Thanh-Khải muốn gặp cô Cúc-Hương mà gặp cho nhiều giờ và gặp chỗ nào yên-tịnh đặng thầy tỏ tâm-sự với cô. Ở nhà thì cô có cha, làm sao tới mà nói chuyện cho được. Giờ cô đi dạy học thì thiên hạ cũng đi làm việc, trên xe địện đông dầy-dầy, không dễ gì mà nói chuyện tình. Duy có cái giờ cô đi về trong trí cô an-ổn, trên xe trống-trải, vì giờ ấy những người làm việc ngoài Sài-gòn họ chưa về, nên có lẽ nói chuyện được.Thầy nghĩ như vậy rồi một buổi sớm mai, thày ra Sài-gòn học chữ Ăng-Lê, thầy lựa chuyến xe điển vô tới Dakao sau khi tan học một lát, thầy mới mua giấy mà về. Thiệt chuyến xe ấy hành khách rải-rác năm bảy người mà thôi. Xe vô tới Dakao thì cô Cúc-Hương leo lên.Vì ái-tình mạnh quá, nó trừ cái bịnh nhút-nhát của thầy được, nên chuyến xe nầy gặp cô thì thầy hăng-hái, mời cô ngồi trước mặt thầy, rồi thầy nói tằng: „Tôi biết nhà cô rồi, tôi biết ông Phán là ông thân của cô nữa”Cô Cúc-Hương chưng-hửng, cô ngó ngay thầy mà hỏi rằng:- Thầy tới nhà em hồi nào? Sao em không hay?- Tôi không có vô. Tôi đi ngang qua đường Cây Quéo, tình-cờ tôi thấy cô và thấy ông Phán đương ở trong nhà, nên tôi mới biết chớ.- Thầy không vô sao thầy biết ba của em làm ông Phán?- Cần gì phải vô nhà mới biết. Mình có tình mình hỏi thăm, mình cũng biết được như vậy chớ.Cúc-Hương nghe nói hai tiếng „có tình” thì cô châu mày.Thanh-Khải bị lửa ái-tình đốt quá, thầy không dè-dặt, thầy nói tiếp rằng: “Tôi lại biết tới cô chưa có chồng nữa a, Phải như vậy hay chồng?”Cúc-Hương day mặt ngó ra cửa sổ, không trả lời.Xe vô tới Bà Chiểu ngừng lại, người xét giấy đi ngang trong xe mà nói rằng: “Chắc phải đậu ở đây mau lắm cũng là nửa giờ đồng-hồ, bởi vì có tin cho hay hai cái xe hơi đụng nhau phía trong nhà việc Bình-Hòa, Ngã Năm bít đường rầy xe điển chạy không được. Phải chờ cò bót ăng-kết, rồi keo hai cái xe hơi cho trống, thì chạy mới đuợc”.Hành-khách trên xe nghe nói như vậy thì lao-nhao lố-nhố, nhiều người leo xuống thả đi uống nước, có người nóng-nảy không chịu chờ, lại mướn xe “thổ-mộ” mà đi.Trên xe chỉ còn có một bà già ngồi đầu trong với Thanh-Khải và Cúc-Hương ngồi đầu ngoài mà thôi. Ấy là một dịp rất may cho Thanh-Khải tỏ bày tâm-sự. Thầy bèn thừa cái địp ấy mà nói đại với cô ráng: “Cô hiểu tại sao mà tôi tìm nhà cô và tôi lập thế mà biết cô chưa có chồng hay không?”Cô Cúc-Hưong lắc đầu.Thầy dụ-dự một hồi rồi nói tiếp nhỏ-nhỏ rằng: “Ấy là vì từ ngày tôi gặp cô một lần đầu, ai xui khiến không biết, mà về nhà tôi hoài-vọng cô hoài. Hơn một tháng nay, bữa nào tôi gặp cô thì trong lòng tôi vui, con bữa nào không gặp nhau thì tôi buồn-bực, ăn ngủ không được. Cách mấy bữa rày tôi lén đón mà đi theo cô coi cô về nhà nào, Nhờ làm như vậy tôi mới biết nhà cô và nhờ tôi hỏi thăm tôi mới biết gốc-tích cô. Tôi hay cô chưa có chồng thì tôi mừng hết sức. Theo lễ nghĩa, nếu tôi muốn kết tóc trăm năm với cô, thì tôi phải cậy mai-nhơn đem trầu rượu đến nói với ông mà xin cưới, chớ đón cô dọc đường dọc sá mà tỏ tình như vầy thì vô phép lắm. Nhưng nghĩ vì hiện bây giờ phụ-nữ đã tấn-bộ, thời-đợi nầy là thời-đợi tự-do hôn-nhơn. Vậy nên tôi muốn dọ trước coi ví như tôi cậy mai-nhơn đến nói mà cô đành hay không, rồi tôi mới dám bước tới”.Cô Cúc-Hương chúm-chím cười mà đáp rằng:- Hôn-nhơn là một việc quan-hệ lắm. Thầy nói như chuyện chơi vậy sao được.- Tôi nói thiệt chớ nào phải nói chơi đâu.- Phàm muốn kết vợ chồng, trước phải biết nhau, biết gốc-tích, biết tánh-tình rồi còn phải chắc trai với gái tâm đầu ý hiệp, phải chắc thương yêu mến trọng nhau rồi mới tính việc trăm năm được. Thầy mới gặp em trên xe điển có mấy lần, dầu thầy dọ biết nhà em chớ thầy chưa rõ tâm ý em, chưa rõ lai-lịch em, mà thầy nói việc hôn-nhơn, thì em e thầy vội quá. Huống chi em mới biết mặt thầy, chớ em chưa hiểu thầy là ai tên gì, nhà ở đâu, mà thầy hỏi ví như thầy cậy mai đến nói, em ưng hay không? Em xin lỗi thầy, thiệt câu hỏi đó em không thể trả lời được.- Cô nói phải lắm. Tôi có vội một chút. Mà tôi xin cô xét lạt giùm, vì tôi quá thương cô nên tôi mới vội như vậy đó.- Tại sao mà thầy thương em?- Không biết tại sao mà mới gặp cô lần đầu, thì trong lòng tôi bắt thương cô liền.- Em xin lỗi thầy, theo ý em tưởng, thì cái thương như vậy đó chưa đủ tánh-chất mà kết hôn-nhơn được.- Tại sao vậy? Chớ phải thương cách nào?- Cái thương mà có đủ tánh-chất cho mình kết hôn-nhơn là thương trầm-tịnh, biết nhau lâu ngày, lần lần trọng đức, mến ý, yêu nết, rồi mới thương kìa, thì cái thương ấy mới lâu dài, dầu trăm năm cũng không phai, không lợt. Chớ thầy mới gặp em, thầy thương liền, rồi thầy nói mà cưới em. Trong một vài tháng sau, thầy thấy tánh em không hiệp với tánh ý thầy, hoặc thầy gặp một cô khác hình vóc ngộ hơn em, rồi thầy phát tâm thương nữa, dường ấy hôn-nhơn là một việc rất tốt mà tự-nhiên nó thành ra một cái hại lớn, hại luôn cả và hai người hoặc trọn đời không biết hạnh-phước là gì, hoặc phải rời-rã chia-lìa, mang nhơ mang nhục.Thanh-Khải nghe mấy lời của cô thì thở dài, ngồi ngẫm-nghĩ một hồi rồi nói rằng: “Có lẽ tôi với cô có duyên-nợ sao đó, nên tôi thấy cô tôi mới đem lòng thương. Chớ từ nhỏ tới giờ tôi chua biết thương một con gái nào. Theo như lời cô nói đó thì tôi hiểu cô không thương tôi chút nào hết!”.Cúc-Hương cười mà đáp rằng: “Thầy nói phải lắm. Em thương thầy sao được. Phận em là gái, em phải de-dặt, nhứt là gái sanh nhằm đời nầy là đời gian-trá xảo-quyệt, nếu gặp ai thương nấy, nếu nghe ai nói cũng tin hết, thì danh-giá của em còn gì mà kể”.Thanh-Khải ngồi buồn hiu, không còn tiếng chi mà nói nữa.Thình-lình trong ga có tiếng tu-hít thổi, hành-khách rùng-rùng leo lên xe rồi xe rút chạy.Thanh-Khải bộ càng buồn-bực hơn nữa. Cúc-Hương tuy vậy có lẽ cô động lòng nên cô nói rằng: “Em xin thầy đừng phiền em. Vì bởi thầy cho em là gái tân-thời, thầy lấy thiệt tình mà tỏ tâm-sự cho em nghe, nên em phải lấy thiệt tình mà đối-đãi lại với thầy. Xin thầy về xét lại coi những lời em nói với thầy đó phải hay là quấy”.Thanh-Khải gặc đầu đáp rằng: “Cô nói phải lắm chớ. Cô có biết tôi là ai đâu. Còn tình tôi thương cô thì cô cũng không biết thiệt hay là giả, thế thì cô làm sao mà thương tôi được, vậy tôi xin cho cô biết tôi tên là Bành-Thanh-Khải, năm nay 25 tuổi, nhà tôi ở Gò-Vấp, ở theo đường qua An-nhơn. Cha tôi hồi trước là Khách-trú, còn mẹ tôi là An-nam, song hồi tôi lọt lòng thì cha tôi đã chết, nên thuở nay tôi ở với mẹ tôi. Cha tôi có để lại cho tôi được 50 mẫu ruộng, còn mẹ tôi bây giờ có vốn trúc 10 muôn. Tôi học chữ Tây đã đủ dùng, bây giờ tôi được học tiếng Ăng-Lê đặng đủ tư-cách ngày sau buôn-bán. Gốc-gác và địa-vị của tôi như vậy đó. Thiệt tôi không phải thuộc về hạng sang giàu, song tôi hứa chắc, tôi sẽ làm sao cô được sung-sướng, được yêu-mến trọn đời. Nếu cô chê thì tôi nhứt-định trọn đời tôi không thèm cưới vợ”.Cúc-Hương cười rồi ngó lơ ra cửa sổ, không trả lời.Xe tới ga Xóm Gà, cô đứng đậy, cúi đầu từ-giã thầy mà leo xuống rồi đi tuốt, không ngó lại, Thanh-Khải ngồi trên xe dòm theo, mặt mày buồn xo. Xe vô tới Gò-Vấp, thầy leo xuống rồi thủng-thẳng đi bộ mà về nhà, tướng đi dật-dờ tâm-thần bất định.Ðường Gò-Vấp qua An-Nhơn, ra khỏi chợ chừng 100 thước, bên phía tay mặt có một cuộc ở rộng-rãi, cao-ráo, sạch-sẽ, đẹp-đẽ, ai đi ngang cũng phải trầm-trồ. Một miếng đất chừng nửa mẫu mặt tiền dựa đường, đài lối 50 thước, bề vô chừng 100 thước. Bề dọc theo lộ thì gắn hàng rào chữ thọ đúc bằng sạn, còn ba phía kia thì xây tường giáp hết, tường bề cao chừng 2 thước rưỡi.Chính giữa có làm một cái cửa ngõ lớn, cánh bằng sắt bông gắn vào cây cột gạch vuông, trên đầu cột có cậm lồng đèn lục giác. Chừa cái sân bề vô chừng 30 thước rồi cất một cái nhà ngói nền đúc vách tường, nhà cất theo kiểu kim-thời, một căn hai chái, nên tuy không nguy-nga đồ-sộ song có vẻ thanh-tao ngộ-nghĩnh phi-thường, Trong sân chính giữa thì xây bồn trồng bông, còn hai bên thì trồng mía, nhãn, bưỏi, cam, nhưng vì cây mới trồng vài năm, nên mới lên vừa khỏi đầu. Hai bên chái nhà thì lập vườn trầu phơi lá vàng-khè coi tươi tốt lắm. Phía sau nhà bếp, đất dốc chỗ cao chỗ thấp thì xẻ liếp trồng cau lộn với thơm tàn-ong.Cuộc ở xinh đẹp nầy là cuộc của mẹ con Bành-Thanh-Khải.Thanh-Khải về tới nhà mở cửa ngõ bước vô sân. Bông đua nở khoe đủ màu sắc, cây sum-sê phơi lá nẩy chồi; cảnh-vật tươi-cười như chào chủ, tiếc vì Thanh-Khải tình không phỉ ý đương buồn, nên ngó bông-hoa đã không vui mà lại còn thẹn. Thầy lầm-lũi bước riết lên thềm mà vô nhà.Trong nhà, căn giữa, có đặt một cái bàn thờ Phật Quan-Âm. Trên bàn thờ có chuông, có mõ, có chưng bông sen, bông huệ, lại đèn nhang đốt huy-hoàng, khi Thanh-Khải bước vô, thì mẹ là Lý-Thị-Ðằng, đầu trọc-lóc, mình mặc áo rộng nhuộm dà, đương quì lạy trước bàn Phật. Thầy nhón gót bước nhẹ-nhẹ, đi thẳng vô buồng thay quần áo, rồi lên giường mà nằm.Vả Thị-Ðằng thì ăn chay trường, còn Thanh-Khải thì ăn mặn, nên mẹ con không bao giờ ăn cơm chung. Người trong nhà thấy Thanh-Khải về bèn lật-đật dọn cơm. Thầy nói không đói và biểu bưng dẹp. Lúc người sửa-soạn bưng mâm cơm xuống bếp thì Thị-Ðằng lạy phật rồi bà bước vô. Bà thấy mâm cơm còn y-nguyên, bà tưởng con đã ăn cơm ngoài Sài-gòn rồi nên bà không gạn hỏi duyên-cớ làm sao mà con không ăn.Té ra Thanh-Khải nằm dàu-dàu trong phòng cho đến chiều. Chừng dọn bữa cơm chiều thầy gượng ra ngồi ăn, nhưng mà trí thầy lững-đững lờ-đờ, ăn không biết ngon, ráng ăn cho hết chén cơm rồì buông đũa.Thị-Ðằng liếc mắt dòm coi, thấy khí-sắc của con buồn-thảm khác-thường, thì bà lấy làm lạ, song không hỏi. Ðến tối bà tụng kinh niệm Phật rồi, bà thấy con thơ-thẩn đi ngoài sân, bà bèn bước ra ngồi tại cái băng để bên thềm rồi bà kêu con lại biểu ngồi một bên mà hỏi rằng: “Con đi học, có việc chi trắc-trở lắm sao, mà ngày nay má thấy con buồn-bực lắm vậy? Con hãy nói cho má nghe thử coi?”Thanh-Khải ngồi lặng thinh không trả lời.Thị-Ðằng suy nghĩ một hồi rồi nói rằng: “Má sanh có một mình con, má coi con như vàng như ngọc. Má cạo đầu ăn chay, lánh xa trần tục, ngày đêm cứ tụng kinh niệm Phật, ấy là má muốn cầu cho tỉêu-diệt các điều tội-lỗi má làm trong kiếp nầy và cầu cho con được phước-đức trọn đời, nhứt là khỏi dây oan trái, nghĩa là khỏi cái nợ của cha mẹ vay, con cháu phải trả. Má thương con như vậy, chẳng những má lo cho con no ấm mà thôi, mà má còn lo về cái âm-đức của con nữa. Sao con không tin má, con có việc buồn rầu, con không nói cho má biết, đặng má cầu nguyện cho con”.Thanh-Khải thở ra mà đáp rằng:- Việc con buồn, khó mà nói ra cho được.- Ở đời có việc chi buồn mà không nói ra được đâu. Con buồn là vì con uất trong lóng. Hễ uất thì phải tỏ cho má biết, đặng má khuyên bảo cho chớ.- Con nói thiệt với má, con buồn đây là buồn vì tình. Có một cô con thương yêu hết sức, mà coi bộ cô không thương con.- Trời Phật ôi!…Thị-Ðằng la Trời rồi day qua nhìn con trân-trân. Yếng trăng(#1) giọng vào mặt Thanh-Khải làm cho bà thấy rõ-ràng hai làng nước mắt chảy ròng-ròng.Thi-Ðằng ngó con rồi cũng rưng-rưng nước mắt, chắt lưỡi lắc đầu mà nói right:10px;'>
Thầy nói có bao nhiêu đó mà thôi. Chừng xe ra tới ga Bà Chiểu thầy mới kiếm được một câu mà hỏi rằng:- Cô có việc chi ngoài Dakao mà hổm nay tôỉ gặp cô đi thường như vậy?- Em đi dạy học.Thầy kiếm không ra chuyện nữa, nên ngồi lặng-thinh cho tới xe ra Dakao cô từ-giã leo xuống, thầy chong mắt ngó theo, sắc mặt buồn hiu.Ngày ấy thầy lấy làm tức thầm trong lòng, đã có dịp được ngồi gần cô, đã có dịp cô khởi đầu mà nói chuyện, mà vì cớ nào mình lại lính-quýnh không dám mở miệng, kiếm không ra lời. Ví như mình hỏi nhà cô ở đâu, cô có chồng hay chưa, hoặc cô tên gì, con của ai, hỏi những câu như vậy có ý nghĩa vô lễ chỗ nào đâu, mà sợ nên không dám hỏi.Thầy tức giận cái thói nhút-nhát vô-lý, nên thầy quyết-định hễ gặp cô nữa thì thầy sẽ hỏi những điều ấy không sợ chi nữa hết, Tính một mình thì hăm-hở như vậy, mà bữa sau gặp cô, thì y như bị nghẹn trong lòng, ngồi một hồi rất lâu rồi mới hỏi rằng: “Nhà cô ở gần ga Xóm Gà phải hôn?”Cô nghe hỏi, thì cô nghiêm nét mặt mà ngó ngay thầy mà đáp rằng: „Thưa, em ở trong đường Cây Quéo”.Hỏi một câu, trả lời cũng một câu mà thôi, không nói chuyện chi nữa hết.Thầy càng thêm tức giận, về nhà ăn cơm không được, trong trí cứ tính hoài, coi phải làm cách nào đặng biết nhà cô, biết tên cô và biết gia đạo của cô. Thầy suy-nghĩ đến 4 giờ chiều rồi thay đồ nói với người nhà rằng thầy đi chơi. Thầy mua một cát giấy xe điển mà đi xóm Gà.Chiều bữa ấy trời thanh-bạch mát-mẻ. Xe tới Xóm Gà, thầy leo xuống rồi thủng-thẳng đi lại ngã tư vô Cây Quéo, đứng ngó mông.Thầy muốn đi vô đường ấy đặng tìm nhà cô mà rồi thầy nghĩ mình chưa biết tên cô thì làm sao hỏi thăm nhà cho được.Thầy dụ-dự nên đi thơ-thẩn qua lại trước nhà ga. Thầy tính đợi cô đi dạy học về thầy sẽ nom theo coi cô vô nhà nào rồi sẽ lập thế mà hỏi thăm lai-lịch.Gần 5 giờ rưỡi, thầy liệu cô sẽ về, nên thầy dang ra xa nhà ga một khúc đặng đứng chờ cho cô khỏi ngó thấy.Thiệt quả chuyến xe ngoài Sài-gòn vô vừa ngừng, cô Cúc-Hương trên xe bước xuống rồi xâm-xâm đi lại ngã tư mà quẹo vô đường Cây Quéo.Thầy Thanh-Khải dòm thấy, nên thủng-thẳng đi theo xa xa.Bữa nay cô mặc một bộ đồ lụa trắng mới tinh, tay ôm bốp, tay xách dù, bước dịu-dàng, tướng đi yểu-điệu, ánh mặt trời giọi cô, làm cho sắc của cô càng thêm đẹp hơn nữa. Chẳng hiểu cô có hay người ta đi theo cô hay không, mà cô cứ đi tự-nhiên, không day lại mà ngó phía sau lưng.Thầy thấy cô đi gần tới ngã ba Quản Tám rồi quẹo vô cửa ngõ một cái nhà bên phía tay mặt, Thầy ngừng lại chờ cô vô nhà rồi thầy thủng-thẳng đi ngang qua, mắt liếc coi nhà cửa thế nào.Thầy thấy một cái nhà ngói ba căn vách ván, nhà còn mới, tuy nhỏ mà nhờ nền cao, nên coi vẻ-vang mát-mẻ lắm. Trước nhà có một cái sân, giữa sân có xây một hòn non nhỏ, chưng-quanh có liếp trồng toàn những huệ, ngải, cẩm-nhung, hường tây, bông đương đua nở, chỗ đỏ chỗ trắng, coi đẹp mắt vô cùng. Dọc theo hàng ba nhà, lại có để một hàng kiểng, cây sửa điệu xuy-phong, cây sửa điệu chiếu-thủy, làm cho người đi đường ngó vô, ai cũng biết cái nhà nầy là nhà của một đứng phong-lưu nhơn-vật.Thanh-Khải đi qua khỏi rồi thì trong lòng khấp-khởi, mừng được biết chỗ ở của người mình ái mộ mấy tuần nay. Mà biết chỗ ở cũng chưa đủ, còn phải biết lai-lịch của người nữa mới được.Thầy đương thơ-thẩn, bỗng thấy một người đờn-ông đang xách nước giếng lên mà tưới rau cải trồng trước sân. Vì cái sân nầy chạy luôn ra lề đường lại không có rào giậu chi hết, nên thầy đứng lại mà ngó rồi nói với người tưới nước ấy rằng:- Rau anh trồng tốt quá há.- Tháng nầy còn mưa, nên không mấy tốt. Chừng nắng đây rau mới tốt nữa.- Tại sao tháng nắng mới tốt?- …..- Sao anh không trồng bông như người ta lại trồng rau?- Người ta giàu có, họ trồng họ chơi. Tôi nghèo tôi phải lo trồng rau cải mà bán chớ trồng bông không có lợi.- Trồng bông bán cũng đặng tiền lắm chớ.- Trồng cho nhiều kìa, chớ đất ít trồng sao cho đủ bán.- Có nhà đàng kia trồng bông coi tốt quá.- Nhà nào ở đâu?- Nhà có hòn non đó, không biết nhà của ai?- Ờ ờ! Nhà ông Phán đa.- Ông Phán nào đó? Anh biết tên hôn?- Sao lại không biết, ông Phán Nhãn đa. Ổng phong-lưu quá, tối ngày ổng ở nhà cứ lo săn-sóc mấy liếp bông với mấy chậu kiểng, ai mà bì kịp ổng.- Ổng không làm việc hay sao?- Ổng già, ổng hưu-trí rồi. Bây giờ ổng ở nhà lãnh tiền hưu-trí, ổng xài không hết, mà lại đứa con gái làm cô giáo đạy trường Dakao nữa, ổng khỏe lắm mà.- Chà! Có con làm cô giáo nữa?- Chớ sao. Cô Cúc-Hương đó. Cổ học giỏi lắm. Con gái mà ăn lương một tháng tới năm sáu chục.- Chưa có chồng hay sao mà anh kêu người ta bằng con gái.- Chồng con đâu có. Ở nhà có hai cha con với một tên bồi và một chị nấu ăn.- Còn bà Phán đâu?- Không có. Ông Phán mua đất cất mà ở đây hơn một năm nay thì tôi thấy ổng ở với con gái ổng đó thôi chớ không có vợ.- Ổng vui-vẻ tử-tế hôn?- Tử-tế lắm mai thầy ghé đó coi bông chơi, ổng mừng lắm.- Không có quen mà tới chơi sao được?- Có sao đâu mà sợ. Tụi tôi nghèo-hèn mà tới chơi ổng còn niềm-nở hết sức, huống chi là thầy.- Nếu vậy để bữa nào tôi ghé xin phép ổng để coi bông coi kiểng chơi.- Ðược mà.Thanh-Khải từ-giã người trong rau ấy mà đi, trong lòng rất mừng, vì tình-cờ mà được biết hết những điều mình muốn biết. Thầy trở lộn về, chừng đi ngang qua nhà cô Cúc-Hương vô hồi nãy, thì thầy thấy có một người trên 50 tuổi, mình mặc đồ mát, tóc râu bạc hoa-râm, đương xẩn-bẩn trước sân mà xem bông. Thầy định chắc người ấy là ông Phán Nhãn, thầy đi thủng-thẳng mà ngó ông, thì thiệt quả người tướng-mạo ôn-hòa, sắc mặt đạo-đức đáng kính đáng mến.Từ nhỏ chí lớn Thanh-Khải ở với mẹ thì mẹ thường giảng dạy những lý-thuyết: “Ái-tình là một lò để đốt lòng người, hễ mang lấy lò lửa ấy vào mình thì cuồng trí loạn tâm, rồỉ dầu giết người cũng không gớm tay, tự-sát cũng không tiếc mạng. Còn vợ chồng thì phải có nhơn-duyên, nếu không có nhơn-duyên mà mình. cượng-cầu, thì dầu ở một bên nhau cũng không hội-hiệp được. Ấy vậy làm người phải gìn-giữ, chẳng nên để ái-tình buộc vào mình, còn vợ chồng thì phải để cho Phật Trời khiến định, chẳng nên bôn-chôn hốt-tốc mà trái nhơn-duyên”.Thanh-Khải nghe những lý-thuyết như vậy đã nhàm tai, mà lại vì thương yêu kính-trọng mẹ, nên coi lời của mẹ cũng như lời Thần Thánh dạy. Thuở nay hễ thấy con gái thì thầy nhớ lời mẹ dặn, nên kiêng-dè, chẳng hề để ái-tình thấm vào lòng. Còn việc cưới vợ thì thầy phú-thác cho Phật Trời, chờ coi Phật Trời định nhơn-duyên nơi nào rồi thầy sẽ liệu.Tánh chất của thầy như vậy, mà chẳng hiểu vì cớ nào từ ngày thầy gặp cô Cúc-Hương thì trong lòng thầy khoan-khoái, trong trí thầy mơ-màng, ngày như đêm, thầy cứ thấy hình-dạng cô chàng-ràng trước mặt thầy hoài; mấy phút đồng-hồ gần cô trên xe thì thầy khoái-lạc hớn-hở cũng như ở trong động tiên, còn hễ vắng mặt cô rồi thì thầy dật-dờ buồn-bực cũng như ở trong cửa hắc-ám. Nay thầy được biết cô là gái chưa chồng, cha của cô là ông Phán Nhãn hưu-trí, nhà ở đường Cây Quéo, thì thầy lại càng khoan-khoái hơn nữa. Thầy không cho sự thầy thương nhớ cô Cúc-Hương đó là tại dây ái-tình buộc vào lòng thầy, mà thầy lại tin chắc rằng thầy với cô có nhơn-duyên với nhau, nên Phật Trời mới khiến xui gặpgỡ.Tánh thầy thuở nay nhút-nhát bao nhiêu thì bây giờ lại quả-quyết bấy nhiêu. Thầy nhứt-dịnh phải hỏi cô Cúc-Hương coi cô có đành kết tóc trăm năm với thầy hay không. Nếu cô đành, thì thầy sẽ thưa với mẹ đặng cậy mai-nhơn nói mà cưới cô.Thanh-Khải quyết-định như vậy rồi thì trong trí thầy bớt buồn-rầu, bớt thương nhớ cô Cúc-Hương. Thầy hớn-hở mà tính tổ-chức bề ăn ở của thầy vói cô sau khi phối-hiệp. Chẳng những là thầy tính không cho cô đi dạy học cực-nhọc nữa, mà thầy lại còn tính hễ gần đám cưới thì thầy sẽ xin phép mẹ mà mua một cái xe hơi tốt, kiểu kim-thời, đặng vợ chồng đi chơi.Thầy hưởng sự-ngtliệp của cha để lại được 50 mẫu ruộng tốt trong tỉnh Vĩnh-long; còn mẹ của thầy thì có bạc gởi băng trên 10 muôn, mà mẹ cứ tụng kinh niệm Phật không ăn xài chi hết, tự-nhiên số bạc ấy ngày sau cũng về phần thầy hưởng nữa. Thầy đủ sức mà làm cho cô hưởng hạnh-phước trọn đờì, sau sanh con thì thầy sẽ lo cho con ăn học trở nên người đúng-đắn.Cái tiền-trình thầy vẽ sơ mà coi đẹp-đẽ vô cùng.