Tinh sương 12-11-1969, gió lạnh phương Bắc thổi mạnh. So với gió buốt thiên nhiên thì băng tuyết chính trị càng ghê gớm hơn nhiều. Chính vào thời điểm tinh sương lạnh giá cắt da, cắt thịt này, tại thành cổ Khai Phong. Lưu Thiếu Kỳ Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa vĩnh biệt thế giới này một cách âm thầm.
Lưu Thiếu Kỳ từng là thống soái trận tuyến cách mạng đấu trí, đấu dũng trong thời kỳ lãnh đạo ở khu trắng; Người đã từng chỉ huy Tân tứ quân với hàng nghìn vạn binh mã ở Giang Nam, nhà chính trị đã từng lập nên "Tư tưởng Mao Trạch Đông" ở Diên An, từng có công lao to lớn, đổ xương, máu thành lập và cải tạo xây dựng Nhà nước Cộng hoà nhân dân, bị khoác lên mình chuỗi tội danh đáng sợ "Đồ phản bội, nội gián. Kẻ thù giai cấp công nhân", trở thành oan hồn của cuộc đấu tranh chính trị.
Đây là vụ án oan lớn nhất của Nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa.
Năm 1966, "Đại cách mạng văn hoá" rầm rộ mở ra. Lưu Thiếu Kỳ chủ trì Hội nghị mở rộng thường vụ Bộ Chính trị Trung ương. Ngày 3 tháng 6 đồng ý với ý kiến của Thị uỷ Bắc Kinh, thành lập ra các tổ công tác ở một số trường đại học và trung học chuyên nghiệp ở Bắc Kinh.
Sau khi công bố "16 điều qui kết", đã có nhiều người nằm trong danh sách mà tổ công tác đã chĩa mũi dùi vào phê phán, họ bị qui là theo "đường lối giai cấp tư sản". Những người chịu sức ép của tổ công tác bị nhiều kích động. "Lợi dụng lực lượng chống lại tổ công tác để chống Lưu Thiếu Kỳ là một bước quan trọng của "Đại cách mạng văn hoá".
Nếu như quần chúng nhân dân đều dồn hết tinh lực đấu tranh với "Phần tử nhóm đen", thì có thể dựa vào tổ công tác như sợi dây "leo này để lần ra "quả dưa" Lưu Thiếu Kỳ.
Ngày 18-8-1966, Mao Trạch Đông tiếp Đại hội Hồng vệ binh, đã phát biểu về sự "hạ cánh địa vị" của Lưu Thiếu Kỳ, xem như là một tín hiệu "đèn đỏ". Ngày 19-8, trong vườn trường Đại học Thanh Hoa, xuất hiện báo chữ to "Vương Quang Mỹ là tay đầu tiên phải đập nát trong vườn Thanh Hoa", để đập tan lệnh của ai đó cấm dán báo chữ to công kích Vương Quang Mỹ. Tiếp đó lại xuất hiện báo chữ to "Ba điều hỏi Vương Quang Mỹ" và bài viết của Lưu Đào con gái Lưu Thiếu Kỳ "Thề chết theo Mao Chủ tịch trọn đời làm cách mạng". Tuy tất cả các báo này đều chĩa mũi dùi vào Vương Quang Mỹ nhưng, hình như không có ai là không xem nó có liên quan tới Lưu Thiếu Kỳ.
Ngày 2 1 tháng 8, kỳ 11 tạp chí "Hồng Kỳ" đăng xã luận: "Tiến bước thắng lợi trên con đường tư tưởng Mao Trạch Đông chỉ rõ tiêu chuẩn chính trị của "Đại cách mạng văn hoá", xã luận viết: "Bất cứ ai, không kể họ có chức vụ rất cao, tư cách dày dặn, danh vọng lớn nhất, chỉ cần họ không làm việc theo tư tưởng Mao Trạch Đông, chống lại tư tưởng Mao Trạch Đông sẽ kiên quyết bị đè bẹp, sẽ đấu tranh kiên quyết với họ, cho đến lúc bãi chức quan của họ, miễn chức vụ của họ". Nếu có người tỉ mỉ phân tích nội dung nói trên một chút, thì sẽ rất rõ: "Chức vụ cao nhất, tư cách dày dặn nhất, "danh vọng lớn nhất" của "con người nào đó" không phải là Lưu Thiếu kỳ sao? Còn mục đích mà "Đại Cách mạng văn hoá" mong đạt được chính là "Cần kiên quyết đấu tranh đến khi bãi chức quan của ông, miễn chức vụ của ông" là gì.
Ngày 22-8, trong vườn Thanh Hoa xuất hiện báo chữ to với tít bài: "Lời phát biểu ngày 29-7 của đồng chí Lưu Thiếu Kỳ là chống lại tư tưởng Mao Trạch Đông" để công khai khiêu chiến với Lưu Thiếu Kỳ.
Sau khi Tân Hoa xã công bố Bí thư thứ nhất Thành uỷ Thiên Tân Vạn Hiểu Đường chết, Mao Trạch Đông đã chỉ ra: "Trên thực tế, đây là thị uy Đảng, dùng cái chết để doạ người sống".
Ngày 1-10, trong ngày hội lớn của quần chúng nhân dân mừng quốc khánh lần thứ 16, Lâm Bưu phát biểu chỉ rõ "Trong Đại cách mạng văn hoá của giai cấp vô sản, còn phải tiếp tục cuộc đấu tranh giữa đường lối cách mạng của giai cấp vô sản lấy Mao Chủ tịch làm đại biểu, với đường lối phản động của giai cấp tư sản".
Rất nhanh sau đó, các biểu ngữ giăng đầy phố phường ngõ xóm Bắc Kinh: "Đả đảo Lưu Thiếu Kỳ"; "Lưu Thiếu Kỳ nhất thiết phải cúi đầu nhận tội trước nhân dân cả nước" và biểu ngữ này còn dán cả trên thành lầu Thiên An Môn. Điều đó khiến cho ta hiểu Lưu Thiếu Kỳ - Chủ tịch Nhà nước bị lung lay trong lòng quần chúng.
Ngày 31- 1-1967 "
Nhân dân Nhật báo" và các báo xuất bản ở Thủ đô đăng một trong ba bài phê bình của Diêu Văn Nguyên: "Phê bình 2 phái phản cách mạng Chu Dương". Khi bài phê bình Chu Dương sắp đăng lên, Diêu Văn Nguyên còn "căn cứ tình hình cần kíp" bổ sung đoạn chú thích dài cuối bài. Câu cuối phần chú thích dài đưa ra: "Lời kêu gọi chiến đấu" mới: "Trong số "nhân vật lớn" cổ vũ "Thanh cung bí sử", gồm cả những người đưa ra đường lối phản động giai cấp tư sản trong cuộc cách mạng văn hoá của giai cấp vô sản hiện nay, thế giới quan giai cấp tư sản phản động của họ chống lại tư tưởng Mao Trạch Đông, họ bảo vệ giai cấp bóc lột, căm thù bản chất quần chúng vận động cách mạng, ngay từ thời kỳ đầu xây dựng đất nước họ đã thể hiện ra việc thổi phồng "Thanh cung bí sử", không cần nói gì thêm, người mà Diêu Văn Nguyên muốn nói ở đây là "Lưu Thiếu Kỳ".
Đây là lần đầu trên báo chí có chút công khai công kích Lưu Thiếu Kỳ. Lúc này, Lưu Thiếu Kỳ đang là Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, thường vụ Bộ Chính trị Trung ương Đảng.
Trong mớ thanh âm đánh đổ Lưu Thiếu Kỳ, Giang Thanh xuất ngựa, đến vườn Thanh Hoa. Đó là cuối năm 1966, Giang Thanh phát biểu mang tính kích động:
9. Hồn oan phách lạc. Ngậm máu hôi tanh
10. "Hoa dã bách hợp" lụi tàn
11. Người chân chính trở thành Hán gian
12. Vì "Sách 30 vạn chữ" bị tội 25 năm
13. Thiếu tướng phê
14. Hoạn nạn cho những tấm lòng ngay thẳng và tiên phong
15. Phê sai một người, dân số tăng lên mấy trăm triệu
16. Bành dại tướng quân hết cách
17. Hoạ từ Thôn ba nhà
18. Từ Nhân vật số 4" trở thành phái Bảo hoàng.
19. Đại náo Hoài nhân đường
20. Kẻ phản quốc yêu nước
21. Lưu Thiếu Kỳ - Chủ tịch nước chết oan
22. Hiệp thứ 5.
23. Bi kịch cứu thời tể tướng
24. Lâm nạn vì bản Xuất thân luận
25. Nỗi oan theo xuống suối vàng.
26. Ai đáng là người nhận tội.
27. Nhìn trước được cái chết.
---~~~mucluc~~~--- ---~~~cungtacgia~~~--- !!!8220_20.htm!!! nặng về kỹ xảo phức tạp của biểu diễn đàn vi-ô-lon. Chúng ta ngạc nhiên là, Mã Tư Thông cuối cùng là vì sự nghiệp xây dựng đại tiến vọt của chủ nghĩa xã hội phục vụ hay là khoe khoang kỹ năng của ông trước đông đảo người nghe?"
"Trong tiết mục của Mã Tư Thông, còn có bản nhạc của mình "Tư hương khúc"đã là giai điệu cũ của hơn 20 năm rồi. Ta không thể nói rằng nó không có ý nghĩa hiện thực. Nhưng nhân dân trong cuộc đại tiến vọt của chúng ta quyết không mãi mãi đắm chìm vào hồi ức đổ nát.
"Mục ca là bài ca du mục thể hiện vẻ đẹp tự nhiên. Nhưng cái thần tình phiêu diêu an tường này là không tương xứng với bước đi hào hùng của uông dân trong công xã, vởi mùa màng tốt tươi trên mọi cánh đồng khàp thế giới".
"Nghe tác phẩm Nhạc thơ Tây Tạng của Mã Tư Thông, trong đầu chúng ta dân ca Tây Tạng khỏe khoắn và tươi tắn sẽ không còn hoà nhập được nhau, cho dù tác giả đã rất cố gắng xử dụng dân ca Tây Tạng. Theo mọi người nghĩ thì, Mã Tư Thông đã làm méo mó, xấu xí diện mạo Tây Tạng. Hy vọng Mã Tư Thông trong phê phán tư tướng học thuật của giai cấp tư sản hôm nay mà tự phê phán…".
Trong "Đại cách mạng văn hoá", khắp nơi là tiếng gào thét, hô hào không ngừng; khắp nơi là "Ngôn to ngữ lớn" của ác quỷ kinh thiên động địa và tếng loa ầm ĩ điếc tai. Cái âm thanh nghệ thuật được kết tinh chắt chiu từ sinh mạng và mềm tin, từ tinh lực dồi dào và tình cảm bốc lửa mà Mã Tư Thông đã hiểu một cách chân chính và vì nghệ thuật mà đã không ngừng chịu khổ vươn tới phải chịu lép vế trong cái mớ âm thanh hỗn độn của những người mà, nửa nốt nhạc không biết! Bài viết ngàn chữ đã chụp cái mũ "tư tưởng học thuật giai cấp tư sản lên sáng tác nghệ thuật của Mã Tư Thông. Âm nhạc tao nhã, mềm mại, mà mạnh mẽ có sức sống của Mã Tư Thông luôn vấp phải đòn đả kích phê phán không ngừng.
Đợt "Chỉnh phong văn hoá nghệ thuật" xuất hiện, Mã Tư Thông đành chia tay với cây đàn, từ sáng đến tối chỉ làm bạn với các cuộc Hội nghị phê phán, chỉnh phong.
Báo chữ to la liệt khắp nơi, biểu ngữ rực rỡ chói loá mắt, truyền đơn như bươm bướm đầy trời, loa phóng thanh ầm ĩ phục vụ đại hội phê phán…
Những lời hô hào gầm thét rùng rợn: Đả đảo Mã Tư Thông, trong số tiên phong đó có em trai của Mã Tư Thông là Hồng vệ binh của Học viện âm nhạc Trung ương, bọn họ liên kết với hàng loạt "Chiến hữu" ở khắp các trường học Bắc Kinh, đi khắp mọi phố phường. Đội ngũ của họ phía trước có chiếc xích lô, có một hình nộm rơm, một tay cầm vĩ cầm còn một tay cầm bản nhạc. Bản nhạc đó là "Tư hương khúc" (Bản nhạc nhớ quê hương).
Hình nộm rơm "Mã Tư Thông" bị một khăn lớn bịt miệng.
Hồng vệ binh, đầu óc đã bốc lửa do không tìm thấy Đại sứ quán Hoa Kỳ (thời gian này là thời kỳ đối địch nghiêm trọng trong quan hệ Trung - Mỹ).
Một bầu lửa không rõ vì sao đã trào ra, và thế là tờ báo đăng lời phát biểu của Mã Tư Thông chuyển trở thành mũi tên chĩa vào sứ quán Hoa Kỳ. Hồng vệ binh "Anh hùng" châm mồi lửa vào hình nộm rơm, Hồng vệ binh nhảy qua tường Đại sứ quán tiến vào phía trong…
Rất nhiều báo đăng ảnh chụp hình nộm Mã Tư Thông bị đốt và ảnh Hồng vệ binh xông vào Đại sứ quán, công hàm bộ ngoại giao nưởc đó gửi về sự kiện "Mã Tư Thông" đã thành điểm nóng nhức nhối thế giới.
Triệu Phong là người đã từng bị nhốt cùng "chuồng trâu" với Mã Tư Thông kể lại rằng: Hồng vệ binh mở Hội nghị đấu tố Trương San, Mã Tư Thông và Triệu Phong. Trương San bị đánh chết ngất, còn Mã Tư Thông bị đánh bằng dây da vừa nặng vừa dày, máu tươi đầy mặt mũi. Công nhân "phái tạo phản" chỉ vào Mã Tư Thông đang ngồi nhổ cỏ trong vườn trường mà rằng: "Mày việc gì phải nhổ nữa? Mày họ Mã là ngựa, mày chỉ có ăn cỏQ" Mã Tư Thông sửng sốt khổ đau cầu xin, nhưng không được, ông bị bắt ép phải ăn cỏ.
Giáo sư Trương San kể lại: Con trai của ông là Trương Học Tài (mới có 14 tuổi) vì Hồng vệ binh đánh vỡ chậu cá vàng của nó vậy là đánh nhau.
Thế là Hồng vệ binh tức tối mở Hội nghị phản kích "báo thù giai cấp", vợ chồng Trương San, Trương Học tài và Mã Tư Thông đều bị đấu.
Hồng vệ binh bắt ông làm các việc nặng nhọc quá sức chịu đựng đối với thể lực của ông. Một Hồng vệ binh dùng bản gỗ cắm đinh đánh vào đầu ông, Mã Tư Thông vốn đã cắt trụi tóc nên máu me đầy đầu, chảy mãi không cầm.
Nỗi khổ đau bị dày vò và oan khuất của Mã Tư Thông là một điển hình của phần tử trí thức Trung Quốc bị chà đạp hành hạ. Đứng trước sự tàn bạo hết tính người như vậy, lòng Mã Tư Thông đau khổ bội phần. Ông luôn muốn chết, nhiều lần tự sát mà không xong.
Là một nhà sáng tác âm nhạc lừng lẫy tiếng tăm, lấy âm nhạc làm hứng thú cuộc đời, Mã Tư Thông làm sao không cảm thấy đau thương và khổ đau? "Cách mạng văn hoá" không chỉ bắt ông ra khỏi phòng đàn và phòng sách tao nhã ấm áp, mà còn khiến ông xa rời tiếng đàn và âm nhạc, sống cuộc sống cuối đời đầy sợ hãi. Hơn nữa người vợ thân yêu của ông cũng vì vậy mà bị đầy đoạ về mặt tinh thần, không dám nói đến cuộc sống đầm ấm và yên tĩnh, không dám nói tới niềm vui cuộc sống gia đình của luân thường. Vợ ông sợ sệt cảnh đời náo loạn, có nhà mà khó về, không nhà để ở, ôm một nỗi sầu muộn xé lòng và tình yêu đằm thắm cùng với nỗi đau thương cảm lẩn trốn khắp nơi.
Bao trùm xung quanh ông không chỉ là roi vot và giày xéo đánh đập, mà điều không thể chịu đựng được là sự giày vò tâm lý sỉ nhục nhân cách. Ông không hiểu vì sao ông đã trở thành "uy quyền âm nhạc phản động của giai cấp tư sản". Trong tháng ngày đen tối khổ đau ấy, sự tuyệt vọng cùng đường ngày càng đến gần với ông.
Vợ chồng Sac-lơ, bạn tốt của ông đã thắt cổ chết. Lần lượt các nhà nghệ thuật lão luyện quen biết của ông đã dùng cái chết để phản đối sự hành hạ vô nhân đạo này. Mã Tư Thông đã đứng trước vực thẳm, nhưng trong lòng chứa chất sự uất ức, mà rên la không được thành tiếng. Khổ đau, khóc không cho nước mắt tuôn trào. Ông đã chuẩn bị kết thúc cuộc đời khổ đau hơn cả cái chết.
Chiều ngày 22 tháng 11 năm 1966, Mã Tư Thông đóng giả một thợ mộc, con gái là Mã Thuỵ Tuyết đóng giả Hồng vệ binh thẳng đến ga xe lửa Tây Trực Môn đợi xe lửa nhưng bị chậm giờ, đến hai giờ sáng hôm sau, xe lửa mới từ Tây Trực Môn chạy xuống phía Nam. Mã Tư Thông bội phần bị giày vò, tạm thời thoát được cuộc sống "làm trâu làm ngựa". Hành lý gói theo là cây vĩ cầm nhỏ, gắn bó cùng ông ngỡ như quá cồng kềnh.
Mãi đến gần tinh sương 25 tháng 11 Mã Tư Thông mới đến được Quảng Châu, cùng ngày theo sự dẫn dắt của con gái Mã Thuỵ Tuyết trốn đến Quảng Đông, trú ở Đan Táo. Từ bấy giờ, Mã Tư Thông lòng buồn tê tái. Ông nghĩ rằng, Hồng vệ binh của Học viện âm nhạc Trung ương sẽ báo với công an, cho dù họ không còn biết Mã Tư Thông trốn ở nơi nào. Đến Đan Táo, Mã Tư Thông vận bộ quần áo nông dân, song vẫn không che đậy đươc khí phách và phong độ của một nhà nghệ thuật. Ấy vậy mà một thời gian khá dài, dân quân ở trong thôn không phát hiện ra thì quả là kỳ lạ.
Khi con gái Mã Tư Thông là Mã Thuỵ Tuyết cho biết có một chiếc thuyền đầu tháng giêng sẽ đi Hồng Kông, thì lòng Mã Tư Thông vô cùng nặng nề. Ông là một nhà âm nhạc lớn, có tình yêu nước mênh mông. Ông yêu mảnh đất chôn rau cắt rốn.
Ông lưu luyến non sông Tổ quốc. Ông muốn dành cho nhân dân đất nước ông thứ âm nhạc uyển chuyển, truyền cảm và niềm tự hào, vậy mà sức ép nặng nề khiến ông phải chọn con đường tha hương.
Trước ngày giải phóng, ông đã cự tuyệt lời mời của đại sứ Mỹ Stulerdan và ở lại Tổ quốc…
Nhưng "Đại cách mạng văn hoá" tàn khốc buộc ông đến đường cùng. Ông có tình cảm sâu nặng với Chu Ân Lai, sự ra đi không một lời cáo biệt. Chu Ân Lai sẽ nghĩ như thế nào đây?
Ngày 30 tháng 12, anh cả của Mã Tư Thông là Mã Tư Kỳ điện báo: Mẹ của ông là Hoàng Sở Nương không thể chịu được sự hành hạ của "văn cách" đã qua đời. Mã Tư Thông nước mắt đầm đìa, lòng đau như cắt chỉ biết quỳ xuống hướng về phía Thượng Hải mà tiễn biệt mẹ hiền…
Tình thế càng ngày càng nguy cấp. Đào Chú nhiều năm giữ chức Bí thư thứ nhất Tỉnh uỷ Quảng Đông bị lôi ra đấu tố. Cả Quảng Đông lập tức mây mù bão tố nổi lên. Đan Táo một địa phương bé nhỏ cũng không nằm ngoài luồng đấu tố và không lâu sau cũng đã trời nghiêng đất ngửa… Cả nhà Mã Tư Thông ở đây cũng rất lo, nếu bị phát hiện ở Đan Táo, sinh mệnh Mã Tư Thông chỉ có trời mới hiểu được.
Tối ngày 11-1-1967, màn đêm vừa buông xuống, Mã Tư Thông vô cùng mệt mỏi rời khỏi Đan Táo, đến điểm hẹn ở bờ biển rồi lên con thuyền chạy về Hồng Kông, cả nhà Mã Tư Thông trốn ở trong đám cỏ, không dễ gì nhìn được ông chủ thuyền, chỉ nghe một người được gọi là đầu chó" xuất hiện và nói, sóng to gió lớn không thể ra biển được? Mã Tư Thông ruột nóng như lửa đốt, lo lắng vô cùng. Việc đã đến nông nỗi này chỉ còn cách liều một phen, ném lao theo lao, trở về tức là đi vào chỗ chết.
Nhiều lời đồn đại làm ông đứng ngồi không yên: "Hồng vệ binh Học viện âm nhạc Trung ương sắp đi Quảng Châu, truy bắt Mã Tư Thông" "Từ cửa Chu Giang đến Hồng Kông, trên biển đã bố phòng năm tuyến, ngày ngày vẫn bắt được kẻ trốn chạy…".
Tối 15 tháng 1, Mã Tư Thông cùng vợ là Vương Mộ Lý và con gái lên chiếc thuyền gỗ, sau đó lên con tàu nhỏ, đi về phía Hồng Kông, vượt qua từng tuyến từng tuyến "phong toả". Có một thuyền đang đánh cá phát hiện vẻ khả nghi của con tàu, lập tức báo với Hải quân, nhưng đã để nó chạy đến Đại Cát mất.
Nhớ lại một ngày trước kia, Mã Tư Thông ra nước ngoài sao mà đàng hoàng thế. Ông tham gia đoàn đại biểu âm nhạc Trung Quốc ra nước ngoài, có xe tiễn đến sân bay, bước trên thảm len mềm mại, ung dung bước lên máy bay, ngồi trên khoang đầu lim dim mắt tĩnh tâm. Còn lần này thì lại biệt ly trời đất, đóng giả người đánh cá, lòng lo âu thấp thỏm, đối mặt với ông chủ đưa đến Hồng Kông mà cố chịu đựng kìm lời mà giả bộ cười nói, thật buồn thảm và nhục nhã.
Trời vừa sáng, Mã Tư Thông thở dài nhẹ nhõm: Đã đến Hồng Kông rồi. Thế nhưng, ruột gan Mã Tư Thông rối bời. Ngày 19-1 một sớm sau 4 ngày ông đến Hồng Kông, điều ông vẫn lo lắng đã xảy ra. Mười mấy tờ báo tiếng Anh của Hồng Kông công khai đăng rằng "Mã Tư Thông nhà âm nhạc nổi tiếng của Trung Quốc đã trốn đến Hồng Kông".
Rất nhanh, tin tức ầm ĩ ai ai cũng biết Mã Tư Thông đã trốn được sang Hồng Kông.
Ông quyết định không ở lại Hồng Kông mà đi Mỹ. Em trai ông là Mã Tư Hùng đã qua Mỹ từ 1948, và đã ổn định trong giới âm nhạc Mỹ.
Qua sự hoạt động của tiểu thư Nam Hy, lãnh sự quán Hoa Kỳ ở Hồng Kông điện mật về Washington, báo cáo rằng nhà âm nhạc nổi tiếng Trung Quốc muốn qua Mỹ…
Vì Hồng Kông nằm dưới sự quản lý của Chính phủ Anh, Mã Tư Thông lại không có hộ chiếu, nên không thể không xin nhà đương cục cho xuất cảnh. Và thế là Anh-Mỹ đưa vấn đề Mã Tư Thông ra bàn.
Trong khi tin tức nổ ra trong giới báo chí Hồng Kông, các báo lại rầm rộ đăng về ý đồ đi Mỹ của Mã Tư Thông. Dư luận Hồng Kông lại một phen huyên náo. Lãnh sự Hoa Kỳ khôn khéo gọi điện cho Thống đốc Hồng Kông: Nếu để Mã Tư Thông lưu lại ở Cửu Long, sự an toàn của Mã Tư Thông không đảm bảo, cần để cho cả gia đình ông rời Hồng Kông đi Mỹ, các việc vặt vãnh khác đề phía Mỹ làm bổ sung sau.
Và thế là lãnh sự Hoa Kỳ trú ở Hồng Kông đích thân đưa Mã Tư Thông đi thẳng đến Washington. Mã Tư Thông vốn đầy kinh hãi cho là đã cưỡi lưng hổ khó xuống, giờ lại bị nhà đương cục Hoa Kỳ chuyển thành "viên đạn pháo", làm tăng thêm sự căng thẳng trong quan hệ Trung Mỹ vốn đang đối đầu gay gắt. Ông mới chỉ nghĩ là trốn tránh cơn bão tố ở Hồng Kông thôi, ngờ đâu đã trở thành cơn xoáy lốc chính trị khó thoát ra được. Stuledan đích thân mời ông, ông đã kiên quyết từ chối, giờ đây ông chủ động xin đến Mỹ. Làm sao mà thoát ra khỏi hoàn cảnh vướng mắc đó.
Mã Tư Thông đi Mỹ không phải để cầu mong một cái gì, mà chẳng qua là để tị nạn. Tinh sương 21-1, ông đến Washington. Nhà đương cục Hoa Kỳ đã bố trí để ông ở một biệt thự hoa lệ, trong có dương cầm, máy ghi âm, điện thoại… Đây quả là một làng quê phong quang tuyệt vời.
Tháng 4-1961, Mã Tư Thông nhà âm nhạc nổi tiếng của Trung Quốc giờ xuất hiện ở Mỹ một cách công khai, tổ chức họp báo. Ông muốn nói rõ với toàn thế giới rằng: ông là người yêu nước yêu nhân dân, chỉ vì chạy trốn sự đày đoạ của "Đại cách mạng văn hoá" mà phải tha hương, ông đã lên án sự tàn bạo của "Đại cách mạng văn hoá" mà ông đã cay đắng, trải qua.
Mã Tư Thông thoát thân được từ trong hoạn nạn, đã trở thành điểm nóng vây riết các cánh nhà báo nước ngoài.
Ngày 24-12, Thông tấn xã Hoa Kỳ cho biết:
Quốc hội Mỹ ra thông báo rằng, Viện trưởng Học viện âm nhạc Trung ương Bắc Kinh Trung Quốc. Đảng viên cộng sản Mã Tư Thông đã trốn khỏi Trung Quốc đại lục, đến Hoa Kỳ tị nạn.
Ngày 2 tháng 6, tạp chí "Đời sống" của Hoa Kỳ đăng lời trò chuyện của Mã Tư Thông: "Sự tàn khốc và cuồng điên" làm cho bằng hữu tốt của Mã Tư Thông khó tránh được vận rủi ro. Tổ chuyên án "002" xếp anh cả Vương Hằng, em trai Vương Hữu Cương của Vương Mộ Lý là "liên đới" phản cách mạng làm cho cha lìa con, vợ lìa chồng, nhà nát người mất. Vợ chồng anh trai Mã Tư Thông bị xếp vào "phần tử phản cách mạng hiện hành". Con gái lớn của Mã Tư Kỳ, anh trai Mã Tư Thông là Mã Điện Hoa vì tội "phản cách mạng hiện hành" bị quản thúc xét hỏi, do bị bệnh tim đột ngột chết ở trong nhà tạm giam Sở công an Thượng Hải. Con trai thứ là Mã Vũ Lương xếp cùng tội chịu án 12 năm tù, người con nhỏ đang học sơ trung là Mã Vũ Minh cũng bị án tù 9 năm, mẹ vợ Mã Tư Thông và Gìả sư phụ trước sau lần lượt qua đời…
Sau 8 tháng, chuyên án "002" đi vào kết thúc, xét xử vắng mặt Mã Tư Thông tội "phản bội Tổ Quốc đầu hàng giặc". Ngày 18-1-1968, "tổ chuyên án 002" bộ Công an báo cáo lên Tạ Phú Trị truy xét Mã Tư Thông phản bội Tổ Quốc đầu hàng giặc". Khang Sinh ký quyết định kết luận cuối cùng liệt Mã Tư Thông vào "phần tử phản quốc đầu hàng giặc".
Anh trai thứ hai của Mã Tư Thông là Mã Tư Vũ, bị bức bách đã nhảy lầu tự sát ngày 11-7-1968.
Sự manh động của "Cách mạng văn hoá" đã làm cho nhà yêu nước Mã Tư Thông tan cửa nát nhà ngậm bồ hờn 19 năm chịu tội "phản quốc".
Ngày 31-12-1984, nhân viên thụ lý vụ án Bộ Công an đưa ra lời đánh giá công bằng rằng:
"Chúng tôi lấy danh nghĩa Bộ Công an phúc đáp Đảng uỷ Học viện âm nhạc Trung ương, lột bỏ cái mũ "phần tử phản quốc đầu hàng giặc" của Mã Tư Thông, phục hồi danh dự về mặt chính trị".
Ngày 25-12-1985, Bộ văn hoá có công văn rằng:
"Thông tri về việc phục hồi toàn bộ cho tiên sinh Mã Tư Thông nguyên Viện trưởng Học viện âm nhạc Trung ương: "Căn cứ vào yêu cầu của Trung ương Đảng về xoá các vụ án oan, thực hiện chính sách đối với các phần tử trí thức và phủ nhận "Đại cách mạng văn hoá". Đảng uỷ Học viện âm nhạc Trung ương đã khẳng định sau khi nghiên cứu cẩn trọng nguyên Viện trưởng Học viện âm nhạc Trung ương Mã Tư Thông là nhà sáng tác âm nhạc, nhà vĩ cầm nổi tiếng. Đầu năm 1967 cả nhà phải ra nước ngoài là kết quả do sự chịu đựng bức hại tàn khốc của đường lối tả khuynh "Cách mạng văn hoá" thời kỳ đó, và bị cơ quan Công an do Khang Sinh, Tạ Phú Trị v.v, khống chế quy kết "Tội phản quốc đầu hàng giặc"là hoàn toàn sai lầm, nay trắng án".
Bộ Công an ngày 31-12-1984 phê chuẩn báo cáo của Học viện âm nhạc Trung ương, đồng ý với ý kiến của Học viện này: Quyết định triệt để phục hồi như thường cho Tiên sinh Mã Tư Thông, khôi phục danh dự, xoá bỏ mọi dư luận xấu. Viện chúng tôi đồng ý với quyết định của Bộ Công an, nay xin thông báo chính thức với Tiên sinh Mã Tư Thông và gia thuộc. Đề nghị các Bộ ngành liên quan lập tức thực hiện các nội dung trong quy định này".
Mùa xuân năm 1985, báo chí nước ngoài đăng tin Bộ công an, Bộ Văn hoá Trung Quốc đã có quyết định triệt để khôi phục cho Mã Tư Thông.
Lúc này trong và ngoài nước đã vỗ tay reo mừng, gia quyến Mã Tư Thông cùng vui mừng rạng rỡ với cán cân công lý.
Mã Tư Thông vô cùng cảm kích. Người phiêu bạt tha hương như ông, hy vọng sớm một ngày về với Tổ quốc ngày đêm mong nhớ.
Nhưng điều đáng tiếc khiến người đời không thể không than thở buồn đau là, Mã Tư Thông vì bệnh nặng không thể thực hiện ước nguyện về cố hương. Ngày 20-5-1987 Mã Tư Thông vĩnh biệt thế gian.
20-1-1988, Vương Mộ Lý phu nhân của Mã Tư Thông đã gửi thư từ Feicity nước Mỹ, bày tỏ nỗi đau khổ tha hương của chồng: "Lá rụng về cội. Một nghệ nhân dân tộc, làm sao chịu nổi cảnh tủi nơi đất khách quê người? Chúng tôi sẽ trở về với cố hương.".