Một trong những điều rất đáng tự hào đối với Đảng ta là trong cả quá trình lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng lâu dài, Đảng luôn biết sáng tạo thời cơ và chủ động đón thời cơ chiến lược để đưa cách mạng đến những bước ngoặt quyết định. Và mỗi chặng đường thắng lợi đó đều được đánh dấu bằng một quyết tâm chiến lược đúng dắn, kịp thời của Đảng. Từ Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (tháng 11 năm 1939), lần thứ 7 (tháng 11 năm 1940), nhất là từ Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (tháng 5 năm 1941) khi Hồ Chủ tịch về nước lãnh đạo cách mạng Đảng đã xác định rõ con đường đấu tranh giành chính quyền về tay nhân dân và việc xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang để đón thời cơ chiến lược. Trước và trong Cách mạng tháng Tám, tiếp theo chỉ thị ngày 12-3-1945 "Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" (phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước chuẩn bị tổng khởi nghĩa) và khi Nhật vừa đầu hàng Đồng minh, Đảng quyết định chớp thời cơ phát động toàn dân tổng khởi nghĩa, nhanh chóng giành chính quyền trên cả nước. Trong kháng chiến chống Pháp, Nghị quyết Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng (tháng 9 năm 1953) dẫn đến thắng lợi Đông Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử. Trong kháng chiến chống Mỹ, bằng Nghị quyết 15 (năm 1959), Đảng hạ quyết tâm phát động khởi nghĩa vũ trang từng phần, bắt đầu bằng cao trào "đồng khởi" và sau đó từng bước đánh bại chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ và tay sai. Khi quân Mỹ ồ ạt kéo vào miền Nam, với Nghị quyết 12 (đầu năm 1966), Đảng quyết định tiếp tục phát triển thế tiến công chiến lược từng bước đánh bại chiến lược "chiến tranh cục bộ" của địch. Và vào giữa năm 1978 này, chỉ 5 tháng sau Hiệp định Paris, Nghị quyết 21 của Trung ương(1) khẳng định tiếp tục con đường bạo lực cách mạng, tiếp tục phản công và tiến công địch, làm thất bại âm mưu chiến lược mới của Mỹ-nguỵ, mở đường đi tới thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp giải phóng miền Nam. Nghị quyết 21 có tầm quan trọng đặc biệt: xác định đúng hướng đi của cách mạng miền Nam trong giai đoạn cuối của gần 20 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, của cả 30 năm chiến tranh giải phóng. Từ thực tế trên đây, có thể khẳng định: trên mỗi chặng của cả con đường đấu tranh lâu dài, Đảng luôn đánh giá đúng tình hình, dự kiến đúng thời cơ, chủ động đi trước một bước trong việc chuẩn bị chiến lược, huy động sức mạnh, tổng hợp của toàn dân để kịp tạo nên thế mới, lực mới, giành thắng lợi từng bước ngày càng lớn. Đó là một trong những điểm nổi bật về tài thao lược của Đảng ta trong lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng. Sau khi dự Hội nghị Trung ương lần thử 21 (đợt đầu), tôi chuẩn bị trớ lại chiến trường để cùng các anh trong đó chuẩn bị cho kịp cuộc họp Trung ương Cục, dự định vào khoảng tháng 9. Anh em quân y đề nghị tôi đi kiểm tra sức khỏe trước khi lên đường. Ba tháng qua, kể từ ngày ở chiến trường ra Bắc, sức khỏe tốt khiến tôi rất yên tâm. Nhưng điều không ngờ đã xảy đến. Các bác sĩ kiểm tra và kết luận tôi đã bị nhồi máu cơ tim một lần và đang bị sỏi thận, phải mổ. Theo đề nghị của Hội đồng bác sĩ, Ban Tổ chức Trung ương quyết định tôi sang điều trị ở Cộng hoà dân chủ Đức. Trù tính ít nhất chừng ba đến bốn tháng cả chữa bệnh và đi, về. Tôi phân vân, trao đổi ý kiến với các đồng chí trong Thường trực Quân uỷ và điện xin ý kiến anh Phạm Hùng. Các anh khuyên tôi nên đi chữa bệnh, "cuộc chiến đấu còn dài". Tôi dành thêm nửa tháng làm việc với các cơ quan, giải quyết tiếp những vấn đề cần thiết cho B2 và gửi điện đề đạt với Trung ương Cục những ý kiến riêng về việc triển khai Nghị quyết 21. Ngày 13 tháng 7 tôi lên đường sang nước bạn. Trở về nước vào cuối tháng 11, mang theo những ấn tượng sâu sắc, tốt đẹp về tình hữu nghị anh em và sự chăm sóc tận tình của các đồng chí cán bộ y tế Cộng hoà dân chủ Đức, về công cuộc xáy dựng, phát triển kinh tế và đời sống của nhân dân nước anh em. Chiến tranh đã chấm dứt trên đất nước này gần 30 năm. Tinh thần lao động quên mình của nhân dân Cộng hoà dân chủ Đức trong mấy chục năm qua đã đưa lại cuộc sống không ngừng được cải thiện như ngày nay. Tôi suy nghĩ nhiều và liên hệ đến viễn cảnh của đất nước ta khi sự nghiệp giải phóng miền Nam hoàn thành, đất nước được thống nhất, chúng ta sẽ đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa như thế nào trong điều kiện một nước nông nghiệp, sản xuất nhỏ, lại chịu hậu quả nặng nề của hai cuộc chiến tranh tàn phá và của chủ nghĩa thực đân cũ và mới của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ để lại. Về tới Hà Nội, tôi điện báo cáo với các anh trong Trung ương Cục và Bộ tư lệnh Miền. Mùa khô đã đến. Tôi khẩn trương làm việc với các cơ quan Bộ, nắm tình hình các mặt liên quan đến nhiệm vụ sắp tới ở B2 và chuẩn bị lên đường trở lại chiến trường. Tôi được các anh trong Thường trực Quân uỷ Trung ương cho biết những quyết định mới nhất về chủ trương tác chiến, về trang bị và số quán bổ sung, về công tác cán bộ và phương hướng công tác chính trị tư tưởng. Tôi yên tâm về khả năng hoàn thành nhiệm vụ của chiến trường trong mùa khô này và các bước tiếp theo. Trung tuần tháng 12, tôi gửi một bức điện trả lời các anh Phạm Hùng, Trần Văn Trà, về kế hoạch chi viện cho chiến trường năm 1974: "Tôi đã nhận được điện của các anh hỏi về số quân và trang bị mà Bộ chi viện cho B2 trong năm tới. Về số quân, con số cuối cùng được Bộ xác định bổ sung cho B2 là 26.000. "Một điều, khiến tôi rất mừng, lần này Tổng cục Hậu cần và Đoàn 559 chuyển số quân này bằng cơ giới và sẽ hoàn thành trong vòng ba tháng đầu năm. Việc ăn uống dọc đường do các binh trạm của 559 lo. Như vậy bộ đội vào sẽ nhanh hơn, sức khỏe bảo đảm tốt hơn; lần này quân bổ sung được huấn luyện tốt hơn, thời gian huấn luyện mỗi đợt chừng sáu tháng. Ngoài bộ binh và binh chủng, Bộ còn bổ sung một số khá đông nhân viên chuyên môn (cơ yếu, báo vụ, trinh sát và hậu cần-kỹ thuật). "Tôi đề nghị các anh, chỉ thị cho các cơ quan chuẩn bị kế hoạch tiếp nhận và phân phối kịp thời để trânh bị ùn. "Việc xin cán bộ để thành lập Bộ tư lệnh Phòng không, cũng như xin thêm một số đơn vị cao xạ 57 ly cỡ B2, trước mắt chưa giải quyết được. "Về mặt hàng quân sự và dân dụng, năm nay Trung ương sẽ chi viện cho B2 tổng cộng là 22.000 tấn, trong đó có 12.000 tấn hàng quân sự (hai phần ba là súng đạn). Tổng cục Hậu cần dự kiến hoàn thành việc vận chuyển cho B2 trong bốn tháng đầu năm 1974. Việc xin đạn cao xạ 5 7 ly và súng đạn A72 chưa có điều kiện giải quyết. Tôi có xin thêm (ngoài kế hoạch) súng phòng không khác và súng ĐK82, cùng các loại đạn. Đề nghị này đã được chấp nhận. "Nhân đây xin báo cáo anh Phạm Hùng và các anh trong Trung ương Cục về tình hình sức khỏe của tôi. Ngày 5 tháng 12, Hội đồng bác sĩ đã chẩn đoán lại và kết luận: Hiện nay tim mạch chưa ổn lắm, cần điều trị thêm một thời gian. Tôi đã bàn với anh em quân y cố gắng điều trị từ nay đến hết tháng 1 năm 1974, để đầu tháng 2 tôi có thể lên đường trước Tết âm lịch. Tôi sẽ chấp hành đúng như điện của anh Hùng, cố gắng điều trị cho khỏe". Dự tính vào tới B2 đúng những ngày xuân Giáp Dần, tôi chuẩn bị quà tết và gửi xe đi trước, để khi lên đường được gọn nhẹ, nhanh chóng hơn. Cuối tháng 1 năm 1974, mọi công việc chuẩn bị đã xong, tôi đang đi chào tạm biệt các đồng chí lãnh đạo và anh em trong cơ quan Bộ thì một lần nữa, điều bất ngờ lại xảy đến. Khi đến gặp anh Sáu Thọ, anh cho biết Ban Tổ chức Trung ương đã đề nghị lên Bộ Chính trị và các anh đã nhất trí để tôi ở lại miền Bắc. Tôi sững sờ hỏi: - Vì sao vậy, anh? - Hội đồng bác sĩ mới kiến nghị không nên để anh đi vì mới qua đại phẫu, hơn nữa tim mạch cũng không ổn lắm, đi không đảm bảo an toàn, nhất là trên dọc đường. - Đề nghị cứ cho tôi đi. Tôi sẽ đảm bảo giữ gìn sức khỏe tốt. - Không được đâu. Chúng mình được biết anh đã chuẩn bị xong xuôi mọi mặt, nhưng vừa đây anh em bác sĩ phát hiện như vậy để anh đi, nếu xảy ra chuyện không hay thì ngoài trách nhiệm ra, chúng mình sẽ ân hận mãi. Thôi, ở lại ngoài này, trở về công tác ở Bộ Tổng Tham mưu. Chuẩn bị cho giai đoạn dứt điểm, Quân uỷ Trung ương và cơ quan tham mưu cần được tăng cường để giúp Bộ Chính trị và Trung ương. Tôi biết có đề nghị cũng khó. Các anh trong Bộ Chính trị đã đồng ý với ý kiến Ban Tổ chức để tôi ở lại công tác ở Bộ Quốc phòng. Trên cũng đã quyết định cử anh Trần Văn Trà thay tôi làm Tư lệnh chiến trường B2. Bắt tay anh Thọ ra về, lòng tôi bứt dứt khôn nguôi. Những suy nghĩ, những dự tính từ sau Hội nghị 21, những ngày háo hức chuẩn bị trở lại chiến trường. Nhớ từng anh trong Trung ương Cục trong Bộ tư lệnh Miền. Nhớ những lúc hội họp, trao đổi ý kiến, nhớ cả những buổi đấu tranh sôi nổi, có lúc gay gắt khi có ý kiến bất đồng để rồi đi đến nhất trí, đoàn kết chung lưng đấu cật trong cuộc đọ sức quyết liệt với quân thù. Tôi ngồi suốt ba giờ liền, viết một bức thư dài tám trang, báo cáo tình hình và tâm sự với anh Phạm Hùng và các anh trong Trung ương Cục, nhắc lại những ngày cùng làm việc với nhau, tình cảm đồng chí thắm thiết không thể nào quên. Phải ở lại, tôi gặp anh Văn, anh Dũng hỏi về công tác, các anh cho biết Bộ Chính trị đã bàn và mới quyết định tôi làm Phó Tổng Tham mưu trưởng thứ nhất. Các anh phân công tôi trực tiếp chỉ đạo việc chi viện chiến trường và chỉ đạo tác chiến. Thế là trở lại với việc cũ, người xưa. Tôi xác định phải yên tâm để bắt tay ngay vào công việc. Lúc này, cơ quan đang tập trung giúp trên chỉ đạo các chiến trường thực hiện kế hoạch mùa khô. Các phái viên cũng từ các chiến trường trở về, mang theo báo cáo tình hình mọi mặt và ý kiến đề đạt của các nơi về phương hướng chiến lược năm 1974, theo tinh thần Nghị quyết 21 của Trung ương. Tôi đành nhiều thời gian nghe các cục và các phái viên báo cáo để nắm tình hình các chiến trường, tình hình công tác của Bộ Tổng Tham mưu. Tôi cũng làm việc với anh Song Hào, anh Đinh Đức Thiện để thống nhất phối hợp những công việc chung của Bộ Quốc phòng trong víệc triển khai Nghị quyết 21. Trong dịp này, anh Lê Đức Anh, Tư lệnh Quân khu 9 cũng ra báo cáo với Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương. Theo đề nghị của chúng tôi, anh dành bốn ngày báo cáo với Bộ Tổng Tham mưu và cùng nhau rút kinh nghiệm về tình hình Khu 9 từ đầu năm 1973. Hơn một năm qua, kinh nghiệm chống phá bình định của Khu 9 vẫn là một vấn đề rất quan trọng mà cơ quan tham mưu chiến lược mong đợi được nghe tường tận. Ngay khi Hiệp định còn chưa được ký kết, từ ngày 11-1-1973, địch đã tung sư đoàn 21 đánh vào tây-nam Long Mỹ, đồng thời đưa nhiều lực lượng khác lấn chiếm nhiều vùng giải phóng trong khu. Quân và dân Khu 9 vừa đánh trả địch, vừa điều chỉnh lại lực lượng, chuẩn bị thực hiện "Kế hoạch thời cơ" theo chỉ thị của Trung ương Cục và Bộ tư lệnh Miền. Sau hơn một tuấn, ta đã đánh bại cuộc hành quân của địch và dấn lên giải phóng thêm vùng bắc Long Mỹ, Phụng Hiệp. Tháng 3, địch lại dùng sư đoàn 21, được trung đoàn kỵ binh 9 yểm trợ, bắt đầu đợt 1 chiến dịch tiến công vào vùng Chương Thiện, nhằm "líp" các lõm giải phóng của ta ở tây-nam Long Mỹ, lập tuyến ngăn chặn từ Ngang Dừa đi Vĩnh Chèo, cô lập U Mip lên 1 triệu 11 vạn. Từ thực tế đó, chúng tôi có cơ sở để báo cáo với anh Ba - điều mà chúng tôi nhất trí với kết luận của Trung ương Cục hồi tháng 6 vừa qua, địch đã thất bại trong âm mưu lấn chiếm vùng đông dân, củng cố vùng chúng kiểm soát, nhất là xung quanh Sài Gòn và đồng bằng sông Cửu Long; ta vẫn giữ được các khu căn cứ, các lõm du kích ở miền Đông và quanh Sài Gòn, đã giành lại hầu hết vùng địch lấn chiếm sau Hiệp định, khôi phục lại trạng thái trước ngày 28-1-1973, đồng thời mở rộng thêm một số vùng giải phóng mới ở Gò Công, Chợ Gạo, Mỹ Tho, Bạc Liêu, Sóc Trăng; vùng trung tâm Đồng Tháp đã nối liền với vùng giải phóng nam, bắc đường 4, căn cứ U Minh và Năm Căn, đã nối liền với vùng ruột bốn tỉnh sông Hậu(1). Một điều đã có thể khẳng định là qua mùa khô vừa rồi, ta đã giành thắng lợi và đang phát triển đi lên, địch đã bị thất bại và đang trên đà đi xuống. Trong mùa mưa này, ta có nhiều thuận lợi và có khả năng giành thắng lợi lớn hơn bất cứ mùa mưn nào trước đáy có thể hơn cả mùa khô vừa qua. Dù thời tiết sắp tới có khó khăn hơn, ta cũng phải nỗ lực hơn nữa đẩy mạnh hoạt động về mọi mặt, tạo thêm thế mới, lực mới, cả điều kiện vật chất và tinh thần để bước vào mùa khô năm 1974-1975 với khí thế cao hơn và lực lượng mạnh hơn. Chúng tôi cũng báo cáo tình hình các địa phương triển khai thực hiện Nghị quyết 21 của Trung ương và Nghị quyết tháng 3 năm 1974 của Quân uỷ được Bộ Chính trị thông qua: các cấp uỷ đảng và cán bộ chỉ huy đều rất tâm đắc và cho là các nghị quyết đó "rất trúng, rất kịp thời"; nghị quyết đã và đang "thấm" nhanh xuống từng địa phương, từng đơn vị. Trong việc triển khai các nghị quyết trên, nổi lên là việc vận dụng phương châm, phương thức đấu tranh trong điều kiện cụ thể của từng vùng và vấn đề xây dựng lực lượng chính trị, vũ trang địa phương. Bộ dội chủ lực vừa luân phiên xây dựng, huấn luyện, vừa sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, kiên quyết tiến công và phản công địch, làm thất bại âm mưu bình định, lấn chiếm của chúng, giành dân và giữ dân, bảo vệ và mở rộng vùng giải phóng. Trải qua mấy tháng hè, sức chiến đấu của bộ đội đã nâng lên một bước quan trọng so với đầu năm. Kết quả trên đây phản ánh một quá trình đấu tranh thắng lợi trong nhận thức, tư tưởng nội bộ ở một số địa phương, để đi đến nhất trí, giải quyết tốt mối quan hệ giữa nhiệm vụ dánh địch bình định, lấn chiếm trước mắt và xây dựng lực lượng, thế trận cho cả trước mắt và lâu dài. Dựa vào kết quả đóng góp hết sức to lớn của nhân dân và sự chi viện tích cực của các ngành cơ quan Nhà nước, các cơ quan Bộ Quốc phòng và Đoàn 559 đã cố gắng thực hiện đúng kế hoạch vận chuyển chi viện cho chiến trường và kế hoạch làPl đường chiến lược, kể cả các đường chiến dịch đi sâu vào từng chiến trường. Hội nghị rút kinh nghiệm đánh phá bình định do Bộ Tổng Tham mưu triệu tập đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề chỉ đạo phương châm, phương thức, cách đánh của ta, nhất là cách kết hợp ba mũi giáp công ở xã, ấp. Anh Ba gợi ý cần nghiên cứu cách đánh thế nào, để làm rã bộ máy hành chính của địch. Ở đồng bằng, nên dùng lực lượng lữ đoàn hay sư đoàn để đánh vỡ từng mảng, mở ra từng khu vực; Sài Gòn là nơi hiểm yếu của địch, cần tổ chức các lõm thế nào để lực lượng ta đứng chân được. Sau một buổi nghe báo cáo, chiều ngày 21, anh Ba phát biểu những suy nghĩ của anh về những vấn đề có hên quan đến kế hoạch chiến lược, đến thời cơ chiến lược, nhất là tình hình thế giới và vùng Đông Nam châu Á, có liên quan đến cuộc kháng chiến của ta ở miền Nam. Đại ý anh nói: - Nhìn vấn đề Việt Nam phải nhìn chung cả Đông Dương và Đông Nam châu Á. Nếu như trước đây, ta cho rằng Mỹ đưa quân vào Nam Việt Nam chỉ nhằm tăng thêm một khâu trong mắt xích chiến lược bao vây phe ta ở Viễn Đông, thì ngày nay, vấn đề Việt Nam và Đông Dương càng nổi lên trong vùng Đông Nam châu Á, một vùng mà nhiều nước có ý đồ tranh giành ảnh hưởng. Đã có lúc họ tưởng rằng Mỹ có thể dùng quân sự để làm chủ miền Nam Việt Nam. Nhưng nay Mỹ đã thua, đã phải rút quân; cuộc chiến tranh Việt Nam đã làm cho Mỹ yếu đi rõ rệt. Trong khi đó các nước khác có ý đồ đối với vùng Đông Nam châu Á đều chưa mạnh và chưa sẵn sàng. Họ rất sợ ba nước Đông Dương thắng lợi và mạnh lên. Vấn đề đặt ra với ta là làm sao tạo thời cơ để giành thắng lợi sớm hơn, thắng ngay trong lúc các nước đó chưa sẵn sàng can thiệp. Tuy không công khai nói ra, nhưng họ đã gặp nhau trong mưu đồ đen tối với Đông Nam châu Á. Vụ Hoàng Sa hồi tháng 1-1974 là một ví dụ. Cho nên, hiện nay khi các nước đó chưa đủ điều kiện để thực hiện ý đồ xấu xa của họ thì việc ta tạo thời cơ và chớp thời cơ giành thắng lợi hoàn toàn càng trở nên cấp thiết. Miền Nam được giải phóng, ta có 50 triệu dân của cả nước đã độc lập, thống nhất, thì các nước đó sẽ không còn điều kiện thực hiện được ý đồ như họ mong muốn, đối với Đông Dương nói riêng cũng như đối với Đông Nam châu Á nói chung. Ta cần nghiên cứu cách đánh thắng thế nào, phải thắng to, thắng nhanh để nguỵ không kịp trở tay, các nước có ý đồ can thiệp không kịp can thiệp. Muốn vậy, phải chuẩn bị cho cuộc tổng công kích - tổng khởi nghĩa, dứt điểm trong vòng 1-2 tháng khi có thời cơ chiến lược. Muốn đánh lớn, đánh nhanh, thắng to, phải tạo sức mạnh mới, dùng từng quân đoàn tiêu diệt sư đoàn địch. Nhiều nước hiện nay cho rằng ta không có khả năng tổ chức lực lượng lớn và cơ động nhanh cũng tức là ta không có hoặc chưa có khả năng đánh lớn. Ta cần suy nghĩ làm sao dứt điểm trong một thời gian ngắn. Như vậy sẽ tạo được bất ngờ không những đối với nguỵ, với Mỹ, mà cả đối với các nước khác đang có ý đồ xấu xa đối với Đông Dương và Đông Nam châu Á. Nhân lúc anh dừng lại để uống nước và suy nghĩ thêm, chúng tôi tranh thủ báo cáo rõ hơn về khối chú lực dự bị chiến lược của ta đang được kiện toàn về hai trục đường chiến lược đã được mở rộng trên hai phía Đông và Tây Trường Sơn, về khả năng cơ động bằng cơ giới của những binh đoàn chiến lược v.v… Anh Ba nói tiếp: - Như vậy là tốt. Ta có cơ sở để nghiên cứu cách đánh tiêu diệt lớn về chiến dịch và chiến lược. Phải tổ chức lực lượng dự bị chiến lược thành những quân đoàn mạnh, cơ động nhanh, đánh diệt từng sư đoàn địch, kết hợp đánh tiêu diệt với làm tan rã lớn quân địch. Về tổ chức và sử dụng lực lượng, cần làm sao phát huy được sức mạnh tổng hợp. Đây là một bài toán, phải có đủ cơ sở thực tiễn và lý luận cao hơn nữa để tìm ra đáp số. Riêng về bộ đội tập trung của các quân khu, phải tổ chức từng tiểu đoàn đủ số quân, trang bị mạnh, thành những mũi nhọn vận động rất nhanh(2) luồn sâu vào vùng sau lưng địch, đồng thời có những sư đoàn hoặc lữ đoàn trang bị pháo, cối nhẹ xuống đánh ở đồng bằng. Nếu năm tới (1975) phong trào đô thị mạnh lên, ta lại nắm vững nông thôn, thì Mỹ sẽ buộc phải thay Thiệu để vớt vát lại một số điều khoản của Hiệp định còn có lợi cho chúng. Các anh cần nghiên cứu, quán triệt tinh thần này một cách cặn kẽ, cần chuẩn bị thế nào để năm 1975 có thể nâng lên một khí thế mới, một sức mạnh mới. Sau giờ nghỉ giải lao, anh Tấn báo cáo thêm về những ý định chính của Bộ Tổng Tham mưu đối với từng chiến trường như sau: - Ở đồng bằng sông Cửu Long, cần cố gắng gỡ hơn một nghìn đồn trong năm 1974; sang năm 1975, gỡ thêm vài nghìn đồn nữa, sẽ tạo thành các mảng liên hoàn. Về giành dân thì đưa lên được ba triệu dân vùng giải phóng, hai triệu dân ở vùng tranh chấp. Muốn thế, phải diệt từng chi khu cỡ tiểu đoàn và diệt viện 2-3 tiểu đoàn đến 1 chiến đoàn địch đi giải toả. Lúc đó, sẽ bảo đảm mở thông hành lang từ biên giới xuống Khu 8, Khu 9. Bộ Tổng Tham mưu trù tính tăng cường cho Bến Tre, Trà Vinh, mỗi nơi đủ một trung đoàn và tính chung trong năm 1974 tăng cho đồng bằng sông Cửu Long một vạn quân, tăng vũ khí đánh đồn, đánh thiết giáp, đánh tàu trên sông và bắn máy bay. Lực lượng vũ trang địa phương phải vừa hoạt động vừa huấn luyện, đánh được đồn, đánh được địch đi giải toả ứng cứu. Chúng tôi thấy cần tăng cường tổ chức chỉ huy các chiến dịch tổng hợp ở từng khu vực; tổ chức thêm nhiều đội đặc công, đánh mạnh hơn nữa vào các căn cứ kho tàng sâu trong vùng địch kiểm soát. Trên chiến trường Khu 5, phải tiêu diệt địch, mở rộng vùng núi tây Quảng Nam. Bộ Tổng Tham mưu mới được báo cáo, ta vừa diệt cứ điểm Nông Sơn, diệt bốn tiểu đoàn địch trong đó có một tiểu đoàn biệt động quân. Cần tiếp tục tiêu diệt các điểm còn lại ở vùng núi. Sang năm 1975, phải mở rộng đồng bằng, từ Quảng Đà đến Bình Định, giải phóng thêm một triệu dân. Ở Tây Nguyên cần giải quyết những cứ điểm lẻ, cả phía bắc và những điểm còn lại ở phía tây để làm chủ rừng núi và bảo đảm mở rộng vùng căn cứ và thông đường chiến lược một cách vững chắc, hình thành hành lang nối liền Nam Tây Nguyên với miền Đông Nam Bộ. Chiến trường miền Đông cần mở rộng phía sau trên đường 14 nối thông xuống đường Biên Hoà và Khu 6 thành căn cứ liên hoàn. Giữ vững và mở rộng các vùng tranh chấp chung quanh Sài Gòn để tạo thế bao vây, áp sát và thâm nhập nội đô, đồng thời đánh cắt đường 1 đi Phan Thiết, đường 20 đi Đà Lạt. Về lực lượng dự bị chiến lược, Bộ Tổng Tham mưu đang nghiên cứu khả năng cơ động quân đoàn, và từng bước tổ chức thêm các quân đoàn tại chỗ. Về cách đánh, ngoài việc rút kinh nghiệm đánh phá bình định và nghiên cứu kinh nghiệm đánh chi khu quận lỵ, Bộ Tổng Tham mưu đã giao cho Viện khoa học quân sự kết hợp với Trường bổ túc quân sự cao cấp nghiên cứu nghệ thuật chiến dịch, đánh hiệp đồng binh chủng trên quy mô lớn trong điều kiện hiện nay. Việc huấn luyện bộ đội chủ lực trong năm 1974 cũng đã hướng theo yêu cầu đánh hiệp đồng binh chủng, đánh tiêu diệt lớn. Tiếp lời anh Tấn, tôi phát biểu thêm: - Từ nay đến cuối năm 1974, ta cố gắng diệt được 6-7 chi khu quận lỵ, 5-6 chiến đoàn, toàn miền Nam giành được 3,5 triệu dân vùng giải phóng và chừng 5 triệu dân ở vùng tranh chấp thì tình hình sẽ chuyển biến lớn và qua năm 1975, các chiến trường sẽ có nhiều khả năng phát triển, tạo thế mới, lực mới rất vững chắc. Vấn đề đáng quan tâm hiện nay là phong trào đô thị, cơ sở chính trị còn yếu; cuộc vận động chính trị chưa phát triển mạnh. Nhựng tin rằng thắng lợi quân sự sẽ tác động mạnh đến phong trào chính trị và năm 1975, nếu phong trào đô thị được dẩy lên thì chắc chắn năm 1976 tình hình sẽ biến chuyển rất lớn. Lúc đó, ta sẽ có thể tiến nhanh, dứt điểm trong vài ba tháng trở lại. Anh Ba lại nói thêm: - Cần chuẩn bị như thế nào để sang năm 1975 có thể đánh được quy mô vừa, cũng có thể đánh được quy mô lớn, diệt từng sư đoàn địch. Phải có cách đánh như thế nào để vừa tiêu diệt được địch, vừa làm tan rã lực lượng của chúng. Cần xem xét chỗ nào có điều kiện thắng lớn thì làm tới. Nhưng phải thấy vấn đề phức tạp chứ không đơn giản. Phải làm cho địch bất ngờ, làm cho chúng sớm yếu và mau tan rã. Muốn vậy, về thế trận phải chú ý chia cắt địch nhiều hơn nữa, phải mở phía sau lưng địch rộng hơn nữa. Về lực lượng, có thể đưa thêm lực lượng miền Bắc vào, vừa làm kinh tế làm đường, vừa làm lực lượng dự bị chiến lược. Anh Ba dành thời gian còn lại của chiều hôm đó để nói thêm về công tác vận động chính trị. Anh cho rằng từ năm 1954 đến nay, chưa bao giờ địch ở Sài Gòn yếu như hiện nay, cả về chính trị, kinh tế, cả mâu thuẫn nội bộ. Hồi Diệm, địch mạnh vì lực lượng ta rút đi. Đến lúc ta mạnh lên, Diệm sụp đổ, Mỹ lại vào ngay, nên nó vẫn mạnh. Nay quân Mỹ ra rồi thì nguỵ chỉ có yếu đi Sài Gòn hiện nay không chỉ có lực lượng của ta mà còn có lực lượng thứ ba, có nhân sĩ tiến bộ. Nếu ta biết làm thì sẽ phát triển lực lượng, sẽ thúc đẩy được phong trào. Năm 1975, nhất định ta phải đưa phong trào đô thị lên mạnh. Tình hình nước Mỹ rất rối; Ních-xơn có thể đổ. Pho lên, ông ta sẽ tìm cách dàn xếp một bước với ta. Ta phải đưa phong trào đô thị lên mạnh để thêm thế mới, thêm lực mới. Trong phong trào đô thị hiện nay cần chú ý kết hợp cả hai hình thức hoạt động: bí mật và công khai; bí mật là điều kiện tồn tại của Đảng, công khai là điều kiện phát triển của phong trào. Đồng ý với các anh, phong trào chính trị là do lực lượng quân sự của ta thường xuyên tác động, nhưng cũng còn do mâu thuẫn nội tại của địch tạo nên, tức là do tình hình khác quan thúc đẩy. Ví dụ Ních-xơn đổ, Pho lên, địch thay đổi tay sai, v.v. Một ngày làm việc liên tục trôi đi rất nhanh. Điều lắng đọng sâu sắc trong tâm trí tôi sau một ngày bàn bạc và suy nghĩ, là ý kiến anh Ba về thời cơ chiến lược. Rõ ràng tình hình đòi hỏi phải khẩn trương hơn. Vài năm tới là thời điểm khẩn thiết và cũng là thời cơ thuận lợi nhất để giành thắng lợi quyết định. Càng để lâu, tình hình sẽ càng trở nên phức tạp. Cần có quyết tâm và kế hoạch đánh lớn, thắng nhanh để Mỹ-nguỵ không kịp trở tay, các nước có mưu đồ không kịp can thiệp. Hôm sau, anh Ba nói nhiều về vấn đề xây dựng kinh tế ở miền Bắc: về quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa, từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, về cân đối giữa công nghiệp - nông nghiệp trên địa bàn huyện và trên phạm vi cả nước, về kết hợp quốc phòng với kinh tế kinh tế quốc phòng, về quân đội tham gia làm kinh tế, v.v. Nhưng rồi, chỉ một lúc sau, anh lại trở về vấn đề cách mạng miền Nam. Thì ra vấn đề đó cấp bách quá, to lớn quá, luôn luôn thu hút luồng suy nghĩ của mỗi người có trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân và Tổ quốc. Chúng tôi báo cáo thêm với anh Ba một vấn đề hiện vẫn chưa có cách giải quyết toàn diện, vững chắc: vấn đề đạn lớn. Đánh hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, đánh vào thành phố, vào các căn cứ lớn của nguỵ, phải có đạn lớn mới đáp ứng yêu cầu tiêu diệt lớn. Hiện ta chỉ còn chừng 10 vạn viên. Đang cho thu hồi vỏ đạn để nhồi vào cải tiến sản xuất trong phạm vi có thể. Đề nghị Trung ương đặt vấn đề tranh thủ viện trợ của các nước anh em. Đồng chí Bí thư thứ nhất nói: - Ta phải xin rải ra các nước anh em. Cứ nghiên cứu nhồi đạn, cải tiến sản xuất và bàn thêm cách khắc phục thế nào nếu viện trợ khó khăn. Giờ cuối cùng buổi sáng hôm đó (ngày 22 tháng 7) cuộc họp biến thành mạn đàm chung quanh vấn đề thời cơ dứt điểm. Dự kiến năm 1975 có thể xuất hiện cao trào, đồng thời cũng dự kiến một bước phát triển mới trong năm 1976 trước khi Mỹ bầu tống thống. Bằng "cú" quyết định năm 1976, có thể buộc địch phải chấp nhận chính phủ ba thành phần. Dự kiến trong mấy năm tới nhất định phải đạt tới thống nhất đất nước. Nhưng ta phải luôn luôn sẵn sàng; nếu xảy ra đột biến, tốc độ sẽ phát triển nhanh hơn. Anh Ba nói: "Giành được thắng lợi quyết định trong vài ba năm là giỏi lắm, giỏi lắm". Chiều hôm đó trước khi chúng tôi trở về Hà Nội, bắt tay chúng tôi anh Ba lại dặn: phải xây dựng kế hoạch chiến lược sao cho tạo được thời cơ chiến lược và sẵn sàng chớp thời cơ chiến lược. Khi xe vừa ra khỏi thành phố Hải Phòng, ra khỏi làn gió biển thì tâm trí tôi lại thu hút vào vấn đề số 1: Tìm cho ra những yếu tố cần thiết để cùng anh em trong cơ quan xây dựng và hoàn chỉnh hơn kế hoạch chiến lược. Tôi tập trung suy nghĩ về mấy ẩn số, phải tìm cho ra lời đáp. Một là, khả năng can thiệp vào của Mỹ thế nào khi ta đánh lớn và nguỵ quân, nguỵ quyền đứng trước nguy cơ sụp đổ? Đã nhiều lần ta cho rằng Mỹ đã rút quân, nước Mỹ đang rối loạn cả về chính trị, kinh tế, xã hội, ít khi có khả năng can thiệp trở lại, nhất là bằng lục quân. Nhưng còn khả năng can thiệp bằng không quân và hải quân, ít nhất cũng dọc ven biển, thế nào? Điều rất đáng chú ý: khả năng can thiệp ở mức độ đó không có ý nghĩa quyết định, nhưng cũng không phải không gây cho ta khó khăn, nên ta không thể loại trừ. Hai là, vấn dề nổi dậy của quần chúng phối hợp với cuộc tiến công của bộ đội chủ lực? Ta nói phát huy tác dụng của ba đòn chiến lược: chủ lực, nông thôn và đô thị phối hợp với nhau, tạo nên sức mạnh tổng hợp. Nhưng chủ lực đã mạnh và ngày càng có triển vọng mạnh thêm, còn phong trào chính trị thì trước mắt còn khó khăn. Ở nông thôn, địch đang quân sự hoá bộ máy kìm kẹp ở xã ấp; phải đẩy mạnh hoạt động quân sự thế nào, phát triển lực lượng chính trị thế nào để tạo điều kiện cho quần chúng bung ra. Giành dân để làm chủ, làm chủ để giành dân vốn là một điều mà các anh thường xuyên nhắc nhở, thường xuyên quan tâm. Ở đô thị, lực lượng quần chúng lực lượng thứ ba chưa phải đã mạnh, làm sao phát triển được rộng rãi, chuẩn bị điều kiện để công nhân biết làm chủ xí nghiệp, người buôn bán biết làm chủ chợ, học sinh làm chủ trường học, công chức làm chủ công sở, sẵn sàng phối bợp khi chủ lực đánh lớn, khi quần chúng nông dân vùng đồng bằng bung ra, tạo thành sức mạnh lật đổ Thiệu. Về mặt lý luận cũng như thực tiễn, nên đặt vấn đề tổng công kích, tổng khởi nghĩa hay tổng tiến công và nổi dậy? Ba là, cơ sở vật chất kỹ thuật nói chung và đạn pháo nói riêng? Đạn lớn rất cần cho đánh tiêu diệt lớn nhưng chúng ta chỉ còn rất ít. Nhồi lại chỉ là một cách chắp vá, lại không bảo đảm tính chuẩn xác về kỹ thuật, không bảo đảm số lượng trước yêu cầu đánh lớn. Sử dụng tiết kiệm cũng là một biện pháp; trong lúc đánh nhỏ và đánh vừa không vội tung ra nhiều đạn lớn mà phải dành dụm đạn lớn cho thời điểm quyết định; còn phải biết lấy súng đạn của địch để đánh địch. Nhưng như vậy đã đáp ứng yêu cầu đạn pháo cho đánh lớn chưa? Ngoài mấy vấn đề trên, thời cơ giành thắng lợi quyết định là bao giờ? Như anh Ba nói, thời cơ phải là khi các "quá đấm" chủ lực đã sẵn sàng và lực lượng chính trị đã mạnh đủ sức làm chủ nông thôn, đô thị sẵn sàng nổi dậy phối hợp: Trong đề án dự thảo trước, chúng tôi trù tính giành thắng lợi quyết định vào năm 1976 và không loại trừ sang cả năm 1977. Bây giờ gợi ý của anh Ba là càng sớm càng tốt, càng để lâu tình hình càng phức tạp; phải đặt mục tiêu thắng lợi từng bước thế nào và sẵn sàng chớp thời cơ chiến lược thế nào cho phù hợp? Sau khi anh Tấn truyền đạt lại những ý kiến chỉ đạo của anh Ba với các anh em trong Tổ trung tâm dự thảo kế hoạch, tôi đem tất cả những vấn đề suy nghĩ trên đây trao đổi với các anh và nhận thấy nhiều vấn đề trùng hợp với những suy nghĩ của các anh. Chúng tôi bắt đầu rà xét lại bản dự thảo cũ, bổ sung điều chỉnh sao cho phù hợp với thực tế mới nhất của tình hình và những gợi ý của anh Ba. Trong những ngày này, chúng tôi gần như đồng thời nhận được hai tin rất quan trọng: Ta đánh chiếm Nông Sơn, Thượng Đức và Ních-xơn từ chức, Pho lên thay. Hai tin trên giúp chúng tôi rút ra được những kết luận quan trọng có quan hệ tới việc bổ sung và hoàn chỉnh kế hoạch chiến lược. Mùa thu năm 1974 này, tập trung vào hai tháng 7 và 8, Khu 5 mở chiến dịch trên năm hướng Nông Sơn - Trung Phước, Quế Sơn (tây Quảng Nam), Thượng Đức (tây Quảng Đà), Minh Long - Giá Vụt (tây Quảng Ngãi), Đèo Nhông - Phù Mỹ (bắc Bình Định). Trong năm hướng đó, Bộ Tống Tham mưu đặc biệt quan tâm trặn tiến công chi khu Nông Sơn và chi khu quận lỵ Thượng Đức. Binh lực địch ở Thượng Đức và vị trí hiểm yếu của quận lỵ này nói lên vai trò cửa ngõ của nó đối với căn cứ liên hợp Đà Nẵng. Cùng với Nông Sơn, Tiên Phước và các hướng khác, việc quân ta tiêu diệt Thượng Đức và đánh bại các đợt phản kích của sư đoàn dù cơ động, xương sống của nguỵ, cho phép khẳng định: Lực lượng so sánh trên chiến trường đã thay đổi, quân ta có thể tiến công địch trong công sự kiên cố, diệt cụm cứ điểm quận lỵ địch và giữ được mục tiêu mới chiếm. Qua trận Thượng Đức, ta thấy quân nguỵ ngày càng suy yếu rõ rệt, phi pháo giảm sút, quân cơ động phải điều động chắp vá, nhỏ giọt, chủ yếu dựa vào đường bộ nên phản ứng chậm, cả quân chủ lực và địa phương tinh thần đều sa sút. Viên thiếu tá nguỵ bị bắt trong trận này đã thừa nhận: Quân đội Sài Gòn không có đủ máy bay để chở quân; quân chi viện không những thiếu mà còn phải hành quân bộ. Tóm lại, qua hai trận Nông Sơn, Thượng Đức, điều có thể khẳng định là chủ lực cơ động của ta đã hơn hẳn chủ lực cơ động của địch. Kết luận đó liên quan không nhỏ đến quyết tâm chiến lược của ta. Nội bộ giới cầm quyền ở Oa-sinh-tơn, như ta đã dự kiến, ngày càng bị phân hoá, chia rẽ. Khi quân Mỹ rút về nước, làn sóng phản đối Ních-xơn về vụ Oa-tơ-ghết đã dịu đi một thời gian, đến nay lại bùng lên trong dư luận Mỹ. Từ việc quốc hội Mỹ bác bỏ viện trợ bổ sung cho nguỵ, việc Thiệu kêu gọi quân nguỵ "đánh theo kiểu con nhà nghèo", thực tế trên chiến trường là phi pháo và phương tiện cơ động của chúng đã bị giảm sút, đến việc Ních- xơn phải cay đắng ra khỏi Nhà Trắng. là một chuỗi sự kiện cho thấy rõ khả năng can thiệp của Mỹ ngày càng hạn chế. Tuy nhiên, cần tiếp tục theo dõi hành động của Pho. Lời tuyên bố gần đây nhất của viên tổng thống mới này cho thấy Nhà Trắng vẫn bám lấy học thuyết Ních-xơn không có Ních-xơn, cho thấy trước mắt Mỹ chưa từ bỏ Thiệu. Trong quá trình rà xét lại bản dự thảo kế hoạch chiến lược, anh em trong Tổ trung tâm do anh Lê Trọng Tấn, sau đó anh Cao Văn Khánh chỉ đạo, đã nhanh chóng nhất trí về đánh giá địch, ta và tình hình quốc tế, nhưng thảo luận sôi nổi nhất xung quanh mấy vấn đề lớn, nhất là về ý định chiến lược chung và về các bước đi. Chúng tôi bàn cụ thể về mục đích, yêu cầu, nội dung và thời gian của từng bước, dự kiến tình hình phát triển và các khả năng xuất hiện trong quá trình diễn biến của từng bước, phương châm, phương pháp tiến hành. Sau đó, chúng tôi đi sâu vào thảo luận kế hoạch cụ thể năm 1975 và phương hướng kế hoạch năm 1976. Yêu cầu đặt ra cho năm 1975 là: Tranh thủ bất ngờ, tiến công lớn và rộng khắp, nhằm: 1. Đánh bại về cơ bản kế hoạch bình định của địch; giành đất, giành dân ở nông thôn đồng bằng; 2. Làm giảm tổng số quân của địch xuống một mức có ý nghĩa chiến lược; 3. Phá huỷ một bộ phận quan trọng dự trữ vật chất và đánh phá giao thông chiến lược của địch; 4. Củng cố hoàn chỉnh vùng giải phóng, căn cứ địa; 5. Xây dựng lực lượng của ta về mọỉ mặt; 6. Mở rộng hành lang chiến lược và mạng đường chiến dịch, xây dựng bàn đạp áp sát thành phố, thị xã và các căn cứ trọng yếu; 7. Đẩy cho được phong trào ở thành thị lên, nhất là ở Sài Gòn; 8. Hoàn thành về cơ bản mọi công tác chuẩn bị để có thể chủ động thực hành tổng công kích - tổng khởi nghĩa, nếu thời cơ chiến lược xuất hiện sớm. Với mỗi yêu cầu trên đây, chúng tôi cùng anh em đề ra chỉ tiêu cụ thể trên từng địa bàn, mức độ cụ thể cần đạt được. Chúng tôi dự kiến năm 1975 sẽ chia làm ba đợt hoạt động, có chỉ tiêu cụ thể hướng chính và hướng phối hợp. Quá trình diễn biến của ba đợt là quá trình xây dựng và phát triển lực lượng trong các đô thị (đặc biệt là Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế), đẩy mạnh công tác binh vận, chuẩn bị lực lượng cơ động chiến lược, hoàn thành kế hoạch vận chuyển chi viện cho chiến trường, phát triển trục đường chiến lược vào tới miền Đông Nam Bộ và các đường chiến dịch. Về phương hướng kế hoạch năm 1976, chúng tôi dự kiến ba tình huống và phương hướng phấn dấu trong từng tình huống làm cơ sở đặt kế hoạch cụ thể sau này. Kế hoạch đó phải căn cứ vào thắng lợi giành được trong năm 1975. Ba tình huống đó là: 1. Địch ngoan cố chiến tranh. 2. Địch chịu lùi một bước, chấp nhận thi hành Hiệp định. 3. Thời cơ khởi nghĩa ở thành thị xuất hiện sớm vào năm 1976. Đến ngày 26-8-1974 bản dự thảo kế hoạch đã hoàn thành. Nếu tính từ ngày Tổ trung tâm(3) bắt đầu biên soạn sau khi có Nghị quyết tháng 3 năm 1974, thì đáy là bản dự thảo lấn thứ bảy. Tuy nhiên, anh em không dừng ở lại đây Bản dự thảo kế hoạch được gửi đến các đồng chí trong Bộ Chính trị và Thường trực Quân uỷ Trung ương để các anh nghiên cứu và cho ý kiến trước. Tháng 8, đồng chí Tổng Tham mưu trường đi nghỉ ở nước ngoài về. Sau khi nghe báo cáo, anh góp nhiều ý kiến trong quá trình hoàn chỉnh bản kế hoạch chiến lược. Tổ trung tâm tiếp tục theo dõi tình hình chiến trường và lắng nghe ý kiến bước đầu của các đồng chí lãnh đạo để bổ sung những điều cần thiết, sau khi đã cùng chúng tôi trao đổi thống nhất. Cũng trong dịp này, vào hạ tuần tháng 9, Bộ Tổng Tham mưu nhận nhiều tin tức về địch, trong đó đáng chú ý là bản tường trình của bộ Tổng Tham mưu nguỵ gửi cho Thiệu về dự kiến năm 1975. Theo tài liệu đó, nguỵ cho rằng nếu Mỹ viện trợ 1,4 tỷ đô la, chúng sẽ kiểm soát được toàn miền Nam; 1,1 tỷ đô-la sẽ mất một nửa quân khu 1 về phía bắc; nếu chỉ 900 triệu đô-la sẽ mất toàn bộ quân khu 1 và vài tỉnh quân khu 2, còn 750 triệu đô-la sẽ mất toàn bộ quân khu 1 và quân khu 2; nếu chỉ còn 600 triệu đô la, thì chỉ kiểm soát một nửa quân khu 3 từ Biên Hoà vào tới quân khu 4(4). Địch cũng thú nhận: đến tháng 9 năm 1974, đã có chừng 1.000 máy bay không hoạt động được vì thiếu nhiên liệu và phụ tùng. Số quân địch, theo tài liệu trên, có chừng một triệu tên, trong đó có trên 15 vạn tên không chiến đấu (và có chừng 20 vạn tên thuộc "quân số ma"). Việc bắt lính ngày càng trở nên khó khăn, không đạt kế hoạch dự tính. Do những khó khăn về binh lực, nên bộ Tổng Tham mưu nguỵ dự tính rút đi 25-30% số đồn bốt cô lập, tiếp tế khó khăn và không có khả năng đứng vững nếu ta tiến công. Về chính trị, có tin Mỹ trù tính cùng một số nước lớn triệu tập cuộc họp với các nước liên quan để tìm giải pháp chính trị đối với miền Nam Việt Nam, trù tính đưa lực lượng thứ ba (do Mỹ sắp xếp) ra sân khấu chính trị Sài Gòn, trù tính thi hành thêm một số điều khoản quan trọng còn lại của Hiệp định Paris. Chúng tôi cho xác minh lại những tin tức trên, mặt khác chúng tôi vẫn báo cáo trước hội nghị Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương để các anh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình thảo luận và thông qua bản kế hoạch chiến lược. Trước ngày hội nghị khai mạc, Cục Tác chiến đã thể hiện tình hình chiến sự mới nhất lên các tấm bản đồ lớn treo trong phòng họp, trong đó có trận tiến công của ta tiêu diệt cứ điểm Nông Sơn, quận lỵ Thượng Đức và các đợt phản kích của các lữ dù địch. Hội nghị Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương diễn ra từ ngày SO tháng 9 đến ngày 8 tháng 10, chia thành hai đợt: hai ngày đầu nghe báo cáo, sau đó họp tiếp từ ngày 5 tháng 10 để thảo luận và ra nghị quyết. Trong dịp này, anh Võ Chí Công đang ở ngoài Bắc, cũng tham dự hội nghị. Tôi báo cáo tình hình 9 tháng qua, anh Tấn báo cáo dự thảo kế hoạch chiến lược hai năm và kế hoạch tác chiến chiến lược năm 1975. Về tình hình địch, ta và cục diện chiến trường, bản báo cáo của Bộ Tổng Tham mưu nêu rõ: đến nay số quân địch còn đông, hoả lực phi pháo tuy đã hạn chế nhưng vẫn còn mạnh, bộ máy kìm kẹp của chúng còn khống chế được nhân dân trong vùng chúng kiểm soát. Trải qua 9 tháng giằng co quyết liệt giữa ta và địch, thực tế chiến trường đã chỉ rõ kế hoạch "Lý Thường Kiệt-74" của địch đang đứng trước nguy cơ phá sản. Từ tháng 4 năm 1974, chiến trường chuyển biến nhanh chóng. Địch không còn đủ sức đối phó với các cuộc tiến công và phản công của ta. Bằng những số liệu cụ thể, bản báo cáo chứng minh lực lượng địch bị tiêu diệt và tan rã một bộ phận quan trọng, số đồn bốt bị tiêu diệt, bức hàng, bức rút ngày càng lớn. Lực lượng địch bị căng kéo, lại bị động đối phó, không còn quân cơ động để hỗ trợ cho bình định, lấn chiếm. Vùng giải phóng của ta mở ra nhanh và được củng cố thêm một bước, trên khắp các chiến trường, từ Trị Thiên, Khu 5 đến miền Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Mạng đường chiến lược cả đường chiến dịch của ta được phát triển ngày càng hoàn chỉnh, tạo nên thế chia cắt, trực tiếp uy hiếp vùng địch kiểm soát. Những khó khăn về kinh tế, tài chính của nguỵ quyền Thiệu đã ảnh hưởng rõ rệt đến kế hoạch quân sự và tinh thần quân nguỵ. Mặt khác, do ảnh hưởng của hoạt động quân sự trên chiến trường, do chính sách mặt trận của ta đúng đắn và khôn khéo, do ta vận dụng linh hoạt các phương thức đấu tranh, lại do sự khủng bố, đàn áp trắng trợn của địch. nên thái độ bất bình và chống đối Mỹ-Thiệu của nhiều tầng lớp nhân dân ở đô thị đã dần dần phát triển. CIA âm mưu cài người vào để lái phong trào nhưng bọn này không phát huy được tác dụng như chúng mong muổn. Về đánh giá khả năng của nguỵ, Bộ Tổng Tham mưu cho rằng không phải nguỵ "giữ sức" mà thực tế khả năng của chúng đã rất hạn chế. Chủng muốn tiếp tục đánh mạnh đường vận chuyển chiến lược của ta, mụốn giành lại những vùng đã mất, nhưng không còn đủ sức. Nếu Mỹ giảm viện trợ hơn nữa, nguỵ sẽ suy yếu càng nhanh hơn. Con số hơn một tỷ đô-la dự tính Mỹ viện trợ hiện nay được nguỵ coi là quá "eo hẹp" so với nhu cầu của hơn một triệu quân. Dù Mỹ có thêm vài trăm triệu đô-la cũng không giải quyết được vấn đề gì cơ bản. Về khả năng can thiệp trở lại của Mỹ, trước đây, Bộ Chính trị từng nhận định: Mỹ không còn khả năng đưa quân trên bộ vào nhưng không loại trừ khả năng chúng dùng không quân, hải quân chi viện, can thiệp. Nhưng hành động can thiệp đó cũng không cứu vãn được nguỵ khỏi sụp đổ. Nhận định đớ hiện nay vẫn đúng. Về phía ta, 9 tháng qua cho thấy cách đánh của bộ đội có tiến bộ nhiều nhưng chưa phải thật tốt. Phải nâng cao hơn trình độ tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, và khả năng đánh địch trong công sự. Trận Thượng Đức, tiến công vào một quận lỵ có nhiều công sự vững chắc, :10px;'>
Vào Quân khu 4, tôi kiểm tra kỹ tình hình bố trí binh lực ở phía nam quân khu, đặc biệt chú ý xem xét các trận địa pháo bờ biển của quân khu và của từng địa phương. Khi về qua huyện Tĩnh Gia (Thanh Hoá), tôi đã xuống kiểm tra báo động một cụm pháo bờ biển. Trình độ tổ chức chỉ huy của đơn vị khá tốt, các đồng chí trong huyện uỷ rất quan tâm xây dựng lực lượng dân quân tự vệ để phối hợp với chủ lực bảo vệ bờ biển. Vào thăm Quân đoàn 1, tôi tìm hiểu kỹ tình hình mọi mặt. Đây là quân đoàn đầu tiên được thành lập từ tháng 10 năm trước. Sự ra đời của quân đoàn đầu đàn này lại một lần nữa chúng minh sự sáng suốt của Đảng ta, thấy trước sự phát triển tất yếu của chiến tranh, tính tất yếu của tác chiến quy mô lớn. Thực tế những năm 1971- 1972 cho thấy hình thức tổ chức và sử dụng các sư đoàn độc lập hoặc phối thuộc không còn thích hợp nữa, mà phải xây dựng và phát huy vai trò của những quả đấm mạnh hơn, lớn hơn cỡ sư đoàn, mới có thể hoàn thành nhiệm vụ chiến lược là tiêu diệt khối chủ lực có số quân đông và trang bị mạnh của địch trong thời gian tương đối ngắn. Những quả đấm đó chính là các quân đoàn dự bị chiến lược được trang bị tương đối hiện đại, có sức đột kích lớn, hoả lực mạnh, khả năng cơ động cao. Quân đoàn 1 là quân đoàn đầu tiên và không phải ngẫu nhiên mà trong các đơn vị chủ lực đầu tiên của quân này lại có những đơn vị của quân đội ta: sư đoàn bộ binh 308 và trung đoàn pháo binh cơ giới 45. Tôi nhớ lại thời kỳ kháng chiến chống Pháp, địch thường theo dõi sát các đơn vị này. Nếu biết sư đoàn 308 ở hướng nào là chúng phán đoán ta sẽ đánh lớn trên hướng dó. Chúng đã gọi 308 là sư đoàn thép. Sư đoàn 308 đã được tặng danh hiệu Sư đoàn Quân Tiên Phong, trung đoàn pháo binh 45 được tặng danh hiệu Trung đoàn Tất Thắng. Trong thời gian này dưới sự chỉ đạo của anh Trần Văn Quang, hai cục Tác chiến và Dân quân đã chuẩn bị xong bán tổng kết kinh nghiệm đánh phá bình định. Dựa vào thực tế chiến trường những năm chống Mỹ, nhất là từ sau Hiệp định Paris, trong đó có kinh nghiệm của quân và dân Khu 9 do đồng chí Lê Đức Anh giới thiệu hồi tháng 2 năm 1974, Bộ Tổng Tham mưu đã đúc kết thành bản báo cáo súc tích, phong phú cả về thực tiễn và lý luận, sẽ được trình bày tại hội nghị sắp tới. Bản báo cáo được anh Văn và anh Dũng thông qua. Sau đó, hội nghị tổng kết kinh nghiệm đánh phá bình định được tổ chức và cuối tháng 5 năm 1974. Đại biểu các chiến trường miền Nam đều ra dự và đóng góp thêm nhiều ý kiến rất quý báu và phong phú. Những bài học rút ra từ cuộc hội nghị quan trọng này là quán triệt sâu sắc quan điểm cách mạng bạo lực và tư tưởng chiến lược tiến công; là thường xuyên bảo đảm cho lực lượng vũ trang sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống; thường xuyên tổ chức lực lượng quần chúng, chi bộ Đảng ở cơ sở, từ đó mà phát triển dân quân du kích bổ sung quân cho bộ đội địa phương; từng thời kỳ phát hiện sớm, đánh giá đúng âm mưu và thủ đoạn mới của dịch, nhất là khi chiến tranh có bước ngoặt lớn; biết tuỳ tình hình cụ thể của địa phương mà vận dụng phương châm, phương thức đấu tranh thích hợp; không ngừng phát huy sức mạnh của cả hai lực lượng vũ trang và chính trị, sức mạnh của cả ba mũi giáp công, chủ động tiến công và phản công địch. Tất cả đều nhằm đánh bại kế hoạch bình dịnh, lấn chiếm của địch. Thực tế trên toàn chiến trường miền Nam cuối năm 1974 đã chứng minh ý nghĩa quan trọng và tác dụng thiết thực của cuộc hội nghị này đối với việc phá bình định, chống lấn chiếm của địch, tạo thế mới, lực mới cho ta. Một nhiệm vụ có tầm quan trọng đặc biệt đối với Bộ Tổng Tham mưu trước khi bước vào mùa khô là hoàn chỉnh bản kế hoạch tác chiến cơ bản để trình Quân uỷ Trung ương. Ngay sau khi có Nghị quyết Trung ương lần thứ 21, Nghị quyết Quân uỷ tháng 10 năm 1973, Tổ trung tâm của Cục Tác chiến đã chuẩn bị bản kế hoạch chiến lược nhan đề: Phương hướng tác chiến 1973-1975, làm cơ sở chuẩn bị cho hội nghị Quân uỷ tháng 3 năm 1974. Sau cuộc họp của Quân uỷ, tháng 5 năm 1974 Cục Tác chiến lại hoàn thành bản dự thảo: Đề cương nghiên cứu kế hoạch giành thắng lợi ở miền Nam. Sau khi nghiên cứu bản đề cương này, thấy những vấn đề cần bổ sung cho phù hợp với tình hình phát triển trên chiến trường, ngày 18-7-1974, đồng chí Tổng tư lệnh đã căn cứ vào tư tưởng chỉ dạo của Bộ Chính trị, chl thị cho tôi cùng cơ quan tác chiến nghiên cứu lại để hoàn chỉnh kế hoạch chiến lược cơ bản để trình Bộ Chính trị thông qua vào cuối tháng 9. Để giúp cơ quan quán triệt ý định của Bộ Chính trị, đồng chí đã nêu lên một số ý kiến cơ bản trong việc xây dựng kế hoạch chiến lược: 1. Phải nắm vững lại toàn bộ tình hình phát triển của cục diện chiến trường từ cuối năm 1978 đến nay. Do chiến trường vận dụng tốt tư tưởng tiến công, kiên quyết phản công và tiến công địch, lại do hậu phương đẩy mạnh việc vận chuyển chi viện cho các chiến trường, cho nên thế mới và lực mới đã hình thành ngày càng rõ nét. Cấn đi sâu nghiên cứu, phân tích, đánh giá những nhân tố mới đã được tạo ra, làm cơ sở cho quyết tâm chiến lược. 2. Dựa trên thay đổi bước đầu về so sánh lực lượng và cục diện chiến trường, cần xây dựng kế hoạch cơ bản theo hai bước. Bước một, giành thắng lợi có ý nghĩa quyết định. Đó là lúc ta đã làm thay đổi hẳn so sánh lực lượng trên chiến trường. Ta mạnh hơn địch cả về quân sự và chính trị, làm chủ phần lớn vùng nông thôn, rừng núi và tạo được khả năng thành lập chính phủ liên hiệp. Bước hai, trên cơ sở đó phát triển lên tổng công kích, tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi hoàn toàn. 3. Về chọn hướng chiến lược: Trong bước một nên chọn hai hướng: Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ. Hai hướng chiến lược này rất quan trọng có ý nghĩa quyết định. Hướng chủ yếu quyết định nhất là miền Đông. Nhưng chỉ khi nào ta có điều kiện dứt điểm. Trên hai hướng chiến lược này, phải có biện pháp nghi binh, tạo yếu tố bất ngờ, không để lộ lực lượng lớn và sớm để địch đề phòng. Trước mắt, chủ lực chỉ nên hoạt động ở mức độ vừa phải. 4. Phải có kế hoạch riêng cho miền Bắc, gắn với kế hoạch miền Nam. Tập trung vào hai nhiệm vụ: động viên chi viện miền Nam cả người và vật chất kỹ thuật; chuẩn bị đề phòng chiến tranh phá hoại trở lại và sẵn sàng kế hoạch tác chiến trong trường hợp địch đổ bộ vào vùng ven biển nam Khu 4. 5. Về xây dựng lực lượng: Nắm vững yêu cầu nâng cao chất lượng chiến đấu; chú trọng giải quyết vấn đề biên chế tổ chức một cách hợp lý, xác định tỷ lệ cân đối giữa các quân chủng, binh chủng, sao cho phù hợp với thực tế số quân hiện nay và khả năng động viên tuyển quân sắp tới; có kế hoạch tích cực bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chiến lược sắp tới. 6. Về cách đánh: Phổ biến sâu rộng hơn nữa kinh nghiệm vừa tổng kết về đánh phá bình định của địch; tổ chức nghiên cứu kinh nghiệm tác chiến của các đơn vị chủ lực đánh tiêu diệt chi khu, quận lỵ, thị xã và chiến đoàn địch; kinh nghiệm xây dựng đơn vị lớn tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, tiêu diệt sư đoàn địch. 7. Nghiên cứu kế hoạch kết hợp quốc phòng với kinh tế, trong đó có tổ chức quân đội tham gia xây dựng kinh tế và chuẩn bị phục hồi đường sắt từ nam Khu 4 trở vào. Điều suy nghĩ đầu tiên của tôi sau khi nhận chỉ thị của đồng chí Tổng tư lệnh là nắm lại tình hình mới nhất, toàn diện nhất, là cơ sở cho việc bổ sung và hoàn chỉnh kế hoạch chiến lược. Anh Dũng mệt đang nghỉ ở nước ngoài. Tôi cùng anh Tấn và các đồng chí Phó Tổng Tham mưu trưởng khác trao đổi ý kiến, lần lượt nghe các cục trong Bộ Tổng Tham mưu báo cáo và cùng các đồng chí bên Tổng cục Hậu cần đánh giá tình hình tổng hợp trong nửa năm qua. Đáp số cần tìm ra là thế mới, lực mới trên chiến trường, trên cơ sở đó mà đề đạt kế hoạch chiến lược trong vài năm tới. Điều nổi lên sau đợt hoạt động mùa khô 1973-1974 vừa qua là sự chuyển hoá về lực lượng so sánh giữa ta và địch, là sự thay đổi bước đầu về cục diện chiến trường có lợi cho ta. Bước vào năm 1974, những số liệu của địch cho thấy chúng vẫn chủ quan khi đề ra chỉ tiêu trong kế hoạch bình định, lấn chiếm, xây dựng quân nguỵ và khôi phục kinh tế. Nhưng thực tế nửa đầu năm 1974 chứng tỏ chúng đã không thể thực hiện được các kế hoạch đề ra. Quân địch còn đông, phi pháo còn tập trung, đồn bốt ở nông thôn còn nhiều, nên chúng còn kiểm soát kìm kẹp được một số vùng đông dân, còn vét được người, được của cho chiến tranh. Nhưng về mặt tác chiến, những điểm yếu của địch bộc lộ ngày càng rõ. Khi ta mở đợt hoạt động, nhất là từ tháng 3 năm 1974, đã xuất hiện một tình hình phổ biến trên các chiến trường là địch phải bị động đối phó. Quân số địch tuy còn đông nhưng chúng bị căng kéo buộc phải dàn mỏng lực lượng phòng giữ, sức phản kích hạn chế, khả năng giải toả chậm, điều quân nhỏ giọt, khả năng cơ động giảm sút. Mâu thuẫn ngày càng rõ rệt giữa tung quân bình định, lấn chiếm với tập trung lực lượng giải toả. Thực tế cho thấy tinh thấn và sức chiến đấu của địch sa sút, nơi nào bị ta đánh mạnh thì chúng bỏ chạy, nhất là bảo an dân vệ. Trong mấy tháng đầu năm, địch còn dốc sức lấn chiếm một số vùng ở tây Sơn Tịnh, tây Tư Nghĩa, đông Mộ Đức, đông-bắc Đức Phổ và Vùng 4 Kiến Tường, nhung địch không thực hiện được ý định. Các chi tiêu bình định, lấn chiếm do địch đề ra cho sáu tháng đầu năm 1974 dều không đạt được. Số đồn bốt ta gỡ được gấp đôi, gấp ba số địch chiếm lại; vùng kiểm soát của địch ngày càng thu hẹp rõ rệt. Kế hoạch bình định, lấn chiếm có ý nghĩạ chiến lược của chúng đứng trước nguy cơ phá sản, về xây dựng lực lượng, mặc dù địch dùng mọi thủ đoạn để bắt lính, đôn quân hòng cố giữ số quân xấp xỉ năm 1973 và bắt đầu tổ chức các phân, chi khu quân sự xã, nhưng nửa đầu năm 1974 cho thấy quân nguỵ đang trên đà suy sụp nhanh: nạn đào ngũ, rã ngũ tăng, tổng số quân đang có nguy cơ tụt xuống so với năm 1973, số quân của các tiểu đoàn chủ lực và địa phương đều thấp so với biên chế; lực lượng cơ động chiến lược đã thiếu lại bị thu hút tập trung ở vùng 1 chiến thuật. Điều đáng chú ý là trang bị kỹ thuật của địch còn nhiều, nhưng khả năng sử dụng lại hạn chế, vì hư hỏng không đủ cơ sở sửa chữa, thiếu nhân viên kỹ thuật (riêng phi công chỉ đủ 30% yêu cầu), đạn pháo sử dụng trên chiến trường nửa đầu năm 1974 giảm 9 lần so với nửa đầu năm 1973; xăng dầu giảm hơn một nửa so với năm 1972; trong tổng số 1.800 máy bay chi sử dụng được 1.100 chiếc, v.v. Tình hình đó đã ảnh hưởng trực tiếp đến tinh thần và hoạt động của quân nguỵ trên chiến trường. Điều đó giải thích vì sao tháng 6 năm 1974, Nguyễn Văn Thiệu phải kêu gọi quân nguỵ "chiến đấu theo kiểu con nhà nghèo"! Nền kinh tế Mỹ gặp khó khăn do hậu quả chiến tranh Việt Nam; viện trợ Mỹ bắt đầu giảm sút đã tác động mạnh đến nền kinh tế nguỵ Sài Gòn. Ngân sách tài khoá năm 1973 thiếu hụt 168 tỷ đồng miền Nam (tức 37% ngân sách); ngân sách năm 1974 - mặc dù Thiệu phải lạm phát 200 tỷ, vẫn thiếu hụt 98 tỷ (18% ngân sách). Hoạt động công nghiệp giảm trên 40%, diện tích canh tác nông nghiệp giảm từ 30 đến 40%. Về phía ta, từ đầu năm 1974, các chiến trường đã hoạt động đều và mạnh hơn. Trên cả hai miền, ta đã ra sức chuẩn bị về mọi mặt, nhằm tạo thế mới, lực mới để bước vào mùa khô 1974-1975. Từ Xuân Hè, ta đã chủ động phản công địch, từng bước giành lại các vùng địch lấn chiếm năm 1973 trên cả chiến trường Khu 5, Tây Nguyên và Nam Bộ. Nhiều nơi còn mở thêm được nhiều mảng, nhiều vùng, giải phóng thêm hàng chục vạn dân. Đặc biệt chiến trường miền Tây Nam Bộ, chỉ trong 3 tháng (từ tháng 4 đến tháng 6 năm 1974), quân và dân Khu 9 đã tiêu diệt và bức rút gần 600 đồn. Mặc dù phong trào đấu tranh chính trị ở các thành thị chưa đủ mạnh, chưa phối hợp đúng mức với hoạt động quân sự, chiến tranh du kích sâu trong vùng địch kiểm soát còn yếu, việc phát triển lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang địa phương còn chậm so với yêu cầu. Nhưng nhìn chung cục diện chiến trường, đến giữa năm 1974, đã chuyển biến ngày càng có lợi cho ta. Về cơ bản, ta đã giành được thế chủ động chiến lược, đã chiếm lĩnh và mở rộng bàn đạp tiến công trên các hướng chiến lược quan trọng. Vùng giải phóng được mở rộng, đời sống nhân dân ngày càng ổn định, an ninh trật tự bảo đảm. Số dân cũ vùng giải phóng và số dân mới bung về đã yên tâm sản xuất, bảo đảm lương thực, kể cả ở những nai địch ra sức cướp phá thóc lúa và phong toả kinh tế (như ở nhiều vùng thuộc đồng bằng sông Cửu Long); diện tích canh tác trong vùng ta làm chủ so với năm 1973 vẫn tăng (riêng ở Khu 8, sáu tháng đầu năm 1974 tăng 1,3 vạn héc-ta). Tuy nhiên, việc thu mua lương thực còn chậm, mới đạt 40% kế hoạch. Việc xây dựng lực lượng vũ trang trên cả hai miền đã đạt kết quả quan trọng, nhất là việc kiện toàn khối dự bị chiến lược. Tiếp theo việc thành lập Quân đoàn 1 (tháng 10 năm 1973), thêm hai quân đoàn lần lượt ra đời (Quân đoàn 2 ở Trị Thiên, tháng 5 năm 1974 và Quân đoàn 4 ở Nam Bộ, tháng 7-1974), với đủ các thành phần binh chủng kỹ thuật. Ta đã có thêm những quả đấm chiến lược mạnh, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu đánh tiêu diệt lớn có ý nghĩa quyết định khi thời cơ chiến lược lớn xuất hiện. Điều khiến Bộ Tổng Tham mưu tiếp tục suy nghĩ tìm biện pháp khắc phục là việc tuyển quân và phát triển lực lượng vũ trang địa phương tại chỗ ở miền Nam vẫn chưa đạt chỉ tiêu đề ra. Nói đến những binh đoàn chủ lực lớn mạnh của ta vào mùa hè năm 1974 này, tôi nhớ lại những ngày gian khổ khi xây dựng các đơn vị chủ lực đầu tiên ở miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ; nhớ đến anh Nguyễn Chí Thanh, uỷ viên Bộ Chính trị một trong những đồng chí lãnh đạo đã dành nhiều tâm lực vào việc xây dựng lực lượng vũ trang ở miền Nam. Anh Thanh được Bác Hồ và Trung ương Đảng cử vào chiến trường giữa năm 1964, cách đây dúng 10 năm. Tuy chỉ hoạt động trên chiến trường miền Nam chừng ba năm, song anh đã để lại cho cán bộ các cấp những ấn tượng sâu sắc về một cán bộ lãnh đạo có nhiệt tình cách mạng sôi nổi và tầm nhìn chiến lược xa, rộng. Anh được cử vào Nam khi mà cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ đang chuyển từ chiến lược "chiến tranh đặc biệt" sang chiến lược "chiến tranh cục bộ", với những đơn vị viễn chinh đầu tiên của Mỹ đã có mặt trên chiến trường. Cuộc kháng chiến đang trên xu thế ngày càng phát triển. Điều đó giải thích vì sao, trên cơ sở tiếp thụ ý kiến chỉ đạo của Bác Hồ và Trung ương Đảng, trong suy nghĩ của mình anh Thanh đã sớm hình thành một nhận thức có tầm chiến lược lớn: phải xây dựng lực lượng vũ trang miền Nam thành những đơn vị mạnh, nhằm đáp ứng yêu cầu tác chiến tập trung ngày càng lớn, bên cạnh sự phát triển ngày càng cao của chiến tranh du kích. Điều đó cũng giải thích vì sao cùng với anh Thanh, hồi đó Đảng còn cử những cán bộ chỉ huy đã được thứ thách nhiều trong tác chiến tập trung, như các anh Lê Trọng Tấn, Hoàng Cầm, Nguyễn Hoà. Những người làm việc gần gũi anh Thanh thường thấy anh luôn cân nhắc mọi mặt, quân sự chính trị, trong nước và ngoài nước, để rút ra những kết luận đúng đắn về thế và lực, về so sánh lực lượng giữa ta và địch, về cục diện chiến trường, về xu thế phát triển của chiến tranh. Nghe tình hình chiến sự trong những buổi giao ban hoặc hội nghị, anh thường quan tâm đến những con số cụ thể để suy nghĩ, đánh giá về thương vong của địch và của ta, về tỷ lệ quân Mỹ so với quân nguỵ tham chiến và bị tiêu diệt trên chiến trường. Một điều được anh sớm khẳng định và thường nhắc đi nhắc lại là: Quân Mỹ vào miền Nam trong thế thua; vấn đề đặt ra cho ta phải xây dựng lực lượng vũ trang như thế nào, đặc biệt là bộ đội chủ lực, để tạo thêm điều kiện phát triển thế tiến công chiến lược, trước hết là vào nửa cuối năm 1965, khi quân Mỹ đang kéo vào ngày càng đông. Ngay khi vào B2, anh Thanh đã cùng các đồng chí lãnh đạo và chỉ huy chiến trường kiên trì và khẩn trương chỉ đạo xây dựng bộ đội chủ lực từ thấp lên cao, từ những đơn vị nhỏ đến những đơn vị ngày càng lớn hơn. Chính với những đơn vị chủ lực mới được xây dựng đó mà chúng ta giành thắng lợi trong các chiến dịch Bình Giã (Đông Xuân 1964-1965), Đồng Xoài (Hè 1965), v.v. Từ đó, những chiến thắng của ta ở miền Nam ít nhiều đều mang tính chất thắng lợi của những quả đấm chủ lực mà anh Nguyễn Chí Thanh đã góp công sức xây dựng ngay từ đầu. Tháng 7 năm 1967, khi đang công tác ở Khu 5, tôi vô cùng xúc động và thương tiếc khi được Trung ương thông báo anh Thanh qua đời ngay trước ngày trở lại chiến trường với quyết tâm chiến lược mới của Đảng. Anh mất đi là một tổn thất lớn đối với toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, nhất là đúng vào lúc cuộc kháng chiến đang bước vào một thời kỳ quyết liệt trên cả hai miền đất nước. Từ ngày anh Thanh qua đời, đến giữa năm 1974 này, thấm thoát bảy năm đã trôi qua. Quân và dân ta đã tiến thêm một chặng đường đầy thử thách, đã đánh cho Mỹ cút và đang chuẩn bị kế hoạch đánh cho nguỵ nhào. Khi tôi đang viết những dòng trên đây cũng như mãi mãi sau này, những cán bộ chỉ đạo chỉ huy quân đội còn ghi nhớ những kỷ niệm sâu sắc về đồng chí Nguyễn Chí Thanh. Mọi người tìm thấy và học tập ở anh đức tính trung thực, vô tư, lòng nhiệt tình sôi nổi, tính năng động sáng tạo, cả trong suy nghĩ và trong hành động. Khi tiếp xúc với cán bộ, với phong thái cởi mở, chân thành, anh luôn lắng nghe ý kiến mọi người, bàn bạc dân chủ, phân rõ đúng sai, kết luận dứt khoát, với lòng tin tưởng vào đồng cấp và cấp dưới, anh đã giành được sự tin cậy và tôn trọng của cán bộ các cấp. Chúng ta trở lại vấn đề tạo thế mới, lực mới trên chiến trường vào giữa năm 1974 này. Việc củng cố và phát triển các trục đường vận chuyển chiến lược Đông và Tây Trường Sơn được xúc tiến khẩn trương, nhất là từ sau Hội nghị Trung ương lần thứ 21, theo phương hướng chuẩn bị sẵn sàng cho tác chiến quy mô lớn. Địch phải ngừng ném bom trên đất Lào và thời tiết mùa khô từ cuối năm 1973 và nửa năm 1974 là những điều kiện thuận lợi để ta đẩy nhanh việc phát triển và hoàn chỉnh hai trục đường chiến lược bên đông và bên tây dải Trường Sơn, các đường ngang, đường tránh, đường chiến dịch và đường ống dẫn dầu đi sâu vào hướng chủ yếu của từng chiến trường. Ta đã củng cố và mở rộng 5.920 ki-lô-mét đường dọc, 3.930 ki-lô-mét đường ngang và 4.830 ki-lô-mét đường vòng tránh, có thể bảo đảm yêu cầu vận chuyển cơ giới trong mọi thời tiết. Đi đôi với khâu mở thêm đường là việc vận chuyển chi viện cho chiến trường. Yêu cầu đặt ra là tập trung dứt điểm toàn bộ khối lượng chi viện cho các chiến trường Tây Nguyên, Nam Bộ, Lào và Campuchia. Trong đợt một chiến dịch vận chuyển, từ tháng 11 năm 1973 đến tháng 5 năm 1974, cơ quan hậu cần chiến lược và Đoàn 559 đã đạt chỉ tiêu kế hoạch trên toàn tuyến vận chuyển chiến lược từ 105% đến 169%, bao gồm gần 10 vạn quân vào, và đưa gần hết số thương binh, bệnh binh ra hậu phương lớn, đưa vào 25 đoàn xe tăng, thiết giáp, pháo binh và hàng chục vạn tấn hàng quân sự và dân sự, đồng thời đã có kế hoạch chuẩn bị chân hàng và kế hoạch vận chuyển trên 50 vạn tấn nữa dự trữ cho kế hoạch các năm sau. Đợt hai của chiến dịch vận chuyển đang xúc tiến khẩn trương và cũng có nhiều khả năng vượt chỉ tiêu kế hoạch, cả kế hoạch bổ sung cho ta và hai nước bạn. Từ nam đường 9 đến miền Đông Nam Bộ, hàng loạt chân hàng và cơ sở hậu cần kỹ thuật đã hình thành. Hai đường vận chuyển Đông và Tây Trường Sơn như hai mạch máu chảy song song, nối liền hậu phương với tiền tuyến lớn, tạo nên nguồn sức mạnh to lớn cho chiến trường. Trong việc mở rộng mạng đường vận chuyển chiến lược, ta đã đồng thời kết hợp nhiệm vụ trước mắt và lâu đài, nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu quy mô lớn và xây dựng lực lượng toàn diện, nhiệm vụ quốc phòng và kinh tế, quân sự và dân sinh, nhiệm vụ dân tộc và nghĩa vụ quốc tế, với 10 vạn quân chi viện cho chiến trường trong năm 1973, gần 8 vạn quân bổ sung thêm trong 6 tháng đầu năm 1974, nhiều đơn vị phía trước đã dần dần được bổ sung đủ số quân theo biên chế (tiểu đoàn chủ lực 400-500, trung đoàn 1.800-2.000, tiểu đoàn địa phương 300-350) và từng bước nâng số quân bộ đội tập trung lên chừng 40 vạn (trong đó khối chủ lực của ta - trên chiến trường-xấp xỉ khối chủ lực nguỵ), đồng thời tạo điều kiện cho chiến trường có lực lượng dự bị tại chỗ. Điểm mới đáng chú ý trong các đợt chuyển quân đầu năm 1974 là bảo đảm số quân bàn giao đạt tỷ lệ cao hơn, tốc độ nhanh hơn so với bất cứ thời kỳ nào trước đây. Nếu giữa năm 1973, tỷ lệ giao quân đạt cao nhất là 95%, thấp nhất là 83,2%, trung bình là 91,8% thì trong các đợt giao quân nửa đầu năm 1974, tỉ lệ đạt 99,3%, nhiều tiểu doàn đạt 100% số quân. Mặt khác, quân tăng cường cho chiến trường cuối năm 1973 và nửa đầu năm 1974 gồm lực lượng đồng bộ, bao gồm những tiểu đoàn bộ binh và binh chủng kỹ thuật hoàn chỉnh, đã trải qua huấn luyện cơ bản, với thời gian huấn luyện đầy đủ và nội dung toàn diện, theo phương hướng tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn. Làm việc với các cơ quan kế hoạch Nhà nước, điều khiến chúng tôi rất phấn khởi là nhân dân miền Bắc nước ta đang cố gắng và đạt nhiều thành tích quan trọng trong việc khắc phục những hậu quả nghiêm trọng của hai lần chiến tranh phá hoại của địch. Chỉ mới sau một năm, tổng sản phẩm xã hội năm 1973 đã cao hơn năm 1965, giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng gần 12% so với năm 1972. Nhà nước ta lại đang đầu tư một số lượng lớn nhân lực và phương tiện, vật tư vào việc xây dựng và phát triển kinh tế, văn hoá trong các vùng giải phóng miền Nam. Nhìn chung lại, những nội dung công tác để tạo thế, tạo lực mới mà Bộ Tổng Tham mưu bàn bạc với các tổng cục và Đoàn 559 để đề đạt lên Quân uỷ Trung ương hồi đầu năm 1974, chúng tôi vui mừng nhận thấy công tác nghiên cứu của cơ quan tham mưu chiến lược đã có một bước tiến mới, có chiều sâu trong việc giúp trên chỉ đạo triển khai công tác chuẩn bị chiến lược về mọi mặt. Sự nỗ lực vượt bậc của quân và dân ta từ tiền tuyến đến hậu phương trong hơn một năm qua đã làm cho so sánh lực lượng giữa ta và địch nhanh chóng thay đổi rõ rệt, cục diện chiến trường chuyển biến ngày càng có lợi cho ta. Bộ đội phía trước kiên quyết phản công và tiến công địch bình định, lấn chiếm và hành quân giải toả, đã mở ra thế chiến lứợc mới trên nhiều địa bàn xung yếu, dồn địch vào thế bị động đối phó. Vùng giải phóng mở ra đến đâu được củng cố vững chắc đến đó Việc phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hậu cần tại chỗ trong các vùng giải phóng và dọc đường vận chuyển chiến lược đã đạt thành tích đáng kể. Hệ thống đường chiến lược, chiến dịch trên cả hai trục Tây và Đông Trường Sơn phát triển nhanh và ngày càng hoàn chỉnh, từ tây Trị Thiên xuống đường 14 và tây các tỉnh đồng bằng Khu 5, từ tây Sa Thày hướng vào Đức Lập, Ô Răng, Bù Gia Mập, tạo thành thế chia cắt địch về chiến lược và mở ra cho ta khả năng vận chuyển cơ giới trong mọi thời tiết, nhằm áp sát các mục tiêu chiến lược trên nhiều hướng. Việc xây dựng lực lượng vũ trang đã đạt những kết quả quan trọng. Đó là kết quả tuyển quân vượt mức của các địa phương miền Bắc và việc phát triển lực lượng dịa phương, dân quân du kích ở các tỉnh phía nam bắt đầu có chuyển biến ở một số vùng; đó còn là kêt quả xây dựng nhiều đơn vị mới và kiện toàn các đơn vị chủ lực dự bị chiến lược lên quy mô nhiều quân đoàn, cùng các binh chủng kỹ thuật đang được xáy dựng và huấn luyện theo phương hướng tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, kết quả chi viện cho chiến trường về số quân nhằm nhanh chóng tăng cường lực lượng phía trước, v.v. Thực tế mùa khô 1974-1975 đã chứng minh: lực lượng phát triển quy mô lớn trên đây sẽ hình thành những quả đấm chiến lược mạnh trên nhiều hướng quan trọng đầu năm 1975 và hình thành các cánh quân lớn tiến vào sào hàn kết với hai nước Lào, Campuchia độc lập, thống nhất, sẽ là một trở lực lớn đối với mưu đồ bành trướng của họ. Vì thế họ tìm cách ngăn chặn bước tiến của Việt Nam, kéo dài tình trạng chia cắt đất nước ta. Mỹ hy vọng dùng một nước khác gây sức ép, buộc ta dừng lại sau khi ký Hiệp định Paris. Âm mưu của họ rất nguy hiểm, nhưng lúc này chưa ai sẵn sàng, chưa ai đủ sức làm nổi. Xét tất cả các mặt nói trên, chúng ta khẳng định đây là thời cơ thuận lợi nhất để nhân dân ta hoàn toàn giải phóng miền Nam, giành thắng lợi tron vẹn cho cách mạng dân tộc dân chủ, đồng thời giúp cách mạng Lào và Campuchia hoàn thành sự nghiệp giài phóng dân tộc. Ngoài thời cơ này, không có thời cơ nào khác. Nếu để chậm mươi, mười lăm năm nữa, bọn nguỵ gượng dậy được, các thế lực xâm lược được phục hồi, bọn bành trướng mạnh lên thì tình hình sẽ phức tạp vô cùng. Khi hạ quyết tâm chiến lược này, điều mấu chốt nhất phải cân nhắc là liệu Mỹ có trở lại miền Nam hay không? Chọn thời cơ chiến lược này, ta phán đoán Mỹ không có khả năng quay lại. Song ta cũng khẳng định dù Mỹ có can thiệp trở lại trong chừng mực nào thì chúng cũng không xoay chuyển được tình thế và ta vẫn thắng. Vấn đề đặt ra cho ta phải suy nghĩ là đánh như thế nào và thắng như thế nào cho tốt. Thời cơ này đòi phải làm nhanh, làm gọn, làm triệt để, nhưng phải khôn khéo, có như thế mới tạo được bất ngờ, không ai kịp trở tay. Có làm được như thế không? Chúng ta đã nhất trí cần thiết phải làm và nhất định làm được. Sau khi phân tích một cách biện chứng về so sánh lực lượng giữa ta và địch sau Hiệp định Paris, anh Ba nói: "Điều cần nhấn mạnh là phải nhận rõ những khả năng và lực lượng to lớn mà chúng ta cần và có thể huy động được, tạo nên sức mạnh tổng hợp để đánh thắng trong cuộc đọ sức cuối cùng với địch. Sức mạnh của chúng ta trước hết là sức mạnh làm chủ của nhân dân, sức mạnh của cả nước đánh giặc, từ Bđc đến Nam, hậu phương đến tiền tuyến. Sức mạnh của ta là sức mạnh của hai ngọn cở độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, gắn liền chặt chẽ với ba dòng thác cách mạng của thời đại. Sức mạnh của ta là sức mạnh của chiến tranh nhân dân. Toàn thể hội nghị nghe chăm chú, phấn khởi đồng tình. Anh Ba rất vui vẻ đi vào phần cuối của bài kết luận. Anh khẳng định: "Quyết tâm của ta là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, mờ cuộc tổng tiến công và nổi dậy cuối cùng, đưa chiến tranh cách mạng phát triển đến mức cao nhất, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân nguỵ, đánh chiếm Sài Gòn, sào huyệt trung tâm của địch cũng như tất cả các thành thị khác, đánh đổ nguỵ quyền ở trung tâm và các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân, giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn toàn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thống nhất nước nhà. Ngay từ bây giờ, phải tiến hành mọi công việc chuẩn bị thật khẩn trương, tạo điều kiện và cơ sở vật chất đầy đủ nhất để đánh mạnh, đánh nhanh, thắng gọn và thắng triệt để trong thời gian hai năm 1975-1976. Chúng ta đang đảm nhận một sứ mệnh lịch sử to lớn và nặng nề hơn bao giờ hết. Song cũng chưa lúc nào chúng ta phấn khởi vui mừng như hiện nay. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân cả nước ta từ Bắc chí Nam, đều phải quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ Đồng bào cả nước và anh em bầu bạn trên thế giới đang mong chờ thắng lợi của chúng ta. Thời cơ này không cho phép lừng chừng, do dự?". Sau những tiếng vỗ tay nhiệt liệt hưởng ứng lời kết luận của đồng chí Bí thư thứ nhất, đồng chí Bí thư Quân uỷ Trung ương đứng lên thay mặt toàn quân, nói: - Anh Ba đã kết luận hội nghị, một cuộc hội nghị lịch sử với những quyết định lịch sử, hoàn thành cách mạng giải phóng miền Nam. Anh Ba đã thay mặt Đảng trao nhiệm vụ cho quân đội. Quân đội sẽ quyết tâm thực hiện bằng được nhiệm vụ lịch sử của Đảng trao cho. Hội nghị kết thúc với niềm phấn khởi tin tưởng vào thắng lợi to lớn những ngày sắp tới. Chúng tôi khẩn trương, triển khai mọi công tác cần thiết để thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị. Hàng loạt công việc cấp bách được đặt ra đối với cơ quan tham mưu: bổ sung kết hoạch tác chiến chiến lược 1975, kế hoạch tuyển quân bổ sung số quân, huấn luyện chiến đấu, tính toán lại nhu cầu vật chất, nghiên cứu chuyên đề về địch trong tình huống Thiệu đổ, ta phải kịp thời tranh thủ thời cơ chiến lược thế nào, v.v. Trong quá trình bổ sung kế hoạch, vấn đề được chúng tôi tiếp tục trao đổi ý kiến là làm sao quán triệt đầy đủ quyết tâm của Bộ Chính trị, vừa xây dựng và triển khai kế hoạch cơ bản, vừa chuẩn bị sẵn sàng kế hoạch thời cơ, sẵn sàng hành động một cách chủ động và linh hoạt, không để lỡ thời cơ chiến lược, nhất là khi có đột biến chính trị ở miền Nam. Ngày 28 tháng 10, kế hoạch 2 năm được Quân uỷ Trung ương phê duyệt. Đây là lần dự thảo thứ tám để đưa ra Bộ Chính trị chíng thức thông qua. Hội nghị (mở rộng) của Bộ Chính trị đến tháng 12 mới họp. Trong khi chờ đợi, theo chỉ thị của Quân uỷ, Bộ Tổng Tham mưu cứ truyền đạt cho các chiến trường quyết tâm và kế hoạch đã được thông qua bước đầu và chỉ đạo triển khai chuẩn bị theo kế hoạch đó. Riêng về phần mình, chúng tôi phải khẩn trương xúc tiến và hoàn thành hàng loạt công tác chuẩn bị cần thiết cho kế hoạch tác chiến chiến lược năm 1975. Từ tháng 10, sau hội nghị Bộ Chính trị, không khí làm việc trong các cơ quan Bộ Tổng Tham mưu trở nên nhộp nhịp lạ thường. Nhiều phái viên tham mưu được cử xuống các địa phương, đơn vị: vào Nghệ An trao nhiệm vụ cho sư đoàn 316; đi triển khai kế hoạch bổ sung quân để Quân đoàn 1 sẵn sàng vào chiến trường sau khi diễn tập thực binh ở Sầm Sơn; đi các quân chủng, binh chủng kiểm tra công tác chuẩn bị của các đơn vị kỹ thuật đã được giao nhiệm vụ sẵn sàng vào chiến trường Tây Nguyên khi có lệnh, v.v. Đối với các chiến trường, hàng loạt công việc phải triển khai gấp: bổ sung lực lượng, kiện toàn biên chế Quân đoàn 4 và bổ sung các binh chủng kỹ thuật cho B2; chấn chỉnh lực lượng của Quân khu Trị Thiên và Quân đoàn 2; mở thêm đường cơ động phía tây-nam Huế và chuẩn bị các trận địa pháo sẵn sàng khống chế các căn cứ sân bay, bến cảng quan trọng của địch; bổ sung quân và trang bị binh khí kỹ thuật cho khối chủ lực và địa phương Khu 5; bổ sung trang bị cho sư đoàn 968 ở Hạ Lào về, v.v. Tất cả đều được Bộ Tổng Tham mưu và các tổng cục phối hợp thực hiện hết sức khẩn trương. Yêu cầu đề ra là: Bất kỳ trong tình huống nào cũng bảo đảm đủ lực lượng tăng cường cho miền Nam giành thắng lợi. Kết quả hai đợt tuyển quân năm 1974 là điều kiện thuận lợi rất lớn để đáp ứng yêu cấu của chiến trường khi bước vào mùa khô. Nhiều gia đình đã tiễn đến người con thứ năm, thứ sáu vào bộ đội. Có những bà mẹ cùng một lúc cho cả con trai, con gái lên đường chiến đấu. Tuổi trẻ yên tâm ra đi vì việc nhà đã có xóm làng, hợp tác giúp đỡ lo toan. Chúng tôi cùng các đồng chí Tổng cục Hậu cần soát xét lại việc chuẩn bị chiến trường. Bộ đội Trường Sơn đang cố gắng hoàn chỉnh trục đường chiến lược trước mùa khô để bảo đảm vận chuyển trong cả hai mùa vào tới Lộc Ninh. Từng chiến trường đang gấp rút phát triển các đường chiến dịch đến các mục tiêu đã dự kiến. Hệ thống kho trạm hậu cần đã được triển khai hoàn chỉnh trên hành lang chiến lược, từ Đường 9 đến La Ba Khê, hệ thống đường ống dẫn dầu và kho chứa đang vươn từ Hạ Lào đến Bù Gia Mập. Đoàn 559 đang gấp rút hoàn thành kế hoạch vận chuyển hàng chục vạn tấn hàng các loại theo yêu cầu kế hoạch hai năm 1975-1976 và một phần dự trừ cho năm sau. Sức người, sức của được động viên ra tiền tuyến nói lên sự nhất trí của toàn dân và ý chí của hậu phương lớn miền Bắc quyết dốc lòng dốc sức cùng đồng bào ruột thịt ở tiền tuyến lớn miền Nam đi đến đích cuối cùng của sự nghiệp giải phóng dân tộc. Trong mấy tháng cuối năm 1974, một điều khiến chúng tôi còn băn khoăn là làm sao bảo đảm chất lượng huấn luyện đợt hai kết quả tốt như đợt một, nhất là đối với việc tập huấn cán bộ. Khách quan mà xét, điều kiện huấn luyện đợt hai có khó khăn hơn. Do chấn chinh tổ chức nên cán bộ có phần không ổn định, thời gian huấn luyện ít hơn, nhưng yêu cầu của chiến trường lại khẩn trương hơn. Cục Quân huấn, dưới sự chỉ đạo của đồng chí Vương Thừa Vũ, Phó Tổng Tham mưu trưởng, đã cố gắng cùng các quân khu, Quân đoàn, quân chủng binh chủng, phấn đấu sao cho các tiểu đoàn quân tăng cường được huấn luyện hết chương trình, sao cho cán bộ được bồi dưỡng những nội dung chủ yếu về chiến thuật, kỹ thuật, về công tác tổ chức chỉ huy trước khi nhận nhiệm vụ. Từ hồi kháng chiến chống Pháp, anh Vũ là một cán bộ cần cù, tận tuỵ trung thực, có nhiều kinh nghiệm chỉ huy chiến đấu và huấn luyện bộ đội, nhất là kinh nghiệm huấn luyện các đơn vị tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn. Tháng 11 năm 1974, Bộ Tổng Tham mưu cử phái viên xuống các quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng, mang theo chỉ thị huấn luyện bổ sung cho kịp yêu cầu nhiệm vụ năm 1975, đồng thời truyền đạt những kinh nghiệm mới được tổng kết về chiến dịch tổng hợp ở đồng bằng, kinh nghiệm tiến công thành phố thị xã, tiến công tiêu diệt chi khu quận lỵ, diệt tiểu đoàn, chiến đoàn địch đi giải toả, truyền đạt kết quả nghiên cứu về cách đánh hiệp đồng binh chủng tiêu diệt sư đoàn địch. Riêng đối với sư đoàn 316, do điều kiện chuẩn bị hành quân gấp vào chiến trường, Bộ Tổng Tham mưu đã cùng các tổng cục cử một đoàn phái viên xuống giúp đỡ về các mặt để đơn vị kịp lên đường. Do không còn thời gian để tiến hành trước khi hành quân, nên việc phổ biến kinh nghiệm đánh chi khu quận lỵ chỉ làm được khi sư đoàn 816 đặt chân đến chiến trường Tây Nguyên. Tình thần làm việc hăng say, khẩn trương, nghiêm túc với trách nhiệm cao của từng cá nhân, từng bộ phận trong các cơ quan của Bộ đã góp phần để các đơn vị, các chiến trường bước vào mùa chiến dịch với lực lượng mọi mặt đầy đủ hơn, trình độ tác chiến được nâng cao hơn. Thành tích đó là những chiến công thầm lặng của cả những cán bộ và chiến sĩ ở phía sau, cùng những chiến công oanh liệt của cán bộ và chiến sĩ phía trước, với quyết tâm biến chủ trương chiến lược đúng đắn, sáng suốt của Đảng thành thắng lợi hiện thực trên chiến trường. Công việc khẩn trương dồn dập khiến ai cũng cảm thấy hai tháng trôi qua đi quá nhanh. Cuộc họp đợt hai của Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương và các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy các chiến trường diễn ra từ trung tuần tháng 12, khi đợt 1 của cuộc tiến công năm 1975 đã bắt đầu được 12 ngày ở đồng bằng sông Cửu Long. Các anh Phạm Hùng, Trần Văn Trà, Phan Văn Đáng ở Nam Bộ; Võ Chí Công, Chu Huy Mân ở Khu 5 đã có mặt ở Hà Nội từ đầu tháng. Cũng như nhiều cuộc họp hội nghị trước đây, mấy ngày trước khi vào cuộc họp chính thức, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương đã làm việc riêng với đại diện từng chiến trường, nghe các anh báo cáo tình hình. Lần này, các anh còn báo cáo thêm về quyết tâm và kế hoạch tác chiến trên địa bàn của mình. Anh Phạm Hùng và anh Trần Văn Trà báo cáo tình hình B2 từ giữa 1973 đến cuối 1974, đặc biệt đáng chú ý là mùa mưa vừa qua, ta đánh tốt. Các anh báo cáo kế hoạch của Miền, trong đó có kế hoạch trên hướng đường 14 - Đồng Xoài. Các anh Võ Chí Công và Chu Huy Mân báo cáo tình hình địch, ta và kết quả tác chiến hai năm qua, trong đó nổi lên là việc mở mảng, mở vùng, việc đưa nhiều lực lượng xuống áp sát địch ở vùng đồng bằng; việc làm đường mới và khôi phục đường cũ đạt tới 480 ki-lô-mét; việc tiếp nhận hàng của hậu phương lớn, thành quả sản xuất tự túc cũng như kết quả diệt địch. Do đã được chuẩn bị từ sau cuộc họp đợt 1, nên khi bước vào cuộc họp đợt 2 này, những vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt đều được suy nghĩ thêm và thảo luận sôi nổi: Đánh giá sự chuyển hoá lực lượng so sánh giữa ta và địch sao cho sát với tình hình chung và trên từng chiến trường? Mục tiêu năm 1975 cần phấn đấu đạt tới mức nào? Chiến trường nào là hướng sơ hở nhất của địch và là hướng tiến công chủ yếu của ta? Thời cơ chiến lược có thể xuất hiện vào lúc nào? Làm sao để kịp chớp thời cơ chiến lược?. Trong cuộc họp lần này, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương dành nhiều thời gian nghe ý kiến của các chiến trường. Trong quá trình thảo luận, các anh trong Bộ Chính trị và Quân uỷ cũng nói rõ nhiều vấn đề đã được suy nghĩ thêm sau cuộc họp tháng 10. Những vấn đề đặt ra dưới nhiều khía cạnh khác nhau đã được trí tuệ của tập thể phân tích sâu sắc, để đi đến sự nhất trí cuối cùng. Anh Văn Tiến Dũng nhấn mạnh vấn đề dùng binh lực, vận dụng cách đánh phải thể hiện ngay trong bước xây dựng kế hoạch và phát triển kế hoạch. Anh Lê Đức Thọ phân tích về Mỹ, về thời cơ tương quan lực lượng, cơ sở để hạ quyết tâm hai năm, về đánh phá bình định, tiêu diệt chủ lực địch xây dựng địa phương, công tác binh vận. Anh Phạm Văn Đồng phân tích về phương pháp tác chiến chiến lược trong giai đoạn tới, vận dụng chiến lược tổng hợp, chuẩn bị cơ sở vật chất kỹ thuật và cả vấn đề huấn luyện chiến sĩ mới. Anh Trường Chinh nêu lên đặc điểm tình hình, nhiệm vụ hai miền, cách đánh chiến lược và đồng ý chọn hướng Tây Nguyên, chọn Buôn Ma Thuột. Các anh Trần Quốc Hoàn, Lê Văn Lương, Nguyễn Duy Trinh phát biểu xoay quanh các vấn đề về biện pháp chiến lược, về yêu cầu kết hợp các mặt quân sự, chính trị và ngoại giao. Suốt quá trình diễn biến của cuộc họp, hàng ngày, có khi hàng buổi, Cục Tác chiến báo cáo với hội nghị những diễn biến mới nhất trên chiến trường, phản ứng của Oa-sinh-tơn, của Sài Gòn và các tư lệnh chiến trường của nguỵ. Hầu như mỗi lần thông báo tin chiến sự là một lần bổ sung tư liệu sống rất quý báu, khẳng định thế và lực của ta đang lên, thế và lực của địch đang xuống; điển hình là qua chiến thắng Phước Long. Quá trình dẫn đến chiến thắng Phước Long là quá trình trao đổi qua lại giữa Bộ Tổng Tham mưu với các đồng chí ở B2. Chúng tôi đều thống nhất với nhau về các mục tiêu Đồng Xoài và Phước Long, tuy lúc đầu Phước Long chưa được đặt ra. Trao đổi không phải đi đến kết luận đánh hay không đánh mà là mục tiêu nào đánh trước, mục tiêu nào đánh sau và đánh bằng lực lượng nào. Cho đến những ngày cuối năm 1974 này, có lẽ nỗi băn khoăn lo lắng lớn nhất của chúng tôi vẫn là vấn đề đạn, kể cả đạn pháo của tăng, đạn pháo mặt đất cỡ lớn, Trong một bức điện gửi về Bộ, trung tuần tháng 8 năm 1974, anh Trà đã "báo động" về tình hình đạn lớn của B2. Anh dự kiến: "Đến cuối năm, trong các đơn vị chủ lực và kho của Miền chỉ còn chừng 4.800 viên đạn cối 120 ly, 1.190 viên đạn cối 160, 6.500 viên đạn lựu pháo 122 ly, 300 viên đạn lựu pháo 105, 7.800 viên dạn pháo 130 ly". Cuối bức điện, anh Trà viết: "Bước vào năm 1975, các loại đạn lớn nói trên sẽ khó khăn. Đề nghị Bộ chl đạo cố gắng đẩy sớm một số đạn lớn vào đầu mùa khô cho B2". So với B2 thì tình hình đạn lớn của B1(5) còn thiếu thốn hơn nhiều. Khoảng đầu tháng 9, trong một bức điện gửi về Bộ, anh Phát, Phó tham mưu trưởng Quân khu 5, dự kiến cuối năm 1974, đạn lớn của B1 chỉ còn 1.100 viên đạn cối 120 ly; 80 viên đạn cối 160 ly; 1.000 viên đạn pháo 85 ly; 4.500 viên đạn pháo 130; 469 viên đạn lựu pháo 122 ly. Tình hình các chiến trường khác cũng tương tự như vậy. Riêng ở Thượng Đức, khi ta đã đánh chiếm quận lỵ, chiến trường điện ra cho biết: Sau hơn một tháng hoạt động, lực lượng ta giảm sút. "Đạn thiếu, đạn pháo cơ giới, đạn ĐKZ chỉ đủ đánh một đợt với mật độ thấp". Trong bối cảnh đó, các đồng chí B2 chủ trương đánh Đồng Xoài trước, còn chúng tôi trong Bộ Tổng Tham mưu chủ trương đánh Bù Đăng - Bù Na (quá lên phía bắc trên đường 14) trước. Lý do đơn giản: Đánh Bù Đăng, Bù Na trước vì đây là những mục tiêu nhỏ (chi khu), bảo đảm chắc thắng, lại có khả năng thu được đạn và pháo chiến lợi phẩm để đánh Đồng Xoài. Sau chiến thắng Bù Đăng, Vĩnh Thiện, Bù Na, ta thu bốn khẩu pháo 105 và 7.000 viên đạn. Ta tiếp tục phát triển tiến công Đồng Xoài, và như điện ngày 27-12-1974 của anh Lê Đức Anh, Phó Tư lệnh Miền cho biết, ngày 26 quân ta tiêu diệt cụm cứ điểm Đồng Xoài không dùng xe tăng, mặc dù ta có một đại đội xe tăng làm lực lượng dự bị. Có đạn chiến lợi phẩm lấy được ở Bù Na, Bù Đăng và Đồng Xoài rồi, Bộ Tổng Tham mưu nhất trí phát triển lên tiến công Phước Long và trong một cuộc gặp riêng, anh Ba và các anh trong Quân uỷ đã đồng ý để các đồng chí B2 được dùng một đại đội pháo 130 mi-li-mét vào trận Phước Long. Và hôm nay ngày 6-1-1975, trải qua 26 ngày chiến đấu liên tục, tin chiến thắng của bộ đội miền Đông Nam Bộ trong chiến dịch Đường 14 - Phước Long đã bay vào phòng họp của Bộ Chính trị và Quân uỷ, báo hiệu một mùa khô đầy triển vọng. Địch phản ứng thế nào? Tin cho biết: Trước đó ba ngày, Thiệu triệu tập cuộc họp đặc biệt của nội các, để đánh giá tình hình. Hắn ra lệnh treo thưởng 3,2 triệu đồng cho quân lính tử thủ Phước Long. Đến khi số phận của hơn 6.000 quân ở vị trí quan trọng này được định đoạt, báo chí Sài Gòn cố thổi phồng tin tàu sân bay In-tơ-prai-dơ, tàu tuần dương Long-bít cùng nhiều tàu khu trục, tàu chở dầu của Mỹ rời cảng Su-bích (Phi-líp-pin) chạy về phía bờ biển Việt Nam, và tin sư đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ số 3 trên đất Nhật được lệnh báo động. Nhưng rồi chính quyền Sài Gòn thất vọng, khi người phát ngôn của Nhà Trắng nói rằng: "Tổng thống Pho không có ý vi phạm những điều cấm chỉ (của quốc hội) về việc sử dụng lực lượng quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam". Lời hô hào của Thiệu "kiên quyết lấy lại Phước Long đã sớm được thay bằng lời kêu gọi "dành ba ngày truy điệu, cầu nguyện cho Phước Long". Tại đồng bằng sông Cửu Long, tình hình sớm có những chuyển biến quan trọng. Vùng nông thôn giải phóng và làm chủ với nhiều mức độ khác nhau ngày càng mở rộng, hành lang được nối liền địa bàn tiến công được vững chắc, tiềm lực tại chỗ của ta phát triển, dự trữ của địch càng thêm hạn chế. Chiều ngày 6 tháng 1, sau giờ nghí của hội nghị, chúng tôi cùng các đồng chí cục trưởng Tác chiến, Tình báo và Tổ trung tâm trao đổi ý kiến vễ diễn biến đợt 1 mùa khô 1974-1975 và riêng chiến thắng Phước Long. Chúng tôi mau chóng đi đến nhất trí mấy điểm sau đây: 1. Chiến trường chuyển biến thuận lợi, với tốc độ phát triển nhanh hơn dự kiến, nhất là chiến trường Khu 5, miền Đông Nam Bộ. 2. Chiến thắng Phước Long là một sự kiện mới, đánh dấu một bước trưởng thành về trình độ tầc chiến của ta, khẳng định sự suy sụp của quân nguỵ và khả năng phản ứng đã rất hạn chế của đế quốc Mỹ. Những suy nghĩ về sự can thiệp ngày càng hạn chế của Mỹ đã có thêm cơ sở để kết luận, khẳng định. 3. Chủ trương chiến lược và kế hoạch tác chiến chiến lược của ta vẫn được bảo đảm bí mật. Do tinh thần trách nhiệm của anh chị em thông tin, cơ yếu, lại do hoạt động nghi binh chiến lược của ta, địch đã phán đoán sai và đánh giá không đúng về ta, cả về mục tiêu chiến lược, hướng tới tiến công chủ yếu, thời gian mở đầu tiến công, quy mô tác chiến và trình độ của bộ đội chủ lực ta. 4. Chiến thắng Phước Long là một nhân tố mới cho phép nhìn xa về triển vọng thực hiện kế hoạch tác chiến chiến lược. Sang đợt hai ta có khả năng giải phóng từng khu vực rộng lớn hơn. Do đó một vấn đề đặt ra đối với Bộ Tổng Tham mưu là nghiên cứu đề nghị bổ sung, điều chỉnh mục tiêu các bước tiếp theo của kế hoạch tác chiến cho phù hợp với tình hình mới, phù hợp với tư tưởng chỉ đạo của Bộ Chính trị là giành thắng lợi lớn hơn, nhanh hơn. 5. Điều băn khoăn lo lắng chung, trực tiếp của cơ quan tham mưu và hậu cần bấy lâu nay về vấn đề thiếu đạn lớn, đến nay đã bước đầu được giải quyết. Kho đạn đại bác trên một vạn viên thu được ở Phước Long là cái vốn tích luỹ đầu tiên, từ đó có thể nhân lên gấp nhiều lần. Chúng ta sẽ chiếm kho Mai Hắc Đế ở Buôn Ma Thuột, chiếm lại căn cứ liên hợp quân sự Đà Nẵng, tổng kho Long Bình. Thắng càng lớn, đạn pháo càng nhiều, tham mưu và hậu cần càng yên tâm. Một lần nữa, phương châm "lấy của địch đánh địch, vừa đánh vừa võ trang" do Đảng đề ra trước đây, ngày nay một lần nữa lại được quân và dân ta biến thành hiện thực trên chiến trường. Những chiến sĩ dũng cảm, mưu trí ở phía trước đã khắc phục được một khó khăn lớn mà các cơ quan lược ở phía sau chưa có điều kiện giải quyết. Chúng tôi đã tổng hợp những nhận định trên đây và hôm sau trình bày những ý kiến đó tại cuộc hợp của Bộ Chính trị. Trải qua 20 ngày làm việc rất khẩn trương, sôi nổi, phấn khởi trong không khí chiến thắng mới, mọi vấn đề thảo luận đã sáng tỏ với sự nhất trí rất cao. Ngày 7-1-1975, anh Ba kết luận đợt hai hội nghị Bộ Chính trị. Lần này tôi thấy anh vui hơn thường lệ. Mở đấu bản kết luận, anh nói: "Trong cuộc họp lần trước, Bộ Chính trị đã nhất trí về phương hướng chiến lược nhằm đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ đến toàn thắng. Lần này Bộ Chính trị thảo luận thêm với các đồng chí miền Nam. Các đồng chí phụ trách chủ yếu của các chiến trường Khu 5, Nam Bộ đều có mặt đông đủ. Tất cả chúng ta đều nhất trí hoàn toàn về các mặt: đánh giá tình hình sau Hiệp định Paris, đánh giá lực lượng so sánh giữa ta và địch, nhận định thời cơ lịch sử, khẳng định quyết tâm chiến lược hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam trong hai năm 1975, 1976, xác định nhiệm vụ, mục tiêu và các bước thực hiện, Bản kết luận của tôi trong lần hỏp trước đã đề cập các vấn đề quan trọng ấy. Hôm nay, tôi không nhắc lại tất cả mà chỉ tóm tắt các vấn đề các đồng chí đã phát biểu và nói thêm một số ý kiến để khẳng định một lấn nữa quyết tâm của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương". Sau khi nhắc lại những nhân tố thắng lợi và những khả năng mới do Hiệp định Paris đem lại, anh Ba phân tích thế mạnh mới mà ta đã tạo ra trên nhiều mặt: quyền chủ động trên chiến trường; thế chiến lược liên hoàn từ Bắc vào Nam được củng cố và hoàn chỉnh; các binh đoàn chủ lực cơ động đã xây dựng và tăng cường; nguồn dự trữ chiến lược tập trung trên những địa bàn quan trọng; tình hình nông thôn đồng bằng được cải thiện, tạo nên các bàn đạp ở vùng phụ cận thành thị lớn; đặc biệt đồng bằng Nam Bộ đã xây dựng được một số đơn vị lớn quân chủ lực, điều mà xưa nay chưa làm được; phong trào đấu tranh chính trị được phát động dưới khẩu hiệu hoà bình độc lập, hoà hợp dân tộc; ta tiếp tục tranh thủ thêm được sự đồng tình, ủng hộ mạnh mẽ của các lực lượng cách mạng và nhân dân tiến bộ trên thế giới. Chúng ta còn một số nhược điểm: xây dựng bộ đội chủ lực và bộ đội địa phượng chưa đạt yêu cầu về số lượng, chất lượng, trang bị, tổ chức, cán bộ, nhất là trình độ tác chiến hiệp đồng quy mô lớn và dài ngày. Ở nông thôn, chưa kết hợp thật chặt chẽ ba mũi giáp công; bộ đội địa phương, dân quân du kích ở nhiều nơi còn yếu chưa tạo được thế cho quần chúng đấu tranh. Ở thành thị, đấu tranh chính trị chưa trở thành phong trào quần chúng thật sâu rộng. Tóm lại, trong hai năm qua do khuyết điểm về chỉ đạo chỉ huy nên việc tận dụng những nhân tố thắng lợi và những khả năng môi còn bị hạn chế. Về phía địch, chúng cũng có những chỗ mạnh nhất định như: quân nguỵ còn gần 70 vạn tên, có 13 sư đoàn chủ lực; địch còn kiểm soát hầu hết các thành thị lớn; còn nắm được những vùng nông thôn đông dân, nhiều của; còn được Mỹ viện trợ về quân sự, kinh tế; còn cố vấn Mỹ chỉ huy. Tuy vậy, thế của địch ngày càng yếu lực của chúng ngày càng suy. Tình trạng đó biểu hiện ở các mặt: quân nguỵ từ chủ lực tới địa phương như bảo an, dân vệ sức kìm kẹp đã giảm; trình độ hiệp đồng của các binh chủng quân nguỵ thấp và yếu, vì lực lượng, trang bị giảm sút; tinh thần quân nguỵ sa sút thêm một bước nghiêm trọng; vùng địch tạm chiếm bị chia cắt, kế hoạch "bình định" đang bị phá sản; tình hình chính trị, kinh tế đặc biệt là ở thành thị chưa lúc nào khó khăn, rối loạn như hiện nay. Trước tình hình quân sự, chính trị, kinh tế đó, Nguyễn Văn Thiệu khó bề đứng vững. Trải qua bao nhiêu năm đấu tranh gay go, gian khổ, miền Nam nói rỉêng, cách mạng Việt Nam nói chung, mới tạo được chuyển biến quan trọng nói trên về lực lượng so sánh. Chưn bao giờ hai mặt đấu tranh quân sự, chính trị có điều kiện thuận lợi, có khả năng kết lại thành cao trào tiến công như hiện nay. Tình hình hiện nay khác trước rất nhiều. Mỹ đã thua liên tiếp và phải rút quân về; nguỵ quân và nguỵ quyền không còn chỗ dựa như trước. Quân đội ta sung sức, có mặt khắp miền Nam. Quần chúng nhân dân trong vùng địch đòi hỏi vùng dậy và có khí thế mới. Năm 1974, trong khi thế và lực của ta lớn lên nhanh thì địch càng xuống dốc cả về quân sự, chính trị, kinh tế. Ta tiến công mạnh và nhất định sẽ tạo ra những đột biến mới trong quá trình xuống dốc đó của địch. Căn cứ vào sự đánh giá trong cả hai lần họp, chúng ta thấy chính xác hơn thời cơ lịch sử và khả năng thực tế để quyết chiến những trận cuối cùng, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn. Chúng ta đều nhất trí phải gấp rút chuẩn bị mọi mặt để kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh cứu nước trong năm 1975 hoặc năm 1976. Nhiệm vụ sắp tới của chúng ta là nắm vững thời cơ lịch sử, mở nhiều chiến dịch tổng hợp liên tiếp đánh những trận quyết định, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc. Hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thì tất yếu sẽ đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong khi thực hiện nhiệm vụ này, chúng ta sẽ cùng với và giúp đỡ hai nước Lào, Campuchia anh em tiến lên. Để thực hiện quyết tâm nói trên, phải phấn đấu thực hiện những nhiệm vụ cụ thể, đạt được những yêu cầu sau đây: thực hiện tiến công và nổi dậy trên quy mô lớn, tiêu diệt chi khu, quận lỵ đánh bại kế hoạch "bình định", giành phần lớn nông thôn ở đồng bằng Nam Bộ, đồng bằng Khu 5 và Trị Thiên; mở những chiến dịch hiệp đồng binh chủng của bộ đội chủ lực ta, bẻ gãy xương sống quân nguỵ; kết hợp với đòn tiến công vào chủ lực nguỵ và đòn đánh phá "đình định" nông thôn, uy hiếp thành thị lớn, nhất là Sài Gòn, phát triển phong trào đấu tranh chính trị lên quy mô rộng lớn đòi hỏi hoà bình, hoà hợp dân tộc; đẩy mạnh công tác binh vận; phá huỷ các cơ sở hậu cần và phương tiện chiến tranh của địch. Phải nắm vững cái đích là tạo ra sức mạnh tổng hợp, tiến tới tổng tiến công và nổi dậy, thắng địch tại sào huyệt quan trọng nhất của chúng là Sài Gòn, để kết thúc chiến tranh. Đánh trận cuối cùng này, trước hết là nhiệm vụ của các lực lượng quân sự, chính trị trên chiến trường Nam Bộ, trong đó có lực lượng của Sài Gòn - Gia Định, đồng thời là nhiệm vụ của quân và dân cả nước, trong đó khối chủ lực Miền và các binh đoàn chủ lực từ các chiến trường khác đến, đóng vai trò quyết định. Anh Ba nhắc lại kế hoạch hoạt động năm 1975, nhiệm vụ của từng chiến trường, đồng thời hướng mọi hoạt động của tất cả các chiến trường vào cái đích chung tiến tới trận quyết chiến chiến lược tại sào huyệt cuối cùng của địch bằng con đường nhanh nhất. Sau khi nói về nhiệm vụ cụ thể của các chiến trường Nam Bộ, Khu 5, Tây Nguyên, Trị Thiên, anh Ba nêu lên cần phải có kế hoạch chuẩn bị ở miền Nam cũng như ở miền Bắc, nhằm đối phó với Mỹ có thể dùng không quân, hải quân đánh phá trở lại. Khả năng Mỹ quay lại can thiệp vào chiến tranh Việt Nam không nhiều. Nhưng dù khả năng đó chỉ năm, bảy phần trăm, chúng ta cũng phải đề phòng vì Mỹ còn có mưu đồ duy trì chủ nghĩa thực dân mới. Tiếp đó, anh nói về nhiệm vụ hậu phương lớn miền Bắc: "Ở ngoài này, Trung ương Đảng và Chính phủ sẽ làm hết sức mình để tăng cường lực lượng, bảo đảm đầy đủ về nhu cầu vật chất, kỹ thuật cho chiến trường, coi đó là điều kiện cơ bản để giành thắng lợi. Điều quan trọng cấp bách nữa là chuẩn bị sẵn lực lượng dự bị chiến lược; tuyển cho được 80 vạn tân binh, đẩy nhanh việc huấn luyện bộ đội, nắm chắc khâu đào tạo cán bộ. Làm tốt công tác chính trị tư tưởng trong quân đội, trong nhân dân, động viên toàn quân, toàn dân nêu cao ý chí "tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng". Sử dụng khôn khéo vũ khí đấu tranh ngoại giao". Đi vào phần cuối của bản kết luận, anh Ba rất phấn khởi về sự nhất trí hoàn toàn của hội nghị trên tất cả các vấn đề. Anh nói, sau hội nghị này còn nhiều việc phải làm rất khẩn trương - ở tiền tuyến, ở hậu phương. Anh chỉ rõ: "Bộ Tổng Tham mưu cần tiếp tục hoàn chỉnh kế hoạch tiến công đã được vạch ra, cụ thể hoá hơn nữa các vấn đề về tổ chức thực hiện, xây dựng lực lượng, bố trí chiến trường, bảo đảm hậu cần. Bộ Tổng Tham mưu là cơ quân có trách nhiệm rất quan trọng trong việc triển khai thực hiện quyết định có ý nghĩa lịch sử này của Bộ Chính trị". Cuối cùng, anh nhấn mạnh: "Trận quyết chiến chiến lược này là một sự nghiệp trọng đại. Nó sẽ đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đến thắng lợi hoàn toàn, góp phần làm thay đổi cục diện ở Đông Dương, Đông Nam Á, mở ra một bước phát triển mới trong phong trào cách mạng của nhân dân thế giới. Đảng ta quyết làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang đối với dân tộc và nghĩa vụ quốc tế cao cả. Trước mắt chúng ta còn nhiều khó khăn gian khổ, nhưng phát huy truyền thống chiến đấu anh hùng, sức sáng tạo vô tận của quân đội và nhân dân ta, chúng ta nhất định sẽ vượt qua tất cả. Chúng ta nhất định đánh thắng!". Ngay sau khi hội nghị kết thúc, một trong những việc đầu tiên mà Bộ Tổng Tham mưu tập trung giải quyết là hoàn chinh bản kế hoạch tác chiến chiến lược 1975, trong đó, vấn đề được quan tâm nhất là hướng tiến công chiến lược sắp tới. Nhớ lại khi kết luận hội nghị, anh Ba đã nói về vấn đề này khá rõ ràng: - Trền chiến trường Khu 5, Tây Nguyên: Dùng 3 sư đoàn chủ lực đánh Tây Nguyên, mở thông hành lang nối liền Nam Tây Nguyên với Đông Nam Bộ, tạo điều kiện để bộ đội chủ lực cơ động nhanh vào miền Đông, phối hợp với quân chủ lực Miền để tiến đánh Sài Gòn. Mở trận đầu đánh chiếm Buôn Ma Thuột, chọc thẳng xuống Tuy Hoà, Phú Yên, cắt đồng bằng Khu 5 ra làm đôi, tạo thêm một hướng nữa để tiến nhanh vào phía nam, vây ép Sài Gòn. Nghe anh Ba nói, tôi nhớ lại hồi tháng 7 năm trước. Khi làm việc với anh ở Đồ Sơn, địa bàn Nam Tây Nguyên đã từng được nói đến. Vài tháng sau, anh Tấn (hồi đó là Phó Tổng Tham mưu trưởng, kiêm Hiệu trưởng Trường bổ túc quân sự cao cấp) đã từng ra bài cho học viên tìm ra đáp án: Nếu chọn Tây Nguyên làm hướng tiến công chiến lược chủ yếu thì mục tiêu đầu tiên là ở đâu? Được biết, trừ một vài ý kiến chọn Công Tum hay Đức Lập, đa số học viên đề nghị chọn Buôn Ma Thuột. Không một ý kiến nào đế nghị đánh vỗ mặt vào Bắc Tây Nguyên mà đều chọn hướng nam, đánh vào hướng Buôn Ma Thuột. Trong cuộc họp cán bộ chủ trì trong Bộ Tổng Tham mưu để phổ biến quyết tâm chiến lược và kế hoạch chiến lược đã được Bộ Chính trị chính thức thông qua, nghe chúng tôi nói lại khi kết luận hội nghị, anh Ba gợi ý chọn Nam Tây Nguyên, cụ thể là Buôn Ma Thuột, anh em trong bộ phận nghiên cứu kế hoạch rất phấn khởi vì ý kiến của lãnh đạo trùng hợp với dự kiến đề đạt của mình. Thế là trên dưới đã nhất trí chọn Buôn Ma Thuột làm mục tiêu tiến công đầu tiên. Cùng với chỉ đạo điều chỉnh kế hoạch tác chiến năm 1975, chúng tôi cùng anh em Cục Tình báo bàn phương hướng trọng tâm nắm địch. Khả năng đối phó của nguỵ trong đợt hai trên chiến trường trọng điểm Tây Nguyên như thế nào? Động tĩnh của Mỹ, khả năng chúng có thể dùng hải quân, không quân can thiệp tới mức nào, để quân nguỵ có thể kéo dài khả năng chống đỡ, khi ta đánh lớn? Đồng chí Phan Hàm, Phó cục trưởng Cục Tác chiến, cùng các đồng chí chủ trì Cục Quân lực đã hiệp đồng với Tổng cục Hậu cần và làm việc thêm với các bộ, các ngành của cơ quan Nhà nước cùng nhau tính toán lại khả năng, bổ sung kế hoạch chuẩn bị lực lượng trang bị kỹ thuật, sẵn sàng dốc sức để chiến trường giành thắng lợi lớn hơn trong đợt hai này. Một trong những điều sâu sắc đối với tôi trong những ngày triển khai nghị quyết Bộ Chính trị lần này là Quân uỷ Trung ương đã rất coi trọng công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng và tổ chức, đặc biệt là trong các đơn vị chủ lực. Tôi còn nhớ, trong cuộc họp ngày 9-1-1975, nhằm bàn công tác chỉ đạo cụ thể đợt hai mùa khô 1974-1975, trước hết là chỉ đạo chiến dịch Tây Nguyên - mở màn bằng trận Buôn Ma Thuột, Thường trực Quân uỷ đã nhấn mạnh mấy điểm sau đây về công tác chính trị tư tưởng: 1. Xây dựng quyết tâm vượt mọi khó khăn chiến đấu liên tục, không ngại hy sinh gian khổ, quyết thi đua giành thắng lợi lớn nhất, chống mọi biểu hiện chủ quan, thoả mãn, dừng lại. 2. Nắm vững tư tưởng đánh tiêu diệt, đánh nhanh, diệt gọn, đồng thời coi trọng đẩy mạnh công tác binh vận, làm tan rã hàng ngũ địch. 3. Đề cao tinh thần đoàn kết hiệp đồng giữa các đơn vị, các binh chủng, các hướng; sẵn sàng nhận khó khăn về mình, tạo thuận cho bạn bè để cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ chung. 4. Tôn trọng kỷ luật chiến trường, tự giác nghiêm chỉnh chấp hành chính sách vùng giải phóng, chính sách tù hàng binh, chính sách chiến lợi phẩm. 5. Coi trọng việc bồi dưỡng cán bộ ngay trong thực tế chiến đấu, sẵn sàng đội ngũ cán bộ nhất là cán bộ cơ sở, để bảo đảm chỉ đạo, chỉ huy chiến đấu liên tục và bổ sung phát triển lực lượng mới. Tiếp theo hội nghị Bộ Chính trị và hội nghị ngày 9-1-1975 của Thường trực Quân uỷ Trung ương, mọi hoạt động của các cơ quan Bộ Quốc phòng đều hướng vào chính Tây Nguyên, hướng vào Buôn Ma Thuột. Thực tế đã chứng minh sức mạnh phi thường và sức sáng tạo vô tận của quần chúng trên tiền tuyến lớn đã thúc đẩy tiến trình lịch sừ phát triển nhanh hơn tất cả những dự kiến táo bạo nhất. Qua từng bước thể nghiệm trên chiến trường, kế hoạch chiến lược đã không ngừng được bổ sung hoàn chỉnh, đặc biệt là trong cuộc đấu trí tháng 3 năm 1975 sắp tới. Chú thích: (1) Gồm những tỉnh: Cần Thơ, Rạch Giá, Sóc Trăng, Cà Mau. (2) Anh Ba dùng chữ armée flèche để diễn đạt ý này. (3) Tổ trung tâm gồm một số cán bộ Cục Tác chiến và các binh chủng, quân chủng, Viện khoa học quân sự, được thành lập đầu năm 1974 để giúp viêc nghiên cứu kế hoạch chiến lược. (4) Theo phân chia chiến trường của nguỵ, quân khu 1 (tức vùng l chiến thuật gồm các tỉnh từ Quảng Trị đến Quảng Ngăi; quân khu 2 (tức vùng 2 chiến thuật gổm các tỉnh từ Bình Định đến Khánh Hoà, Bình Thuận và vùng Tây Nguyên; quân khu 3 (tức vùng 3 chiến thuật" gồm các tỉnh miền Đông Nam Bộ; Quân khu 4 (tức vùng 4 chiến thuật gổm các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long; Sài Gởn và vùng ven được địch tổ chức thành biệt khu Thủ đô. (5) Khu 5.