Chương 4-5-6

4.
Quán của John là chỗ bán rượu chui từ trước khi có lệnh hủy bỏ luật cấm bán rượu. Đến năm 1948 khắp nơi ở Los Angeles đã thấy những quán bar được cấp giấy phép. Còn John vẫn theo nghề bán rượu trốn thuế, Hội đồng thành phố không cấp bằng lái xe cho gã thế mới rắc rối chứ. Gã John tìm cách lo lót cảnh sát mở một hộp đêm đi qua ngõ sau khu chợ nhỏ giữa phố Central Avenue và phố Tám mươi chín. Mỗi buổi tối cho tới ba giờ sáng đi vô cửa hàng bạn sẽ nhìn thấy Hattie Parsons ngồi sau quầy bánh kẹo. Ở đấy không bày bán nhiều hàng tạp hóa, không có món sữa tươi, món giải khát mà chỉ bày bán lèo tèo có vài thứ nhưng nếu bạn nói đúng mật khẩu hoặc là khách quen, bà ta sẽ chỉ chỗ đi vô quán bar nằm ỏ cửa sau khu chợ. Còn nếu bạn muốn tự xưng tên, hoặc là chỉ dựa vào cách ăn mặc bề ngoài, có sổ tiết kiệm nhà băng, được rồi, Hattie cất cây dao cạo vô túi áo tạp dề quay lại nhìn đứa cháu Junior Fomay ngồi ngay sau cửa.
° ° °
Lúc tôi vừa đẩy cửa bước vô khu chợ thì gặp phải ngay một tên da trắng là một trong ba người hôm nọ. Hắn đứng cao bằng cỡ tôi, tóc màu vàng nâu, mặc đồ vét đắt tiền. Quần áo xốc xệch hơi thở nồng nặc mùi rượu gin.
- Kìa, chào ông bạn da màu, - hắn nói, tay vẫy chào. Hắn bước về phía tôi, tôi muốn lui ra ngoài ngay nếu không muốn để hắn tấn công.
- Mi tưởng là kiếm hai mươi đô la dễ lắm sao? - hắn vừa cất tiếng thì cánh cửa phía sau lưng đã đóng sập lại.
Bọn chúng mới vừa vung tiền ra cho tôi hôm nào đây.
- Chuyện gì vậy? - tôi hỏi lúc này hắn đang còn say mèm.
- Ta đến đây... tìm người quen. Bọn gái ở đây không cho đi qua. - Hắn bước loạng choạng thế này cũng sẽ té ngã xuống đất. - Sao mi không bảo với bọn chúng là ta vẫn khỏe.
- Tiếc là tôi không thể nói được, - tôi đáp.
- Sao vậy?
- Bọn chúng nói không muốn thấy ông ở quán bar của John với bộ dạng như vậy. - Tôi đi vòng qua chỗ hắn đến gần cánh cửa. Hắn xoay người chực nắm lấy tay tôi, hắn đảo người vòng vòng rồi ngồi phịch xuống đất lưng dựa vô tường.
Hắn nhấc tay lên như muốn ra hiệu cho tôi cúi xuống để hắn kề miệng vô tai nói nhỏ nhưng tôi thấy coi bộ không mong gì thoát ra ngoài được.
° ° °
- Kìa, Hattie, - tôi nói - Tôi ngỡ là bà ở nhà trọ ngay lối cửa ra vô.
- Tên da trắng kia say mèm phải không?
- Phải.
- Lát nữa phải nhờ Junior trông dùm.Nếu hắn còn ở đây nó sẽ đuổi ra ngoài
Nghe vậy tôi quyết định quên đi chuyện tên say rượu.
- Tối nay ban nhạc nào chơi vậy?
- Cũng là bạn đồng hương của cậuđó, Easy. Ban tam ca Lips. Nhân dịp chúng tôi có tổ chức buổi lễ từ thứ Ba tuần trước.
- Có thiệt không?
- Cô nàng vừa mới tới ban nãy, - Hattie cười khoe hàm răng trắng muốt. - Có thể chơi tới nửa đêm không chừng.
- Vậy sao! Xin lỗi tôi quên mất, - tôi nói.
- Vô cửa bảy mươi lăm cent đó bạn!
- Để làm gì?
John giả bộ như thế, có thể giá cao hơn. Mục đích không cho bọn càn quấy vô cửa.
- Bọn chúng là ai vậy?
Bà nghiêng người ra phía trước nhìn tôi ứa nước mắt. Bà Hattie có nước da nhợt nhạt tôi không nghi ngờ về chuyện bà sẽ nặng hơn trăm cân Anh ở tuổi sáu mươi - vài năm nữa.
- Cậu có nghe tin Howard chưa? - bà hỏi.
- Howard nào kia?
- Tay tài xế Howard Green đó.
- Không, không biết. Từ mùa giáng sinh năm rồi đến nay chưa gặp lại Howard Green.
- Vậy là cậu không còn nhìn thấy hắn nữa đâu, trên cõi trần này.
- Có chuyện gì vậy?
- Hắn ra khỏi đây lúc ba giờ sáng vào cái đêm nhóm Lady Day đến đây thế là đi đời! - Bà giơ nắm tay đấm vô giữa lòng bàn tay bên kia.
- Vậy hả?
- Chẳng ai thèm để ý hắn. Cậu có biết là tôi đã bảo hắn đừng đi về nhằm ngày lễ nhưng hắn không nghe. Hắn nói là có việc cần về ngay. Ấy đấy! Tôi đã dặn đừng ra đi vào giờ đó.
- Người ta giết hắn sao?
- Ngay ngoài kia gần bên chiếc xe ôtô. Hắn bị đánh đập tàn nhẫn đến nỗi Esther - vợ hắn - chỉ nhìn ra được xác nhờ nhận dạng chiếc nhẫn cưới. Còn cái mũi nhìn cứ như là của một người khác.
- Howard thích chơi bạo, - Tôi biết chuyện đó. Tôi đưa cho bà đồng tiền hai mươi lăm cent.
- Thôi vô ngay đi anh bạn! - bà cười nói.
° ° °
Vừa mở cửa bước vô bên trong điệu kèn trompet alto của ban nhạc Lips đập vào tai tôi. Từ thuở nhỏ lúc còn ở Houston tôi đã thường thức âm nhạc của ban Lips, Willie và Flattop. Mọi người họp mặt đông đủ có cả John với phân nửa số người trong căn phòng chật chội này là dân nhập cư từ Houston san chiến tranh, có một số đã đến đây từ trước. Califomia là thiên đường của dân Nergo phía Nam. Bạn đã từng nghe câu chuyện kể trong dân gian rằng ta có thể ăn trái chín cây, làm đủ ngày công để dành về nghỉ hưu. Chuyện kể thì... thật nhưng sự thật không phải như trong giấc mơ. Cuộc sống ở Los Angeles còn nhiều khó khăn cho dù lao động vất vả cả ngày bạn cũng không ngoi lên được.
Tuy nhiên nếu có dịp bạn hãy ghé vô quán bar của John để hồi tưởng về quê nhà Texas, mơ mộng về Califomia. Lúc đó cho dù bạn ở nấc thang tận cùng của xã hội, bạn cũng cảm thấy mình chưa đến nỗi tệ lắm. Ngồi lại đây, uống một ly rượu Scotch, bạn có thể liên tưởng đến giấc mơ xưa và bỗng chốc bạn tưởng đâu giấc mơ đã trở thành hiện thực.
- Kìa, Easy!
Tôi chợt nghe một giọng nói vang lên từ phía san cánh cửa.
Thì ra Junior Fomay. Hắn là người quen ở quê nhà. Một tay nông dân chính hiệu, lực lưỡng cả ngày phơi mình ngoài đồng thu hoạch bông rồi ăn nhậu cho tới lúc trở ra đồng vào sáng hôm sau. Trước đây, lúc còn thanh niên, tôi với hắn đã từng xung đột. Tôi những tưởng đã mất mạng rồi nếu như tay Mouse không nhào vô can thiệp.
- Junior! - tôi chào lại - Có việc gì lạ không?
- Chả có gì lạ, chỉ loanh quanh đây thôi.
Hắn ngồi tựa lưng vô vách. Hắn hơn tôi đến năm tuổi có lẽ đã ba mươi ba, hắn mặc quần Jeans, bụng xệ trông Junior vẫn khỏe như ngày nào hắn xô ngã tôi xuống sàn.
Junior miệng phì phà khói thuốc. Hắn hút thuốc lá loại rẻ tiền Zapatas nhập từ Mễ. Hắn quẳng mẩu thuốc xuống sàn thôi không hút nữa. Nhìn chung quanh thấy chỗ nào cũng có dấu tàn thuốc in đen sì dưới sàn gỗ sồi. Quanh chỗ Junior đang ngồi có ít nhất cả chục dấu tàn thuốc lốm đốm như thế. Hắn là thằng ở dơ nên chẳng thèm để tâm mấy việc nhỏ đó.
- Lâu lắm mình mới gặp lại cậu. Dạo này ở đâu?
- Mình làm cho hãng Champion tất bật cả ngày, rồi bọn chúng cho mình nghỉ việc
- Sa thải à?. Một nụ cười thoáng hiện trên môi gã.
- Tớ đang đói đây!
- Mẹ kiếp. Mình thấy lo cho cậu. Giảm biên chế hay sao vậy?
- Làm gì có chuyện đó. Tay chủ không bằng lòng vì công nhân chỉ biết lo làm việc riêng. Lão chủ muốn ăn đòn vô đít hay sao đấy?
- Tớ tin cậu.
- Bước qua ngày thứ Hai vừa tan ca mệt muốn chết đi không nổi...
- Ái chà! - Junior nói xen vô cho hết câu chuyện.
- Không hiểu lão chủ nghĩ sao lại đến nhờ mình làm thêm ngoài giờ. Tớ mới nói là không làm nổi vì có hẹn với người bạn. Về nhà tớ lăn ra giường ngủ.
Junior thích thú với cái ý tưởng đó.
- Lão chủ tức giận mới nói "Bọn chúng mày phải biết điều nếu muốn làm việc lâu dài".
- Lão chủ nói vậy sao?
- Vậy đó! Tôi cảm thấy trong người nóng rần rần vì tức giận.
- Lão ấy là người như thế nào?
- Dân Ý, chắc là bố mẹ lão ta di dân qua đây".
- Ối chà! Cậu nói thế nào?
- Tớ nói là bọn chúng tôi biết điều từ lâu rồi, trước khi có nước Ý. Thời điểm đó chưa có người Ý qua đây".
- Đúng! - Junior nói.
- Lão ta chưa hiểu tớ muốn nói gì đâu?
- Rồi về sau như thế nào?
- Lão nói "Thôi về đi đừng quay lại đây nữa. Lão chỉ cần người lao động năng nổ". Tớ đi ra ngay.
- Ối giời! - Junior lắc đầu - Lần nào cậu cũng bị đối xử như vậy?
- Vậy đó! Uống một cốc bia nhé, Junior?
- Được. - Gã lắc đầu. - Đang rách việc mà gọi bia à?"
- Tớ cũng có đủ tiền gọi hai cốc bia chứ.
- Thế được rồi, mọi bữa tớ vẫn uống bia.
° ° °
Tôi bước tới quầy bar gọi hai cốc bia. Nhìn quanh có đủ mặt nửa dân số ở Houston về đây. Bàn nào cũng đầy năm, sán người ngồi nói chuyện, la hét om sòm còn hôn hít, cười giỡn nữa chứ. San một ngày lao động vất vả mọi người đến quán bar để được thư giãn. Quán trốn thuế nhưng mà ngồi đây thấy thú hơn.
Mấy tay sành âm nhạc dân gian Negro đến đây chơi vì quen biết chủ quán John từ ngày trước đã tạo việc làm cho họ và không tiếc tiền trả công. Có đến hơn hai trăm khách quen lui tới quán John, biết mặt nhan cả, vừa là chỗ làm ăn vừa là chỗ giải trí thư giãn.
Tối nay Alphonso Jenkins mặc chiếc áo vải siu đen để tóc kiểu pompadour.
Có cả Jockamo Johanas. Hắn mặc bộ đồ vải len nâu, mang đôi giày da màu xanh. Con bé Rita Cook gầy nhom ngồi ở cái bàn có năm gã đứng bao quanh.
Tôi chẳng hiểu sao con bé xấu xí, gầy nhom như vậy lại có lắm kẻ đeo bám đến thế! Có lần tôi hỏi thẳng cô nàng sao có chuyện đó, nàng liền nói với giọng than thở:
- Đấy, Easy biết không, phân nửa số đàn ông thích nhìn xem mấy cô nàng xinh đẹp hay xấu. Còn mấy tay đàn ông da màu lại thích tìm cô nàng nào dám yêu hết mình đến nỗi bọn chúng có thể quên hết cả ngày đeo đuổi khó nhọc.
Tôi nhìn thấy Frank Green đang ngồi trong bar. Bọn tôi thường gọi hắn là vua phóng dao, hắn có tài rút dao thật nhanh và trên tay lúc nào cũng thủ sẵn con dao. Tôi tránh mặt Frank vì biết hắn là tên gangster. Hắn chuyên chặn cướp xe chở rượu, chở thuốc lá ở khắp nơi của California thậm chí vượt qua bên Nevada. Chuyện gì hắn cũng có thể xen vô và sẵn sàng chém giết bất kì ai cản đường đi của hắn.
Tối nay Frank ăn mặc toàn một màu đen. Trong nghề làm ăn của Frank phải chuẩn bị trước tư thế sẵn sàng nhào vô cuộc - chặn đường cướp của và còn lắm chuyện ghê gớm hơn nữa.
Khắp gian phòng chật như nêm không còn chỗ bước ra sàn nhảy, vậy mà có gần một chục cặp chen chân lọt vô giữa lối đi quanh bàn. Tôi mang hai cốc bia trở lại chỗ cửa ra vào mời Junior một cốc. Tôi nghĩ ra cách làm cho tay nông dân cục mịch này vui vẻ với mấy cốc bia, ngồi nghe kể chuyện nói dóc chơi. Tôi ngồi dựa lưng vừa nhấm nháp vừa nghe Junior kể chuyện xảy ra trong quán bar của John hồi tuần trước hay gì đó. Hắn nhắc lại chuyện Howard Green cho tôi nghe. Hắn kể xen vô chuyện Green nhận làm mấy việc phi pháp dùm cho ông chủ, Junior nghĩ trong đầu. - Chính bọn da trắng giết chết hắn chứ ai".
Junior có thói quen hay thêu dệt mấy chuyện xưa tích cũ, tôi biết quá, vậy mà có nhiều tên da trắng vẫn thích tìm gặp hắn để được gần gũi thoải mái.
- Hắn làm việc cho ai vậy- tôi hỏi ngay.
- Cậu có biết tay rút lui khỏi cuột nông trại. Những người dân Nhật Bản trồng atiso, rau diếp, dâu tây, dọc hai bên hè đường.
Tôi nhớ lại buổi tối hôm đó cánh đồng sáng rực ánh trăng, gió se se lạnh.
Thú thật tôi không vui chút nào khi phải gặp lão Albright tại khu vực người da trắng như ở Santa Monica để tính chuyện làm ăn. Hãng máy bay Champion Aircraft nơi tôi làm việc cũng thuộc về thành phố Santa Monica, thường ban ngày tôi đi làm xong rồi lái xe về nhà. Chẳng khi nào la cà đây đó, chỉ trừ mấy chỗ bạn bè quen biết cùng một chủng tộc như tôi ở gần nhà. Nghĩ đến lúc gặp lão báo tin vui, lão trả một món tiền đủ để trang trải tiền nợ tháng tới, tôi mừng rơn. Tôi cứ mơ tưởng trong đầu ngày kia mình sẽ mua được nhà mới, một căn hộ ghép. Tôi còn mơ ước tận thêm được đất đai nữa kia tôi sẽ làm lụng để trả tiền thuê đất.
Lúc tôi đến nơi thì vòng xoay và khu nhà mái vòm đã đóng cửa. Trẻ con và bố mẹ lục tục ra về chỉ còn bọn thanh niên lảng vảng quanh đó hút thuốc tán dóc.
Tôi đi bộ ra cầu tàu đến chỗ tường rào chắn nhìn xuống bãi biển. Tôi đoán lão Albright sẽ nhìn ra tôi ở quanh đây, tránh xa bọn trẻ da trắng lắm chuyện rắc rối.
Không lẽ cả tuần nay tôi chỉ lo tránh những nơi cấm kỵ.
Tôi nhìn thấy con bé mập ú tách ra khỏi nhóm bạn. Nó là đứa nhỏ tuổi nhất, cỡ mười bảy, hình như chưa có hẹn hò với ai. Vừa nhìn thấy tôi nó cười chào:
- Chào ông!
Tôi chào lại nó, rồi quay nhìn về phía bờ Bắc Santa Monica dưới ánh đèn mờ. Tôi nghĩ bụng mong nó bỏ đi cho nhanh, chờ lão Albright tới đây gặp tôi, xong tôi về nhà trước nửa đêm.
- Lang thang ngoài trời thế này thích lắm nhỉ?, - tôi nghe tiếng con bé đằng sau lưng
- Thích chứ.
- Tôi ở De Moines, Iowa. Ở đấy không nhìn thấy biển. Ông là dân sống ở Los Angeles phải không?
- Không, tôi ở Texas. Tôi cảm thấy nhột nhạt phía sau gáy.
- Ở Texas có biển không ông?
- Chỉ có vùng Vịnh.
- Ông thường ra đó chơi? - Con bé nghiêng người tựa vô lan can đứng kề bên tôi - Mỗi khi nhìn thấy biển tôi vẫn còn bàng hoàng. Tên tôi là Barbara.
"Barbara Moskowitz. Một cái tên của dân tộc Do Thái".
- Ta là Ezekiel Rawlins, - tôi nói nhỏ.
Tôi không muốn cho con bé biết biệt danh. Tôi liếc nhìn qua vai thấy có hai chàng thanh niên đang nhìn quanh, hình như tìm một người trong bọn đi đâu
- Bọn chúng tìm em kìa, - tôi nói.
- Ai tìm? - con bé đáp – chị em đem em theo bởi vì cha mẹ bắt buộc. Chị em thích làm tình với Herman thích hút thuốc lá.
- Con gái đi một mình như thế này thật là mạo hiểm, cha mẹ có ý muốn em chọn một người.
- Ông có ý định xâm phạm vô người em không? - Con bé chăm chăm nhìn tôi.
Tôi còn nhớ lúc đó nhìn vô ánh mắt con bé kỳ lạ làm sao, chợt tôi nghe tiếng quát tháo:
- Mi đấy hả! Thằng da đen! Có chuyện gì vậy?
Hắn là thằng nhóc con mặt còn búng ra sữa... Hắn cỡ ngoài hai mươi lăm, cao hơn mét rưỡi, hắn sấn tới phía tôi như một tên lính xung trận. Hắn chả biết sợ, bọn ngựa non háu đá.
- Mày muốn gì? - Tôi cố giữ lời lẽ lịch sự.
- Mi hiểu ta muốn nói gì, - hắn vừa nói vừa bước tới chỗ tôi đứng trong tầm tay với.
- Để ông ấy yên, Hemlan! - Barbara hét lên - Chỗ người ta đang nói chuyện!
- Mi nói gì, hở? - hắn hỏi lại tôi - Mi không cần phải nói chuyện với bọn con gái da trắng.
Tôi muốn vặn cổ nó cho đã tay. Tôi có thể moi mắt hắn ra, bẻ gập từng ngón tay hắn. Nghĩ lại tôi cố dằn cơn giận.
Hắn rủ thêm năm tên nữa tiến về phía tôi và con bé đang đứng. Bọn chúng bước tới chưa kịp củng cố đội ngũ, tôi có thể ra tay giết hết bọn chúng ngay lúc này. Bọn chúng đã hiểu thế nào là trò chơi bạo lực? Tôi sẽ bẻ cổ bọn chúng từng đứa một, không có tên nào ngăn cản được. Làm thế nào bọn chúng chạy thoát khỏi tay tôi. Tôi vẫn có tiếng là cỗ máy sát thủ.
- Kìa! - đứa cao lớn trong bọn cất tiếng - Có chuyện gì rắc rối sao?
- Tên nigger này muốn cứu Barbara.
- À nó vừa bị cưỡng dâm.
- Để ông ta yên, Barbara quát - ông ta vừa ở xa tới đây.
Tôi đoán con bé định cứu tôi, như một người mẹ ôm đứa con vừa bị thương bên sườn.
- Barbara! - một đứa khác gọi.
- Kìa, ông bạn có việc gì rắc rối đấy? - tên lớn con hơn tôi hỏi. Nhìn đôi vai hắn rộng, cao hơn tôi một cái đầu tưởng như cầu thủ. Khuôn mặt bạnh ra, da mặt dày. Mắt, mũi, miệng hắn nổi lên như những ốc đảo giữa một vùng da trắng
Tôi nhìn quanh còn có hai đứa nữa cúi nhặt gậy gộc. Bọn chúng đứng dàn chung quanh, tôi bước lùi dựa vô lan can.
- Ta chẳng muốn có chuyện rắc rối đâu, - tôi nói. Miệng mồm tanh nồng mùi rượu.
- Mi có chuyện rắc rối đấy!
- Nghe đây, con bé chỉ vừa nói một lời chào. Ta cũng chỉ nói bấy nhiêu lời.
Chợt tôi nghĩ lại. Việc gì ta phải trả lời mi?
Herman nói xen vô:
- Hắn chỉ vừa kịp nói từ đâu tới. Con bé lặp lại y vậy.
Tôi cố nhớ từ đây ra bãi biển còn bao xa. Bây giờ tôi phải tính làm sao rời khỏi nơi này trước lúc phải có vài ba xác chết nằm lại trong số đó có tôi.
- Xin lỗi, - tiếng người đàn ông lạ mặt cất lên.
Từ phía sau chỗ hắn đang đứng là một người đội mũ rơm kiểu Panama bước:
- Xin lỗi các bạn, lão Albright nhắc lại. Lão nhếch mép cười.
- Ông muốn gì nào?, - tên kia hỏi lại.
Vẫn nụ cười trên môi. DeWitt nhanh tay rút súng, một kiểu súng trường giấu dưới lớp áo bờ lu dông, lão chĩa thẳng nòng súng vô mặt tên lớn con nhất trong bọn, nói:
- Có phải Matthew Teran?
Lẽ ra thì Teran có nhiều hy vọng thắng cuộc đua tranh chức Thị trưởng Los Angeles, nhưng ông ta mới vừa rút tên cách nay mấy tuần. Không ai rõ lý do vì sao.
- Phải, chính tên ông ta. Cậu biết không, những tay làm chính trị hết thảy đều là kẻ cướp. Tại vì tớ nhớ lại lần đầu tiên Huey Long được bầu làm Thống đốc Louisiana.
- Lips chơi nhạc tại đây lâu mau rồi? - tôi chợt hỏi, cắt ngang câu chuyện.
- Tuần lễ hoặc hơn, Junior không để ý chuyện đó. - Tớ liên tưởng đến chuyện cũ. Đồ chết tiệt, bọn chúng chơi nhạc ngay cái đêm Mouse lôi tớ ra khỏi chỗ ngồi.
- Chớ còn gì nữa! - tôi nói. Tôi còn nhớ rõ cái cảm giác bàn chân Junior đạp vô lưng lúc tôi xoay người không đúng chỗ.
- Tớ cám ơn hắn mới phải. Cậu biết không bữa đó tớ say mèm loạng choạng suýt nữa giết nhầm cậu đó, Easy. Lúc đó tớ còn bị xiềng tay đem đi lao động.
Đã lâu lắm đến nay tôi mới thấy lại nụ cười chân thật của hắn. Junior sún mất hai cái răng, một cái ở hàm trên và một ở hàm dưới.
- Từ dạo đó Mouse có việc gì không? - hắn hỏi vẻ trầm ngâm.
- Tớ không biết. Hôm nay là lần đần tiên sau nhiều năm mình mới sực nhớ lại hắn.
- Hắn còn ở bên Houston chứ?
- Mới nghe nói gần đây. Hắn có vợ là EttaMae.
- Lúc cậu gặp thì hắn làm ăn ra sao?
- Lâu rồi tớ cũng không nhớ. - tôi nói dối cho qua chuyện.
Junior cười gằn.
- Tớ còn nhớ lúc hắn giết chết JoeT., cậu biết tay dắt mối đó không? Tớ muốn nhắc lại Joe máu me đầy mình còn Mouse thì mặc bộ đồ xanh nhạt. Không nhìn thấy một dấu vết nào hết. cậu biết bọn cớm không làm gì Mouse được, không thể nghi cho hắn giết người bởi quần áo hắn sạch trơn.
Tôi sực nhớ lần cuối nhìn thấy Raymond Alexander, nghĩ lại không phải chuyện để cười.
- Bốn năm nay tôi không gặp lại Mouse, kể từ buổi tối hôm đó, bên ngoài quán rượu Myrtle tại khu phố Fifth Ward ở Honston. Hôm đó hắn mặc bộ đồ màu mận chín, đội mũ nỉ. Lúc đó tôi còn mặc đồ lính.
- Có gì lạ không, Easy!- hắn cất tiếng chào hỏi rồi ngước nhìn tôi. Mouse người nhỏ thó, mặt như mặt chuột.
- Chả có gì lạ, - tôi đáp - Trông cậu chẳng khác gì lúc xưa.
Mouse cười nhe chiếc răng vàng sáng chói.
- Coi vậy cũng không đến nỗi nào. Tình hình đường phố giờ yên tĩnh.
Bọn tôi nhìn nhau cười vỗ qua lưng nhau. Mouse vào quán Myrtle mời tôi một ly, tôi mời lại. Cứ mời nhau uống cho tới lúc Myrtle đóng cửa đi ngủ. Bà nói:
- Để tiền rượu dưới quầy tính tiền. Lúc ra về nó tự động khóa lại.
- Cậu còn nhớ ông bố dượng mình chứ, Ease? - Mouse chợt hỏi, lúc này trong quán chỉ còn hai người.
- Có chứ, - tôi nói nhỏ đủ nghe. Mới sáng sớm trong quán vắng tanh, tôi đảo mắt nhìn quanh một lượt, đã phạm tội giết người còn ham nói lớn tiếng, Mouse quên, mất chuyện đó. Hắn đã giết chết ông bố dượng rồi đổ thừa cho người khác chuyện đã năm năm nay rồi, nếu có đủ bằng chứng chiếu theo luật pháp chỉ trong vòng một tuần hắn sẽ bị treo cổ.
- Đứa con ruột của ông ta, Navrochet, đến tìm tớ năm rồi. Hắn không tin Clifton can tội giết người cho dù những người thi hành luật pháp xác định tên này là thủ phạm. Mouse rót thêm một ly rồi nốc cạn hết. Hắn rót thêm ly nữa - Cậu có quen em nào da trắng trong thời kỳ chiến tranh không? - hắn hỏi tôi.
- Đứa nào cũng thích có một em. Cậu nghĩ sao vậy?
Mouse cười khà ngồi dựa lưng vô thành ghế đưa tay phủi đít.
- Mẹ kiếp, - hắn nói - Cũng đáng giá hai lần được cần may, hở? - Nói xong vỗ vô đầu gối tôi thân thiết y như hồi trước thời chiến.
Tôi với hắn ngồi uống cả tiếng rồi hắn trở lại chuyện Navrochet. Mouse mới nói:
- Ngay trong quán bar này có một tên tiến về phía tớ đang ngồi, hắn mang giày ống. Tớ nhìn thẳng vô mặt hắn. Hắn ăn mặc lịch sự mang giày ống, thấy hắn mới bước vô tớ đã mở khóa phéc mơ tuya. Hắn muốn nói chuyện vớl tớ, rử nhan ra ngoàl. Tớ đi ngay. Cậu có thể nghĩ tớ là thằng điên nhưng tớ thì đi ra ngay. Lúc ra đến nơi vừa nhìn quanh hắn rút súng chĩa ngay vô giữa trán tớ. Cậu có nghĩ ra được không? Tớ giả vờ run sợ. Navro muốn trừng phạt cậu...
- Tớ à? - tôi nói.
- Chớ còn ai nữa, Easy! Hắn nghe tin cậu gặp lại tớ hắn muốn giết luôn cậu đấy. Cậu biết là tớ muốn lộn ruột vì lúc nãy đã uống bia. Tớ giả vờ run sợ, khiến cho Navro tưởng hắn ghê gớm lắm nên tớ mới run... Vậy là tớ vật thằng Nhỏ ra, hề hề, đái vô đôi giày ống của hắn. Cậu biết không lúc đó Navro hét nhảy cẫng lên kêu "Trời". Miệng hắn méo xệch, hắn nói "Ta bắn cho hắn bốn phát gục xuống sàn. Ta giết chết bố dượng cũng bấy nhiêu phát đạn".
Thời chiến tôi đã từng chứng kiến bao nhiêu cảnh chết chóc vậy mà hình ảnh tên Navrochet đang chết dần trước mắt mới thật là khủng khiếp, tuy hắn cũng là đồ vô dụng thôi. Trở lại Texas ở phố Fifth Ward, Houston, chuyện giết nhau xảy ra như cơm bữa có khi chỉ vì một câu nói lỡ miệng, hoặc cá độ ăn thua nhau chỉ một đồng tiền. Kẻ ác giết chết người lành thậm chí cả người ngu muội. Nếu có ai chết trong quán bar này, thủ phạm chính là Mouse. Nếu nhắc đến chuyện phải trái công bằng thì hắn là người xứng đáng được hưởng.
- Hắn chộp lấy ngực tớ, Easy nghe chưa, - Mouse nói, như thể hắn đọc được hết ý nghĩ trong đầu tôi. - Tớ đứng tựa lưng vô tường tay chân tê rần. Trước mắt mờ mịt, tai tớ nghe một giọng nói, mắt nhìn thấy gương mặt một tên da trắng áp sát vô mặt tớ. Hắn như đang nói lời cầu nguyện. Rồi tên da trắng nói với tớ hắn đã chết, hắn hỏi tớ có run sợ không. Cậu biết tớ nói lại hắn thế nào không?
- Thế nào? - tôi hỏi, và đó cũng là lúcđâu ra đó.
- Hắn có một căn hộ tại khu Skyler và Eighty - Third Place thường gọi là khu Skyler Arms".
Lão móc ví ra tay cầm bút viết hí hoáy vô trang giấy ghi chép. Lão nhìn tôi chăm chăm, hai con mắt như thất thần, tay cầm bút gõ lên tay lái xe.
- Còn gì nữa không?
- Frank là một tay găng-tơ tôi nói.
Nghe vậy DeWitt lại cười:
- Hắn cùng băng nhóm với bọn chặn xe cướp giật. Bọn chúng chỉ lấy rượu, thuốc lá, đem bán quanh vùng phía Nam California.
- Bọn côn đồ à?
Lão DeWitt hỏi mà chưa kịp dằn giọng cười xuống.
- Côn đồ, thế đấy. Hắn có cả dao nữa kia.
- Anh đã nhìn thấy hắn đụng độ với ai chưa? Ta muốn nói anh đã nhìn thấy hắn giết ai chưa?
- Tôi thấy hắn chém một người trong quán bar, tay lắm mồm đó chưa biết Frank là ai.
Chợt đôi mắt lão DeWitt sáng rỡ, lão nghiêng người ra phía trước sát bên tôi hơi thở khô khốc phả vô quanh cổ.
- Ta nhắc để anh nhớ lại một việc, Easy. Anh nên nhớ lại ngay cái lúc Frank rút dao ra đâm kẻ lạ mặt đó.
Một lúc san tôi mới gật đầu khi nghĩ ra cân trả lời.
- Trước lúc sáp lại gần hắn có vẻ ngập ngừng gì không? Ta muốn nói dù chỉ thoáng qua.
Tôi chợt nhớ lại lúc đó trong quán bar đông nghẹt ở phố Figueroa. Một tên lớn con đang nói chuyện với con bé đi theo Frank, lúc Frank bước tới hắn đưa tay chụp trước ngực định xô ra. Frank trợn mắt nghiêng đầu một bên như muốn nói cho mọi người nghe "Coi kìa cái thằng quỷ này giở trò gì đây! Hắn muốn chết, ngu ngốc đến thế!" Frank rút dao ra ngay tên nọ co người lại dựa vô quầy bar tay ôm bụng cố chịu đau...
- Nó nhanh như chớp ông ạ, - tôi nói.
Lão DeWitt cười nhạt.
- Thôi được rồi, lão nói - Thế là ta biết rõ mọi chuyện.
- Ông có thể tiếp cận con bé lúc nó đi ra ngoài một mình. Frank thì suốt ngày bám sát tuyến đường xa lộ. Tối bữa kia tôi còn trông thấy hắn tại quán bar của John, hắn ăn mặc đồng phục của bọn chặn xe cướp của như vậy hắn sẽ vắng nhà vài ba bữa nữa.
- Thế thì càng hay, - lão Albright đáp. Lão ngồi ngay ngắn lại. - Không còn lo chuyện rắc rối nữa. Anh còn giữ tấm hình đó chứ?
- Không, - tôi nói gạt - Tôi không mang theo đây. Tôi bỏ quên ở nhà.
Lão liếc nhìn về phía tôi, chắc là lão không tin. Không hiểu sao tôi còn muốn giữ lại tấm hình của nàng. Cái nhìn của nàng khiến tôi cảm thấy tỉnh cả người.
- Thôi để đó khi nào gặp lại nàng ta mới cần, anh biết không, ta muốn sau khi xong việc mọi thứ phải gọn gàng... Đây, thêm một trăm đô la nữa, anh giữ tấm danh thiếp này. Anh chỉ việc đến ngay đó kiếm việc làm chờ thời.
Lão chìa ra một xấp giấy bạc cùng với tấm danh thiếp. Tối mờ thế này thấy đường đâu mà coi, tôi cho hết vô túi.
- Tôi có thể quay lại chỗ cũ xin việc, khỏi cần đến địa chỉ này.
- Anh cứ giữ lại đó! - lão nói, tay bật quẹt.
- Anh biết điều với tôi, moi ra được thông tin này, tôi phải biết điều lại với anh. Làm ăn với ta đơn giản chỉ vậy thôi, Easy. Ta chơi sòng phẳng.
° ° °
Trên đường quay trở lại, đường sá vắng tanh sáng sủa. Chiếc rađiô phát ra điệu nhạc do tay Beuny Goodman biểu diễn, lão DeWitt ngâm nga hát theo y như là lão đã từng theo ban nhạc.
Chiếc xe dừng lại gần chỗ cầu tàu, mọi thứ y như lúc chúng tôi bỏ đi. Tôi mở cửa xe bước xuống. Lão Albright mới nói:
- Ta hân hạnh được cộng tác với anh, Easy. - Lão chìa tay ra vẫn cái bắt tay như quấn chặt lấy bàn tay tôi, lão nhìn tôi như muốn nói một cân bỡn cợt, - Anh biết không, tôi còn thắc mắc một việc.
- Việc gì thế?
- Anh làm sao để cho bọn nhóc xúm lại quanh anh vậy? Anh cứ hạ gục từng tên thì làm sao bọn chúng dồn anh vô bờ rào được.
- Tôi không giết bọn trẻ, - tôi nói.
Lão Albright lại phá ra cười, buổi tối đó lão phải cười đến hai lần.
Lão chào rồi để tôi ra về một mình.
9.
Tổ công nhân nơi tôi làm việc trong dãy hangar nằm ở phía Nam hãng máy bay Santa Monica. Sáu giờ sáng tôi đã đến nơi, trước giờ giao ca. Tôi muốn ghé lại thăm Beuny, Benito Glacomo trước giờ bọn chúng vô ca. Mỗi lần hãng Champion đưa ra một kiểu máy bay mới cho lực lượng không quân hoặc cho một công ty hàng không dân sự đều phải có một vài nhóm lắp ráp loại bỏ được những chỗ hỏng hóc trong quá trình sản xuất. Benito phụ trách toán thợ chuyên về các bộ phận bên cánh trái, bộ phận này làm xong sẽ chuyền giao qua toán khác lắp rắp hoàn chỉnh chiếc máy bay. Đến lượt các chuyên viên kiểm tra lại các chi tiết bằng cách dùng kính hiển vi đo đạc các bộ phận rời một lần cuối trước khi đưa vào lắp ráp.
Đấy là một công việc hết sức tỉ mỉ, công nhân lắp ráp tự hào khi một sản phẩm được làm ra, riêng với Benito thì khác hắn cảm thấy khó chịu mỗi khi bọn tôi nhận một công trình mới.
Thế nên hắn tìm cách buộc tôi nghỉ việc. Tôi vừa nhận một ca làm việc nặng nề, tổ của tôi có hai công nhân bị cúm, tôi thì mệt dừ. Beuny yêu cần cả tổ ở lại kiểm tra công tác, có tôi thì cuộc kiểm tra mới được thông qua nhanh chóng, tôi bảo thôi chờ đến sáng mai. Cả tổ nghe theo tôi. Tôi không làm tổ trưởng nhưng Beuny tin tưởng tôi, hắn muốn cả tổ noi gương tôi bởi vì tôi là công nhân xuất sắc Ngày hôm đó thật sự cực nhọc, vất vả. Tôi thèm được ngủ một giấc cho đã rồi sau đó sẽ bắt tay vào việc. Nhưng Beuny không chịu nghe theo tôi. Hắn bảo tôi hãy chiu khó nếu muốn được tăng lương, lúc đó tôi chỉ còn kém Dupree một bậc.
Tôi mới nói là hôm nào tôi cũng lo làm quần quật, công việc tại hãng xưởng cũng cực nhọc không thua gì công nhân đồn điền phía Nam. Bọn chủ coi công nhân như lũ trẻ con mà lũ trẻ đa số đều tôi quyết định bỏ xứ Texas ra đi.
- Tớ nói cho hắn biết bị một tên đánh đập tàn nhẫn từ lúc sập tối, ta cho hắn xuống đia ngục. Tớ nói "Ta cho đứa con hắn theo xuống địa ngục, quỷ Satan ở lại với ta, còn ta quất vô đít mi".
Mouse cười nhạt, gục đầu xuống quầy bar, ngủ khò. Tôi lặng lẽ mở ví sợ động đến người say, rút ra hai tờ giấy bạc, xong rồi trở lại khách sạn. Tôi đón xe buýt đi về Los Angeles trước lúc rạng đông.
° ° °
Tôi nhớ lại một quãng đường đời vừa trải qua. Đêm đó nằm mơ thấy mình là địa chủ làm lụng để có tiền trả nợ.
- Này Junior, - tôi nói - Gần đây bọn con gái da trắng có ghé vô quán bar phải không?
- Sao cơ? Cậu đinh tìm ai? - Junior nghi ngờ cũng phải.
- Phải đấy... hình như là…
- Hình như là muốn tìm ai! Bao giờ cậu muốn đi tìm?
- Cậu biết đó, Ồ không, tớ có nghe nói về người con gái này. Ờ... Delia hay Dahlia gì đó. Tớ còn nhớ chữ đầu là "D". Vả lại tóc nàng vàng hoe, mắt xanh người ta nói nàng cũng đẹp gái lắm.
- Không biết tớ còn nhớ không kia:.Tớ còn nhớ bọn con gái da trắng đến đây vào ngày cuối tuần, không đi một mình đâu. Tớ mất chỗ làm cũng vì lỡ ghẹo gái.
Tôi chợt nhớ ra Junior đang nói dối tôi. Thậm chí hắn biết câu trả lời hắn cũng sẽ giữ im lặng. Tính của Junior là căm ghét những ai tỏ ra có trình độ hơn hắn. Junior ghét đời, ghét người.
- Thôi được nếu cô nàng có đến đây tớ sẽ gặp. - Tôi nhìn khắp căn phòng. - Kìa có một chiếc ghế gần chỗ ban nhạc, tớ sẽ đến đấy.
Junior đưa mắt để ý nhìn theo lúc tôi vừa bước đi khỏi chỗ ngồi. Hắn chẳng giúp gì cho tôi, tôi cũng chả cần dòm ngó tới hắn.
5.
Tôi nhìn thấy một chiếc ghế trống gần chỗ ông bạn Odell Jones. Odell tính người trầm lặng là một tín đồ ngoan đạo. Dần hắn trông giống như quả hồ đào. Dù là một kẻ tôn sùng Thượng đế nhưng mỗi tuần hắn lại mon men đến quán John ba, bốn lần. Hắn ngồi tới nửa đêm chỉ với một chai bia, lặng lẽ một mình chỉ trừ khi có ai tới gạ chuyện.
Với Odell như vậy là đủ say sưa nên hắn cứ thế mà giữ việc bảo vệ trường học Pleasant Street. Hắn chỉ mặc mỗi chiếe áo jacket may bằng vải tuýt xám, một chiếc quần len nân cũ mèm.
- Kìa Odell, - tôi cất tiếng chào hắn. - Tối nay thế nào?
- Chà, - hắn chậm rãi nói, nghĩ ngợi - Tối nay chắc là vui lắm chứ.
Tôi cười vỗ vai hắn. Thân hình hắn gầy nhom xô tới muốn nghiêng qua một bên, hắn cười nhìn tôi rồi ngồi ngay ngắn lại. Trong số bạn bè thì Odell lớn hơn cả bọn gần cả hai chục tuổi, hắn xấp xỉ tuổi năm mươi. Qua hai đời vợ. Mất ba trong số bốn đứa con.
- Tối nay thấy thế nào, Odell?
- Hai tiếng trước đây, - hắn vừa nói vừa gãi tai. - Con bé béo Wilma Johnson vô đây với Toupelo nhảy nhót tưng bừng. Nó nhảy tung người rung chuyển cả gian phòng.
- Con bé Wilma này thích nhảy nhót, - tôi nói.
- Tớ chẳng hiểu sao nó nặng ký vậy, khi làm cũng như chơi trông nó nặng nề làm sao.
- Nó ăn cũng mạnh lắm.
Câu nói này làm Odell mắc cười.
Tôi dặn hắn giữ dùm chỗ ngồi để đi một vòng chào mọi người.
Tôi hỏi thăm từng người có ai nhìn thấy cô nàng da trắng vô đây, nàng Delia hay Dahlia gì đó. Tôi không nói tên thật ra bởi vì ngại người ta nghi tôi có dính líu tới nàng, cũng phòng khi lão Albright làm điều sai trái hoặc có chuyện lôi thôi. Nhưng không ai nhìn thấy nàng. Tôi còn định hỏi cả tay Frank Green nữa nhưng lúc tìm đường tới chỗ quầy bar thì gã đã bỏ đi đâu mất.
Tôi quay lại bàn thấy Odell còn ngồi đó chờ hắn cười nhìn tôi.
- Nàng Hilda Reed tới rồi kia kìa, - hắn nói cho tôi nghe.
- Vậy à?
- Lloyd định gỡ gạc bị cô nàng tống ngay vô cái bụng phệ làm cho gã muốn khuyu xuống sàn. - Odell diễn tả điệu bộ của Lloyd giả vờ phùng má trợn mắt.
Cả bọn ngồi cười, chợt nghe tiếng la lớn, ngay cả Lips cũng phải buông tay kèn ngước nhìn.
- Kìa Easy!
Odell ngước nhìn.
- Easy Rawlins, cậu đấy hả?
Một gã cao lớn đang bước vô trong quán. Gã mặc bộ đồ vét sọc xanh, đội chiếc mũ cao bồi. Gã là một tên da đen cười nhe hàm răng trắng muốt, bộ điệu bề thế, bước đi ngang qua chỗ đông người giữa những câu chào hỏi dồn dập huyên náo, gã chen chân tới được chỗ bọn tôi đang ngồi.
- Easy! - gã cười. - Có phải cậu từ trên cửa sổ bay xuống đây?
- Chưa đâu, Dupree.
- Cậu biết Coretta chứ?
Tôi nhìn theo thấy nàng đứng phía san Dupree, nhìn ra tôi cứ tưởng món đồ chơi trẻ con chất trên xe dắt theo.
- Chào Easy - nàng khẽ cất tiếng chào.
- Kìa Coretta, em khỏe chứ?
- Khỏe, - nàng lặng lẽ đáp. Nàng nói nhỏ đến nỗi tôi cũng ngạc nhiên vì sao mình nghe được cân trả lời của nàng giữa một rừng tiếng nhạc và tiếng ồn như thế. Cũng có thể là tôi chẳng nghe được gì cả chỉ thấy nàng nhìn tôi và mỉm cười nên đoán ra câu đáp của nàng.
Giữa Dupree và Coretta là cả hai thái cực. Gã lực lưỡng, cao lớn hơn tôi, giọng nói oang oang, cung cách thân mật cởi mở, Dupree là một anh chàng lanh trí vậy mà lúc nào cũng túng thiếu vì rượu và gái.
Nàng Coretta còn khác thường hơn. Nàng lùn tịt, người tròn quay, nước da bồ quân, mặt mũi tàn nhang đủ chỗ. Nàng thích chọn thời trang để khoe bộ ngực. Nàng Coretta có đôi mắt xếch. Mỗi khi nàng nhìn tạo cảm giác như đang mơ màng vô định, nhưng bạn vẫn có cảm tưởng rằng nàng đang nhìn về phía mình. Nàng là đối tượng của những tay chơi phù phiếm.
- Lâu lắm không thấy cậu trở lại hãng xưa, Easy, - Dupree nói - Không có cậu ở đó mọi chuyện khác trước. Bọn cng cần một món tiền để lo trả nợ cầm cố và để lo miếng ăn. Tôi cần có nhà để trú thân, một nơi để nuôi dạy con cái. Tôi còn lo sắm quần áo để đi chơi pool, chơi bi da rồi đi lễ nhà thờ.
Beuny bỏ chân xuống xong rồi đứng ngay dậy.
- Ta phải trở lại văn phòng làm việc. Easy...
- Tôi là ông Rawlins, - tôi vừa nói rồi đứng dậy nhìn hắn. - ông khỏi phải lo giúp tôi có việc làm tôi chỉ cần ông biết tôn trọng tôi hơn trước.
- Xin lỗi, - hắn nói. Hắn định bước đi nhưng tôi dang chân ra chặn lại.
- Tôi nhắc lại. tôi chỉ muốn ông tôn trọng tôi một chút. Bây giờ cho phép tôi được gọi ông là Ngài Giacomo, đúng tên cúng cơm của ông. Tôi với ông không phải là bạn bè vậy không có lý do gì ăn nói vô lễ với ông, gọi ngay tên riêng của ông ra. - Nói xong tôi chỉ tay vô ngực. - Hãy gọi tên tôi là ngài Rawlins.
Hắn nắm chặt tay lại nhìn thẳng ngực tôi như một tay võ sĩ. Tôi biết hắn nghe thấy giọng nói tôi run run. Hắn phải biết ngay lúc này một trong hai người sẽ ra đi nếu hắn nhào tới. Có ai biết được? Biết đâu hắn mới nhận ra chính hắn đã nghĩ sai.
- Tôi xin lỗi, ông Rawlins - hắn cười nhìn tôi - Hiện không còn chỗ trống nào hết. ông ráng chờ mấy tháng nữa rồi trở lại đây, khi dây chuyền sản xuất mới vận hành.
Nói xong hắn mời tôi ra về. Tôi lặng lẽ quay đi.
Tôi nhìn quanh tìm Dupree nhưng chẳng thấy hắn đâu, bên trong trạm cũng không. Tôi lấy làm lạ dù sao cũng thấy vui trong bụng vì mình vẫn còn nghĩ tới hắn. Tôi nghe hơi thở mình phập phồng như muốn bật ra một tiếng cười. Tôi đã trả xong hết món nợ và cảm thấy chính mình có thể tự đương đầu với hoàn cảnh. Lúc bước ra tới chỗ bãi xe tôi chợt liên tưởng đến khái niệm thế nào là tự do.