Thục nằm vật xuống chõng tre, khóc gào, quằn quại:- Con ơi! Bây chừ con ở mô? Con ơi!…. Bà Khế vốn điềm tĩnh trong mọi việc, nhưng với việc này bà trở nên luống cuống. Bà Cao chết lặng, nằm sóng soài như tàu lá chuối non bị phơi nắng. Bà Khế kéo Thà ra gốc chay bên cạnh giếng mội.- Con thử kể lại cho bác nghe Thà ngước đôi mắt đỏ hoe, đẫm nước mắt nhìn bà Khế trân trân.- Để mất cháu, con cũng có tội bác à.- Chừ chưa phải lúc nói chuyện ai có tội mà bình tĩnh nhớ lại để tìm kiếm cháu, con có hiểu không?- Dạ con biết.- Cả ngày nay, bác cũng máy mắt nhiều lắm. Bác tin là thằng Đái còn sống. Thà kéo vạt áo lau nước mắt, giọng buồn.- “Vuốt mắt cho ông Kiếc xong, cháu vác hai khẩu súng chạy lên xóm Rú. Giao hai khẩu súng cho đội tự vệ dượng Liên thì bọn lính từ Cầu Diện xuống, từ Bến Đa lên, đông lắm. Dượng Liên ra lệnh cho đoàn người tản cư xuống hầm bí mật. Tự vệ chặn địch ngoài Rú. Ta có thêm mấy khẩu súng nữa nên bọn địch sợ, bò từng đoạn một. Khi bà con rút sâu vào hầm thì bọn lính tây, lính Nam triều đến nơi. Con nghe rõ tiếng thằng Hóp đòi xới hết đất xóm Rú lên như đào cỏ cú, tìm cho ra Việt Minh bắn bỏ. Lúc mọi người không giám ho, sợ lộ thì thằng Đái khóc thét lên. Thục nhét vú vào mồm cháu không bú mà khóc ngằn ngặt. Có người sợ quá thì thầm: “bịt miệng thằng nhỏ lại”. Ả Thục van lạy: “Rứa thì con tui chết mất”. Một người gằn giọng, “thà chết đứa con nít còn hơn chết cả làng”. Ả Thục sợ quá, khuỵu xuống, ngất xỉu. Con ôm cháu áp vào ngực, lấy áo trùm kín, nhưng tiếng khóc của cháu vẫn to. Con đi vào tận trong hầm. Nhiều người quỳ lạy. Một ai đó đặt bàn tay to bè lên mồm cháu. Cháu ngạt nấc ằng ặc. Con đẩy bàn tay lạ ra, chen vào cuối đường hầm. Hơi đất nồng nặc, hơi người đặc quánh, cháu không khóc được nữa. Con rùng mình: Hay là cháu chết rồi. Con kêu lên: “Cháu ơi” thì một bàn tay to bè, thô ráp bịt mồm. Con không biết gì nữa. Khi tỉnh lại con mới biết đang được người ta cõng. Con hét lên “cháu tui! Cháu tui mô rồi?”. Không ai biết. Ả Thục ngất lên, ngất xuống, gào khản cổ “con ơi là con ơi!”. Bọn lính bị đánh bật khỏi xóm Rú, chạy về Hồ Xá, dân làng ra khỏi hầm trở về làng. Hai chị em con chạy đến từng người hỏi, nhưng không ai thấy thằng Đái đâu?! Ba tháng đi tìm con từ Hầm hoà lên xóm Mội, xóm Rú, cầu Điện mà không thấy con đâu, vú căng sữa, Thục như kẻ mất hồn. Hễ nghe thấy tiếng con ai khóc là Thục chạy tới. Bà Cao ốm lả, suốt ngày ngồi bậu cửa chờ con dâu tìm cháu nội về. Làng đói…. Nhà hết gạo. Thục chặt cây chuối sứ đầu bờ ao vác đi đổi gạo. Cây chuối nặng, trời nắng gắt, mồ hôi đẫm vai áo, mủ chuối lẫn sữa tươi đẫm ngực. Thục vác chuối trong nắng, trong cơn đói cồn cào, trong cơn đau tức vì căng sữa. Người ta bảo cứ chịu khó đổi được một cái gì đó, kiếm về lon gạo thì may ra tìm lại con trai. Ngày nào Thục cũng vác cây chuối đi đổi. Một cây chuối to lợn người ta ăn no vài ngày, Thục được lon gạo, nấu cháo với rau khoai lang cả ngày cho ba mẹ con bà cháu. Gian truân quá, Thục mong Thuận về, nhưng lại sợ. Anh về mà chưa tìm được con thì tội cho anh lắm. Chiều tối, Thục liều mạng vác cây chuối hột to nhất vườn đến nhà lão Lỗi. Mụ Lỗi nhìn cây chuối ưa mắt, đổi một lon gạo đầy với bát cơm nguội. Thục chưa kịp nói lời cảm ơn thì thằng Hóp ập đến, cười nhăn nhở.- O ni lạ thiệt đó. Con mất tích, chồng theo Việt Minh, lấy vợ mới rồi, còn chi nữa mà ngóng trông.- Ông đừng có độc miệng. Con trai tui còn sống.- Nói thiệt. O lấy tui, được ăn no, mặc đẹp, con cái đầy đàn. Muốn chi được nấy.- Tui là gái đã có chồng. Ông tránh ra… Hóp má sàm sỡ ôm chặt Thục trong vòng tay thô cứng. Thục ném cả lon gạo, cả bát cơm nguội vào mặt, Hóp buông tay. Thục chạy một mạch về nhà. Hai con chó nhà lão Lỗi đuổi theo Thục đến cầu ao thì dừng lại. sủa vội mấy câu ra oai. Thằng Hóp cho hai con chó hai cú đá lộn cổ xuống ao cho bõ tức.