗi cậu thành tâm cảm ơn Thượng đế rằng thay vì ngồi trên hàng đầu giữa các cận thần thì cậu lại cùng với Ahenobarbux ở sau sân khấu. Nhưng anh có tin là ngài đã run sợ không? Ngài đã run đấy. Ngài cầm tay cậu áp vào tim, trái tim quả thực đang đập dập đập dồn. Hơi thở ngắn và đúng vào lúc phải bước ra sân khấu thì ngài tái nhợt như một miếng giấy da cừu, trán tháo mồ hôi hột. Mà ngài thừa biết là tất cả các hàng ghế đều có bọn lính cấm vệ ngồi chực sẵn mang theo gậy để khi cần thiết sẽ bắt mọi người phải sôi nổi lên. Nhưng không cần đến thế. Không một đàn khỉ nào ở vùng Kartagin lại biết gào thét như đám vô lại này. Nói thật để anh biết, mùi tỏi sộc cả lên tận sân khấu. Còn Nerô thì cúi chào, hai tay áp vào tim, gửi những cái hôn gió và bật lên khóc. Rồi ngài nhào vào đám bọn cậu đang chờ sẵn sau sân khấu kêu tướng lên như một thằng say rượu: “Tất cả mọi thắng lợi có thấm gì so với thành công của ta?”. Còn bên dưới đám vô lại vẫn cứ hò hét và vỗ tay vì chúng biết rõ rằng chúng vỗ tay cho chính ân sủng, quà tặng, công việc làm, vé xổ số của chúng, cho một buổi biểu diễn mới của ông Hoàng đế hề. Và thậm chí cậu cũng không ngạc nhiên gì về việc chúng đã vỗ tay, vì cho tới nay bọn chúng đã được trông thấy cảnh tượng như thế này bao giờ đâu cơ chứ. Còn ngài, chốc chốc ngài lại xuýt xoa: “Đó, người Hi Lạp là thế đó! Người Hi Lạp là thế đó”. Và cậu cảm thấy rằng, từ lúc ấy trở đi, lòng căm thù của ngài đối với La Mã ngày một lớn lên. Tuy vậy ngài cũng vẫn phái các điệp sứ mang tin thắng lợi về Roma và trong những ngày này các cậu đang chờ đón lời cảm ơn của Nguyên lão viện. Ngay cuộc công diễn đầu tiên của Nerô, ở đây đã xảy ra một tai ợc cùng anh, hởi kẻ tôi đòi của Chúa. Phải! Có thể bỏ qua những điều nhục mạ đối với bản thân, nhưng ai có quyền bỏ qua những điều xúc phạm tới Đức Chúa? Nếu rắn sinh ra rắn, sự dữ sản sinh sự dữ và sự phản bội đẻ ra sự phản bội, thì tù cái nọc độc của Juđa lại sinh ra một tên phản bội thứ hai, nếu tên kia bán đứng Đấng Cứu Thế thì tên này hiện đang sống giữa chúng ta lại muốn bán những con chiên của Người cho lũ sói và nếu như không ai ngăn chặn trước sự phản bội, nếu như không ai đập nát đầu con rắn độc đúng lúc, thì cái chết đang đón đợi tất thảy chúng ta và mất đi vùng với chúng ta là cả lòng kính con chiên nữa.Người thợ nhìn lão vẻ vô cùng lo lắng, dường như không thật hiểu rõ những điều bác vừa nghe thấy. Còn lão Hi Lạp thì lấy một góc áo khoác che đầu bắt đầu lặp đi lặp lại với giọng nói nhu vọng lên từ dưới đất:- Thương thay cho an hem, những tôi con của Đức Chúa chân chính, thương thay cho an hem, hỡi các nam nữ tín đồ Thiên Chúa giáo!Im lặng lại bao trùm, lại chỉ còn nghe thấy tiếng rào rào của hạt ngũ cốc, tiếng hát âm ấm của những người thợ xay và tiếng xôn xao của dòng sông.- Thưa cha - mãi sau người thợ mới hỏi - đứa phản bội là ai vậy?Lão Khilon cúi đầu. Thằng phản bội là ai ư? Hắn là con trai của Juđa, là con đẻ của thứ nọc độc của y, hắn giả danh là người Thiên Chúa và lui tới các nhà nguyện chỉ để tố giác những người anh em trước hoàng đế, rằng họ không thừa nhận hoàng đế là thần, rằng họ đánh thuốc độc các vòi nước phun, giết chóc trẻ con và rằng họ muốn triệt phát cái thành phố này sao cho không một hòn đá nào còn nguyên vẹn nữa. Chỉ vài ngày nữa thôi người ta sẽ ra lệnh cho bọn cấm vệ bắt hết các cụ già, đàn bà và trẻ con mang đi giết, như đã hành hình những người nô lệ của viên quan Peđanius Xekunđa vậy. Và tất thấy những chuyện đó là do chính tên Juđa thứ hai kia gât nên. Nếu như tên Juđa thứ nhất không bị ai trừng phạt, nếu như hắn không bị ai trả thù, nếu như không một ai bảo vệ Đấng Crixtux trong giờ lâm nạn cực hình, thì liệu ai chăng sẽ trừng trị tên Juđa, thứ hai, có ai chăng sẽ đánh giập đầu con rắn độc trước khi hoàng đế nghe lời hắn, có ai chăng sẽ trừ khử hắn, có ai chăng sẽ bảo vêh những người an hem, bảo vệ lòng tin vào Đấng Crixtux tránh khỏi bị diệt vong?Urban từ nãy giờ vẫn ngồi yên lặng trên bờ đá chắn đột ngộ đứng bật dậy nói:- Tôi sẽ làm việc đó thưa cha.Lão Khilon cũng đứng dậy, lão nhìn mặt người thợ giây lâu, nét mặt được ánh trăng chiếu sáng, rồi khoan thai đưa cánh tay đặt nhẹ lên đầu bác.- Con hãy đi vào những người Thiên Chúa giáo - lão nói một cách trang trọng - và hỏi những người an hem về gã thầy thuốc Glaukox. Khi người ta trỏ gã cho con, thì nhân danh Đấng Crixtux, con hãy giết gã đi…- Glaukox à? - Người thợ nhắc lại dường như muốn khắc ghi vào tâm khảm cái tên ấy.- Con biết y hay sao?- Không, tôi không quen. Có tới hàng nghìn tín đồ Thiên Chúa ở Roma và không phải ai cũng biết hết nhau. Nhưng đêm mai anh chị em đồng đạo sẽ họp mặt nhau ở Oxtrianum, tất thảy mọi người, bởi vì vị sứ đồ của Đấng Crixtux đã đến, Người sẽ thuyết giáo tại đó và ở đó an hem sẽ chỉ mặt gã Glaukox cho tôi.- Ở Oxtrianum ư? - Lão Khilon hỏi lại - Có nghĩa là bên ngoài các cổng thành? Tất thảy anh chị em đồng đạo? Ban đêm à? Ở Oxtrianum, ngoài cổng thành à?- Vâng thưa cha. Đó là cái nghĩa địa của chúng ta nằm giữa Via Xataria và Via Nomentama. Vậy ra người không biết rằng đức sứ đồ sẽ thuyết giáo tại đó ư?- Hai hôm nay ta không có nhà nên không nhận được thư của người, ta cũng không biết Oxtrianum ở đầu vì ta mới từ Koryntơ đến đây cách đây chưa bao lâu, lại Koryntơ ta cai quản họ đạo ở đấy…Nhưng phải rồi! Nếu Đấng Crixtux đã gieo vào lòng con niềm phấn hứng mạnh như thế thì con của ta đêm mai hãy đi tới Oxtrianum, tìm bằng được tên Glaukox trong số những người an hem và trừ khử hắn trên đường hắn quay trở về thành phố, điều nay sẽ rửa sạch mọi tội lỗi cho con. Và cầu cho bằng an ở cùng các con!- Thưa cha…- Gì thế con, hỡi nô bộc của con chiên.Trên nét mặt của người thợ hiện rõ vẻ lúng túng. Cách đây chưa lâu bác vừa mới giết một người - mà cũng rất có thể tới hai người - trong khi luân lý của Đấng Crixtux lại cấm việc sát sinh. Thực ra bác không giết họ troçng lúc tự vệ vì ngay cả điều ấy cũng bị nghiêm cấm. Bác cũng không giết họ vì lợi nhuận, lạy Đấng Crixtux che chở…Chính ngài giám mục đã giao cho bác những người an hem để họ giúp đỡ bác, song ngài cũng không cho phép sát sinh, còn bác, bác đã giết người mặc dù không muốn thế. Thượng đế đã bắt bác phải có một sức mạnh hơn người…Giờ đây bác đang ăn năn sám hối một cách nặng nề…Những người khác ca hát trong khi xay bột, còn bác như một kẻ bất hạnh cứ ăn năn hoài về tội lỗi của mình, về việc mình đã xúc phạm tới con chiên…Bác đã cầu nguyện, đã than khóc biết bao lâu nay rồi! Bác đã cầu xin con chiên tha thứ cho bác bao lần rồi! Cho tới nay bác vẫn cảm thấy mình sám hối hãy còn chưa đủ…Ấy vậy mà giờ đây bác lại hứa sẽ đi giết một tên phản bội…Cũng được thôi! Chỉ có những điều xúc phạm tới bản thân thì mới cần phải tha thứ, bác sẽ giết hắn ngày mai ở Oxtrianum, ngay trước mắt tất cả các anh chị em đồng đạo. Nhưng trước hết, tên Glaukox nọ cần phải được xét xử bởi những bậc cao đạo nhất trong số những người an hem bởi đức giám mục hay bởi chính sứ đồ. Giết hắn chỉ là chuyện vặt, thậm chiết giết một kẻ phản bội còn là điều sung sướng như giết một con chó hay một con gấu mà thôi, nhưng nếu như tên Glaukox chết một cách vô tội thì sao? Làm sao bác có thể gánh thêm một tội giết người mới, thêm một tội lỗi mới, một điều xúc phạm mới đối với con chuên trong linh hồn mình?- Không có thù giờ để lập tòa án, con ạ - Khilon đáp - vì kẻ phản bội sẽ đi thẳng từ Oxtrianum đến Anxium gặp hoàng đế, hoặc sẽ trốn tránh trong nhà một vị quý tộc mà hắn đang phục vụ, nhưng đây, ra cho con cái dấu hiệu này, sau khi giết chết Glaulox con hãy trình đức giám, thì cả đức giám lẫn đại sứ đồ sẽ ban phước cho hành động của con.Vừa nói thế lão vừa lấy ra một đồng tiền, lục tìm con dao trong thắt lưng, lão dùng lưỡi dao khắc lên đồng xexieccxi một dấu chữ thập, rồi đưa cho người thợ.- Đây là bản ánh dành cho Glaukox đồng thời cũng là dấu hiệu cho con. Sau khi trừ khử Glaukox, nếu như con trình cái này lên đức giám thì người sẽ xá tội cho con ngay cả vụ giết người mà con đã làm một cách không hề cố ý kia.Người thợ bất giác chìa tay nhận đồng tiền, nhưng trí óc bác hẳn còn nhớ quá rõ nét vụ giết người đầu tiên kia nên bác chợt cảm thấy sợ hãi.- Thưa cha - bác nói như giọng van lơn - thế có nghĩa là người sẽ gánh chịu trên lương tâm mình hành động này cà chính người đã nghe tên Glaukox bán đứng anh em chúng ta?Lão Khilon hiểu rằng cần phải đưa ra một bằng chứng nào đó, nêu ra một cái tên họ nào đó, nếu không trái tim người khổng lồ này sẽ bị nỗi ngờ vực len vào. Bỗng một ý nghĩ hay ho nảy ra trong đầu lão.- Con hãy nghe đây. Urban - lão bảo - Ta sinh sống tại Koryntơ nhưng xuất thân từ đảo Kox và tại Roma đây ta truyền bá giáo thuyết của Đấng Crixtux cho một người thiếu nữ cùng quê với ra tên là Eunixe. Cô ta là nô tỳ chuyên lo trang phục ở nhà một người bạn của hoàng đế, gã Petronius nào đó. Đó, chính trong ngôi nhà ấy ra đã được nghe lão Glaukox nhận ra việc bán rẻ tất thẩy những người an hem Thiên Chúa giáo, ngoài ra hắn còn hứa với một tên đồng bọn khác của hoàng đế là Vinixius rằng sẽ tìm bằng được cô gái trong đám tín đồ Thiên Chúa…Nói tới đây lão ngừng lại và ngạc nhiên nhìn người thợ vì mắt bác chợt long lên như mắt thú dữ, mặt bác bỗng đổi thành nét giận dữ và đáng sợ.- Con là sao thế? - Lão hỏi như sợ hãi.- Không, thưa cha. Ngày mai con sẽ giết chết Glaukox…Song lão Hi Lạp im lặng, lát sau lão ôm lấy vai người thợ, quay mặt bác cho ánh trăng chiếu thẳng vào mặt rồi nhìn bác chăm chú. Rõ ràng là trong một tâm khảm lão chần chừ không hiểu nên hỏi tiếp để lôi ra ánh sáng hay tạm thời cứ hẵng tạm bằng lòng với những gì lão đã biết được hoặc đoán ra được.Cuối cùng cái tính cẩn thận bẩm sinh vẫn thắng.Lão thở dài một lần, hai lần, rồi đặt lại bàn tay lên đầu người thợ, lão hỏi bằng một giọng trang trọng và nghiêm trang:- Vậy khi rửa tội con được đặt tên là Urban?- Vâng thưa cha.- Cầu cho con bằng an, Urban con!