Từ xa anh nhìn thi thể nàng. Anh đã vòng qua nhà thờ, vượt qua nghĩa trang và bây giờ anh chẳng dám cử động. Anh nhớ gì đau đớn, và anh bám vào ý nghĩ đó với một sự thất vọng. Nàng không có thời gian để mà rên siết, cũng như Leriche, anh ta cũng té như cô nàng, đầu đập xuống đất, không có thì giờ để kịp đau đớn? Người ta biết được gì khi Leriche té dập nát người ở lề đường, máu loang lổ khắp nơi. Flavières kiệt sức. Anh đã thấy những gì còn lại của bạn anh ở nhà thương. Anh đã cầm trên tay bản phúc trình của bác sĩ. Tháp chuông nhà thờ chắc chắn phải cao hơn nóc nhà nơi Leriche té. Anh tưởng tượng cú va chạm thật kinh hãi, tiếng động một loạt chất nổ xoay tròn lương tri con người giống như mảnh vở của tấm gương dễ bể và thanh sạch bay thành những mảnh nhỏ. Không còn gì ở Madeleine ngoài thân xác bất động được ném xuống cạnh tường như một cánh quạt. Anh tiến đến gần nàng một cách sợ sệt, bắt buộc phải nhìn, phải đau khổ vì chính anh phải chịu trách nhiệm tất cả. Qua hàng nước mắt, anh nhìn thấy thi thể nàng một cách mơ hồ, đám cây gai đã bị ngã rạp xuống, mớ tóc đẹp màu hoe vàng tung tóe, đẫm máu, cái óc trần, mấy ngón tay được đánh bóng, một chiếc nhẫn chói sáng và những đám đồ vung vãi có một chiếc quẹt máy. Anh nhặt chiếc quẹt máy và nếu đủ can đảm anh đã lấy luôn chiếc nhẫn để mang.Eurydice khốn khổ. Không bao giờ nàng còn có thể vượt qua vực thẳm mà nàng muốn tự biến mất. Anh bước lùi ra xa chầm chậm, như chính anh đã ám hại nàng. Tự nhiên anh cảm thấy sợ sệt hãi hùng đang vây quanh bởi lủ quạ.Anh trốn chạy bên những nấm mồ, tay mân mê chiếc quẹt máy vàng. Anh gặp nàng trong một nghĩa địa, và anh bỏ rơi nàng ở một nghĩa địa. Và đã chấm dứt.Không ai rõ tại sao nàng lại chết, và cũng chẳng ai biết anh có mặt tại đó. Anh không can đảm để quẹt qua cánh cửa cầu thang. Anh đến phía sau sân nhà thờ và chui vào xe. Gương mặt phản chiếu từ kính xe khiến anh thấy mình đáng tởm. Anh thấy hận chính cuộc đời mình. Ðịa ngục bắt đầu chính từ đây.Anh lái xe rất chậm, chạy lạc đường và ngạc nhiên khi nhìn thấy nhà ga Pontoise, chạy ngang một người lính hiến binh. Nên hay không nên ghé vào báo động, có thể bị giữ lại? Nhưng mà luật pháp không sao truy cứu được anh. Chắc người ta cho anh là một thằng điên. Vậy phải làm sao? Nã một phát đạn vào đầu? Không thể được? Chưa không nào anh có sức làm vậy. Từ đây anh phải thú nhận mình là một thằng hèn, và không thể đổ tội do bị chóng mặt, chính ý chí anh đã bị chóng mặt. A! Madeleine đã có lý. Là một con vật mà thú vị hơn.Cứ nhai đi nhai lại rồi bi đưa đến lò mổ và lãnh một búa vào đầu rồi yên chuyện. Anh trở về Paris qua ngõ Asnières. Lúc ấy là sáu giờ chiều, dù sao thì cũng báo cáo cho Gévigne. Anh dừng xe trước một quán cà phê ở đường Malesherbes. Anh vô nhà vệ sinh, rửa mặt chải đầu và gọi điện thoại. Tiếng nói đầu dây cho biết là Gévigne đi vắng và giờ này chưa chắc đã có mặt ở văn phòng.Anh kêu một ly rượu mạnh về uống tại quầy. Nỗi buồn làm anh cảm thấy say, anh có cảm giác như đang lặn hụp trong bồn cá, và gương mặt những người chung quanh như những con cá. Anh uống thêm ly thứ hai. Thỉnh thoảng anh lại lặp đi lặp lại: Madeleine đã chết rồi, và dường như chẳng có gì ngạc nhiên, và anh biết rõ mình đã mất nàng. Chắc cần phải có nhiều sức lực, nhiều sinh lực để cung cấp cho cuộc sống.Anh đã cứu nàng thoát chết một lần. Biết làm sao bây giờ? Anh không đáng bị trách cứ, ngay cả khi anh đi vào được bên trong, cũng là trễ thôi. Nàng muốn chết quá đỗi. Gévigne là con người bị lừa. Thế thôi chấm hết. Lẽ ra anh ta phải tìm một người nào đó thật hấp dẫn, cực kỳ nghệ sĩ, một người vui tươi. Anh lại chọn một kẻ nhỏ nhen, chỉ lo cho mình nhiều hơn cho người, một kẻ tội đồ của quá khứ. Mặc kệ, Flavières trả tiền và ra đi. Anh lái xe chầm chậm về phía quãng trường Etoile. Tay anh nhịp nhịp vào tay lái nơi đây nàng mới vừa cầm.Anh thèm được như những nhà tiên tri, chỉ cần chạm vào một khăn tay, một bì thơ là có thể đọc được những ý nghĩ sâu kín trong người khác. Anh muốn biết những nỗi âu sầu cuối cùng của Madeleine, hay đúng hơn là tâm sự bí mật cuối cùng của đời nàng. Nàng lìa đời không đắn đo, rớt xuống đất, mặt đi trước, tay giang ra, như được ôm trọn, như để tiến sâu vào lòng đất. Nàng không chạy trốn. Nàng trở về với cái gì đó, chứ không phải chạy trốn. Anh có cảm giác nàng bất ngờ lìa bỏ anh đi tìm một lối thoát thứ hai. Anh đã sai lầm khi uống rượu, tiếng gió thổi bên tai đã làm những ý nghĩ trong đầu anh tản mác, bay đi như những mảnh giấy vụ của lá thư bị xé rách. Anh quẹo về phía đường Kléber và chiếc Simca phía sau chiếc Taltbot màu đen của Gévigne. Anh sẽ khỏi phải sợ Gévigne nữa vì đây là lần sau chót có việc với anh ta. Anh bước lên cầu thang có trải thảm đỏ trên màu cẩm thạch trắng một cách trịnh trọng. Tấm bản đồ đề tên Gévigne dằn trước cánh cửa phòng. Anh nhấn chuông, cằm hạ thấp xuống trước khi mở cửa. Anh làm ra vẻ từ tốn.- Ông Gévigne. Thật sự cần gặp.Ðây là nhà của Madeleine. Anh đưa mắt nhìn các vật dụng, từ màn cửa sổ, các đồ chơi trang trí như muốn giả biệt chúng lần chót, những bức tranh ở phòng khách khiến anh xúc động bởi lối sống lạ lùng của chúng. Chúng gần như đại diện cho đủ loại thú vật, kỳ lân, thiên nga, các loại chim chỉ có trên thiên đường, nhắc ta nhớ đến Douanier Rousseau. Flavières đến gần đọc chữ ký phía dưới: Mad. Gév. Phải chăng đây là khách mời của thế giới khác. Nàng đã thấy ở đâu cái đầm lầy u tối này, những đoá bông súng giống như những chiếc cúp đựng đầy thuốc độc. Khu rừng này với loại áo giáp bằng những thân cây to lớn giấu đằng kia dây leo. Phía trên lò sưởi có bức tranh một thiếu phụ cổ hơi gầy đeo một sợi dây chuyền màu vàng đứt khúc. Pauline Lagerlac, cách bới tóc của Madeleine. Gương mặt âu sầu diễn tả một sự vắng xa, vừa suy nhược, dường như linh hồn nàng đau đớn đang chống chọi lại với những trở ngại chỉ riêng nàng rõ. Cánh cửa mở ra, Gévigne reo lớn:- À, anh.Flavières nhíu mày, và trong một giây, anh lấy giọng nghiêm chỉnh nói:- Bà có nhà?- Sao? Anh phải biết cô ấy làm gì?Flavières uể oải ngồi xuống ghế salon, anh không cần phải cố làm ra vẻ mệt mỏi. Anh thở ra, lòng nghĩ:- … À!Chúng tôi không đi chung với nhau. Tôi đợi bà ta ở quãng trường Etoile tới 4 giờ. Sau đó tôi đến khách sạn ở Saints. Pères, và nghĩa địa Passy.Tôi vừa về... Nhưng anh lại cố cất giọng hỏi:- Bà có nhà?Anh ngước mắt nhìn Gévigne, mặt tái mét, mắt gã như muốn lồi ra, miệng há hốc như người bị cắt cổ, gã lắp bắp:- Nhưng Roger, sao vậy. Ðâu thể như vậy được.Flavières giơ hai tay lên:- Tôi lặp lại là tôi đã tìm bà ấy khắp mọi nơi.- Không thể được. Anh biết rõ là...Gã nhịp chân xuống tấm thảm, tay khoanh lại, cuối cùng ngồi phịch xuống ghế:- Phải đi tìm nàng ngay. Ði ngay. Tôi không làm sao chịu đựng nỗi nữa.Gã đấm tay xuống thành ghế, vẻ giận dự đau khổ, khiến Flavières cũng ảnh hưỡng lây. Anh nói:- Khi một người đàn bà muốn trốn tránh thì khó lòng giữ nổi.- Trốn tránh! Bộ cô ấy là một người cần phải chạy trốn hay sao. Chắc giờ này nàng...Gã đứng dậy, đụng phải chiếc bàn nhỏ, đi đến và chống tay vào tường, vai oằn xuống, đầu ngoẻo qua một bên, như một tay võ sĩ đang thủ thế.- Trong trường hợp này phải làm gì đây. Flavières anh rõ đó. Báo cảnh sát? Anh nói gì đi chứ?Flavières càu nhàu:- Báo cảnh sát để người ta cười vào mũi anh ư? Trường hợp bà ta đi vài ba ngày thì hãy đi báo...- Nhưng anh quen cảnh sát. Nếu anh giải thích họ rõ là cô ta có ý định tự tử... Rằng anh đã từng cứu khi cô ta nhảy xuống sông tự vẩn, và có thể hôm nay nàng lại... Họ chắc phải đi tìm.Flavières gay gắt:- Bây giờ chưa có gì xảy ra. Chắc bà ấy về ăn cơm tối thôi.- Nếu nàng không về?- Vậy thì không cần tôi phải lo các việc.- Anh phủi tay!... Gévigne hét lớn.- Không phải vậy. Anh nên hiểu theo nguyên tắc thì chính người chồng trình báo cảnh sát. Flavières thanh minh.- Ðược... Tôi đi.- Anh có đến bây giờ thì họ cũng chưa làm việc ngay đâu. Họ ghi chú dấu vết đặc biệt, hứa hẹn làm mọi việc cần thiết và chờ đợi diễn biến của tình hình.Gévigne thọc tay vào túi quần nói chậm rãi:- Nếu phải đợi tôi chắc điên mất. Gévigne đi qua đi lại, bước đến cạnh bình hoa hồng đặt trên lò sưởi nhìn một cách ảm đạm.Flavières nói:- Tôi phải về thôi.Gévigne không động đậy, anh chăm chú nhìn những đoá hoa hồng, gò má giụt giựt. Flavières nói tiếp:- Trường hợp anh không cần phải quá khổ sở. Bây giờ mới hơn bảy giờ. Có thể bà ấy đang mua đồ đâu đó, hay hẹn gặp gỡ người quen.- Anh điên rồi. Chắc chắn anh điên thôi. – Gévigne lộ vẽ bất bình.Anh đứng giữa phòng khách, kiên nhẫn giải thích cho Gévigne những biện pháp cấn thiết mà cảnh sát áp dụng để truy lùng một người chạy trốn. Anh có vẽ phấn chấn, mặc dầu hết sức mệt mỏi. Anh có cảm giác là trong một thoáng Madeleine không làm sao trốn được, và đồng thời muốn nằm xuống tấm thảm ngủ một giấc để cho nổi chán chường gặm nhắm trái tim không yên bình của mình.Gévigne bất động, dường như đang mơ màng trước bình hoa. Cuối cùng Flavières nói:- Khi nào chị về, anh nhớ điện cho tôi.Anh ra cửa. Anh không làm chủ được mặt mình, anh cảm thấy như sự thật sắp thoát ra từ cửa miệng của anh, và anh có thể la lớn trước khi ngã quỵ”. Nàng đã chết rồi, đã chết rồi!”Gévigne nói nhỏ, yếu đuối như một đứa nhỏ cầu xin sự che chở của người lớn:- Anh ở lại...- Tôi không muốn lắm. Nhưng nếu anh rõ công việc của tôi. Còn cả chục hồ sơ mà tôi phải giải quyết. – Genigne khẩn cầu.- Anh ở lại. Tôi không muốn ở lại một mình khi người ta đưa nàng về.- Paul anh nghĩ vậy rồi ư?Sự bất động của Gévigne thật đáng sợ. Gã chồng đau khỗ nói tiếp:- Anh ở lại. Anh không cần giải thích họ rõ là cả hai đã tranh đấu cả hai… - Vâng, đúng vậy, nhưng không ai đưa nàng về. Anh tin tôi.Giọng nói Flaviêres bướng bỉnh. Để tranh thủ anh rút khăn che miệng ho khan:- Gévigne, anh yên tâm đi, không có chuyện gì xảy ra đâu. Nếu có tin gì anh điện cho tôi.Tay cầm nút cửa anh dừng lại. Gévigne cằm hạ gần đụng ngực, đờ đẫn.Flavières ra đóng cửa nhè nhẹ. Anh thấy chán chường, nhưng nhẹ nhõm vì điều khó khăn nhất đã được vượt qua. Bây giờ thì anh cũng chẳng còn chuyện gì liên quan đến Gévigne, và về nỗi khổ của gã? Anh đã đau khổ nhiều chứ không sao?Anh tự thú nhận như vậy khi mỡ cánh cửa xe. Ngay từ đầu anh chẳng tự coi mình là một người chồng thật sự của nàng là gì. Gévigne chỉ là một kẽ lừa đảo.Anh sẽ không bao giờ thuật lại cho cảnh sát, những cựu đồng nghiệp của anh, kể lại một người đàn bà đã tự vẫn chỉ vì mình thiếu can đảm. Ta không thể từ bỏ lần thứ hai danh dự của mình cho một kẽ không ra gì... Không – Im lặng – An bình. Những thân chủ Orléans là cơ hội để anh rời khỏi Paris. Không rõ bằng cách nào anh đã lái được chiếc Simca vào gara.Anh đang đi vô định trên một con đường tỉnh lỵ này vào buổi chiều xanh thẫm, một chiều chiến tranh. Tới một ngã tư đường một đám đông đang tụ tập quanh một chiếc xe mui trần chở hai tấm liệm. Ai nấy điều có vẽ rời rạc. Thị trấn đang đi vào màng đêm, mọi ánh sáng điều tắc lịm, không một tiếng động.Nhiều nơi hoang vắng đến tê tái. Tất cả điều có vẽ chết chóc. Flavières đi vào một quán nhỏ đường Saint Honoré, chọn một bàn bên trong. Người bồi hỏi:- Ông dùng cơm phần hay theo thực đơn - Cơm phần.Anh cần ăn và cần tiếp tục sống như lâu nay. Anh thọc tay vào túi quần và chạm phải cái quẹt máy. Hình ảnh Madeleine hiện ra trước mắt anh, giữa tấm nắp bàn trắng. Anh suy nghĩ: Nàng không yêu ta. Không yêu ai cả.Anh dùng một đĩa xúp một cách máy móc, vét sạch như một nhà tu khổ hạnh. Anh cấn sống như một người nghèo khó, vùi sâu vào niềm tan tóc, cực nhọc để tự hành hạ mình. Anh muốn mua một cây roi mây để tự đánh mình mỗi chiều. Anh cần tự nguyền rủa mình để xứng đáng những gì mình cần gánh chịu.Anh nói bồi:- Phòng tuyến Liège bị thủng rồi.Dường như quân Bỉ đã rút hồi 14- 18. Flavières đáp:- Chuyện radiô một đèn.Liège ổ quá xa nơi đây. Cuối bản đồ nước Pháp. Nó không ăn nhậu đến anh.Cuộc chiến này chỉ là một lớp nữa trong cuộc chiến cấu xé anh.Anh bồi cho biết người ta thấy gần công trường Concorde một giàn radar.Flavières hầm hừ: Vậy rồi sao?Không ai để anh được bình yên, Lính Bỉ! Tại sao không là quân Hà Lan? Ðồ ngốc nghếch! Anh ăn ngấu nghiến mấy miếng thịt bò. Nó hơi dai, nhưng mặc kệ, giờ đây anh đã quyết định không phàn nàn, tự đóng khung trong nỗi khổ để tự hành hạ mình. Ăn gần xong bữa, anh còn uống thêm hai ly rượu mạnh, và đầu óc anh dần dần sáng sủa. Chống tay trên bàn, anh bật chiếc quẹt máy để hút thuốc có âm hưởng của Madeleine. Anh giữ nàng lại trong ký ức. Anh hiểu ra rằng Madeleine không phạm phải lầm lỗi nào trước khi nàng lấy chồng. Giả thuyết này thật ngớ ngẩn. Gévigne chắc chắn cũng đã thăm dò trước khi quyết định cưới nàng. Mặt khác, nỗi day rứt của Madeleine chỉ về sau mới nảy sinh ra, bởi nhiều năm trước nàng vẫn bình thường. Tất cả chỉ khởi sự vào đầu tháng hai năm nay. Chắc chắn là như vậy.Flavières bật nút và nhìn ánh lữa mong manh trước khi thổi tắt. Thỏi thép của bật lữa làm nóng tay anh. Không chắc chắn là những lý do của Madeleine không thể về khi cứ bám vào các câu hỏi tại sao? tại sao? Nhưng anh quyết định giữ mãi vấn đề trong trí nhớ và sẽ có một ngày làm sáng tỏ. Một ngày nào đó nhất định anh sẽ chọc thủng tấm màn bí mật Lagerlac này. Anh linh cảm như vậy. Anh tưởng tượng như một tu sĩ, trong phòng tối, quỳ dưới đất, nhưng không phải một thập giá treo trên tường, mà là ảnh của Madeleine, bức ảnh ở văn phòng Gévigne. Anh nhíu mày, nhăn trán và gọi bồi tính tiền. Quỷ tha ma bắt cần phải thẳng tay hành động mới được. Cấm khủng bố. Ðiều nảy nằm trong phần trừng phạt. Anh đi ra.Màn đêm buông xuống. Ánh sao sáng chiếu trên những ngôi nhà cao tầng.Vài chiếc xe chạy ngang, đèn được che chắn bởi ánh sáng. Anh chưa quyết định quay về nhà. Anh nghi ngờ cú điện thoại đã khám phá ra xác của Madeleine. Anh không giận dữ, cũng không thấy mệt mỏi, một thân xác mà theo anh là có trách nhiệm với bao tai ương. Anh đi bừa trong cơn hỗn loạn. Nỗi tan tóc này, anh cần phải khám phá trọn đêm nay. Đây là vấn đề tự trọng và hơn thế nữa. Ở nơi mà Madeleine đã ra đi, chắc nàng cũng đang cần một nỗi niềm thân hữu. Ôi Eurydice bé nhỏ,… nước mắt anh chảy ra, anh muốn đến chốn hư vô để gặp nàng, ít nhất là trong đêm nay. Nhưng anh chỉ gợi nhớ được cảnh cổ mộ tựa như cái thành phố không có ánh sáng này. Những bóng đêm phủ xuống mặt anh và mất dần trên đường phố, và con sông với từng đợt sóng đen dọc theo những kẽ sông không còn tên tuổi. Anh đi quanh quẩn trong đêm. Dường như đất của người sống cách đâu đây xa lắm. Nơi đây toàn là kẻ chết. Những con người cô đơn ám ảnh bởi quá khứ. Họ đi đi, lại lại, mỗi người nhớ lại hạnh phúc xa xưa. Có người dừng lại nghiêng mình ngó dưới nước, kẽ khác đi về gấp rút nhưng không có lí do. Tất cả mọi người như đang chờ đợi sự phán xét cuối cùng.Anh bồi vừa nói gì ban nãy. Đức đã đánh thủng mặt trận Liège.Flevières ngồi xuống băng đá, quàng tay qua thành ghế, ngày mai anh sẽ ra đi. Đầu quẹo qua anh nhắm mắt nghĩ ngợi. Anh ngủ cằm xệ xuống, như một tên bụi đời trong phòng giam sở cảnh sát. Một lúc sau anh thức dậy vì quá lạnh.Vọp bẻ, anh rên rỉ như khi làm tình, đứng dậy và nhất đi. Anh run lập cập.Miệng khô queo nhấm nháp bằng nổi lo âu. Những ngọn đồi trắng, những khúc đường dốc, những mái nhà và những đổ vỡ kỳ cục trong cái ống khói nhỏ nhô ra từ vách bình minh.Flavières đi vào một quán cà phê vừa mở cửa. Đài phát thanh cho hay tình hình xáo trộn và pháo binh đang phá vỡ vài mũi pháo binh của địch. Anh lại ăn bánh Croisants chấm cà phê và đáp xe lửa đi về.Vừa khép cửa lại điện thoại reo lên:- Phải anh không Flavières?- Phải.- Cô ấy đã chết đứng như tôi nghĩ.Tốt nhất là im lặng, đợi nghe tiếp - Thật khó chịu khi nghe hơi thở dồn dập bên tai. Flavières tự nhủ.- Đúng như tôi dự kiến chiều hôm qua. Một bà già đã bắt gặp nàng dưới chuông nhà thờ Saint- Nicolas. - Giọng Gévigne thản thốt.- Nhà thờ thánh Nicolas ở đâu? – Flavières vờ vĩnh.- Ở phía bắc Nanter, một ngôi làng nhỏ ở giữa Sailly và Drocourt. Thật vô lý.- Chị làm gì ở đó?- Nàng nhảy từ trên tháp chuông xuống và nằm chết ở nghĩa trang. Xác được mang về nhà thương Nanter.Flavières thều thào:- Tội cho anh. Anh đến đó chứ!- Tôi vừa ở đó về. Tôi đến ngay lúc ấy. Tôi điện thoại nhưng anh đi vắng.Tôi vừa mới về nhà. Tôi có vài việc cần làm gấp. Hiến binh hiện đang mở cuộc điều tra.- Đương nhiên nhưng vụ tự tử rõ rệt.- Khó giải thích tại sao nàng lại đến nơi xa xôi như vậy, tại sao nàng lại chọn gác chuông này. Tôi không muốn thuật lại cho họ nghe tất cả về nàng.- Họ sẽ không hỏi hang gì nhiều nửa đâu. – Flavières khẽ trấn an.- Đúng vậy nếu có lúc ấy thì tốt biết mấy.- Không thể được. Tôi có việc ở Orléans và không thể trì hoãn được. Khi trở về nhất định sẽ gặp anh.- Anh đi vắng bao lâu.- Chỉ vài ngày thôi, hơn nữa anh đâu cần gì tôi.- Tôi sẽ gọi lại anh. Tôi muốn anh đến dự tang lễ nàng.Phía đầu dây bên kia Gévigne thở hổn hển như vừa chạy nước rút.Flavières giọng chân thành:- Tội nghiệp anh.Rồi hạ thấp giọng hỏi:- Chị không xây xát nhiều chứ?- Không chỉ có gương mặt tội nghiệp của nàng. Nếu anh thấy cũng sẽ đau lòng.- Can đảm lên tôi cũng buồn lắm...Anh đặt ống nghe xuống, tay chống vào tường, đi lần về phía phòng ngủ, miệng lặp đi lặp lại. Tôi cũng vậy. Tôi cũng vậy và kiệt sức ngã xuống giường thiếp đi.Sáng ngày hôm sau, bằng chuyến tàu đầu tiên anh rời Paris đi Orléans. Anh không còn đủ can đảm để lái xe. Những tin tức ở mặt trận không có gì phấn khởi. Báo chỉ đăng chi tiết lớn – Quân Đức tấn công dữ dội. Giao chiến ác liệt ở Liège, nhưng mơ hồ lấp lững, và người ta bắt đầu bớt lạc quan, Flavières ngủ vùi trong góc một toa xe lửa. Anh có vẽ hoàn chỉnh, nhưng bên trong anh cảm thấy mình bị tàn phá, rã rời, cháy xám bởi một cơn hoả hoạn tấm hồn. Anh chỉ còn một đống đổ nát, bốn bức tường dựng đứng, chung quanh một đống hoang tàn. Hình ảnh nuôi dưỡng sự thống khổ trong anh, làm anh chịu đựng được. Anh bắt đầu tôn trọng sự thách thức này. Ở Orléans anh thuê phòng khách sạn trước ga xe lửa. Khi xuống dưới nhà mau thuốc lá, anh bắt gặp chiếc xe ô tô chở người tị nạn đầu tiên. Chiêc Buick, chở từng thùng đồ bụi bặm, mấy bà đang nằm ngủ ở trong xe. Anh đến thăm thân chủ, những câu chuyện của họ chỉ xoay quanh cuộc chiến. Ở toà án, người ta kháo nhau lá binh đoàn Corap đã bỏ chạy. Người ta trách cứ sao quân Bỉ lại hoảng sợ. Người ta nhắc lại vụ nổ súng ba ngày đêm ở Nanter.Flavières thích thú ở Orléans, mỗi chiều dạo bên bờ sông ngắm nhìn lủ chim cú tắm nắng. Nhà nào nhà nấy điều mở đài. Ở vỉa hè các quán cà phê, mọi người điều có chung một căn bệnh bí mật, trong khi bầu trời đang đến ôm chầm lấy bầu trời kia thị trấn Loire, ở Paris hiện giờ ra sao? Madeleine chắc giờ đã an táng rồi. Gévigne đã đi Havre, Flavières đôi khi đặt ra câu hỏi, với mọi dè dặt như một người vừa khỏi bệnh mở băng vết thương đặng quan sát vết thẹo. Phải, anh vẫn còn đau khỗ. Nhưng sự kích động lúc đầu đã nhường chỗ cho sự tê tái, đau đớn nhức nhối. May thay chiến tranh đã làm cho nó phân tán. Bây giờ người ta được biết là đạo binh thiết giáp của Đức đã chọc thủng phòng tuyến Arras và vận mệnh tổ quốc đang lâm nguy. Mổi ngày về phía nam. Người ta lặng lẽ nhìn đoàn xe đi qua mà cõi lòng trống rỗng. Thị trấn mỗi ngày một thêm dơ dáy bụi bặm. Người ta thập thò dò hỏi những người bị nạn mà Flavières khám phá ra khắp mọi nơi hình ảnh tan vỡ của mình. Anh không còn sức trở về Paris.Một cột báo đã đập vào mắt anh khi anh đang uống cà phê sáng. Một tít ở trong tù cho biết cảnh sát đang điều tra về cái chết của Madeleine. Gévigne bị cảnh sát điều tra. Thật đáng sửng sốt, thật khiếm nhã. Sau những tin tức ở trang nhất, những hình ảnh các thôn làng bị oanh tạc, anh đọc lại bài báo này. Rõ ràng cảnh sát đang loại bỏ giả thuyết tự tử. Cảnh sát còn cả đống chuyện phải làm sao lại tính chuyện đâu đâu. Anh biết rõ Gévigne vô tội. Anh sẽ nói cho họ biết khi tình hình tốt hơn. Hiện giờ xe lửa trật và luôn trễ. Những ngày qua mau, báo chí tập trung thông tin về các cuộc chiến lẻ tẻ tàn phá những cánh đồng lúa ở miền Bắc.Người ta không rõ quân Ðức, quân Anh, Pháp, Bỉ ở đâu. Flavières ít nghĩ đến Gévigne, nhưng tự hứa sẽ lặp lại sự thật khi có cơ hội. Quyết định này tạo cho anh niềm tin vào chính mình, và cho phép anh tham dự nhiều hơn vào cảm xúc của mọi ngươi. Anh tham dự các lễ ở nhà thờ kỷ niệm Hame Jare. Anh cầu nguyện cho nước Pháp, cho Madeleine. Anh không tách rời sự khác biệt về thảm hoạ giũa tổ quốc và nổi khó của riêng anh. Anh điện thoại cho Gévigne, nhưng không có ai bên kia đầu dây. Ga xe lửa Saint- Pieres- des Corp bị oanh tạc.Chết chóc trong tâm hồn, anh lên xe ca xuôi về Toulouse. Anh không biết rằng chuyến đi này dài bốn năm.