Chương 2

Ánh nắng chiếu từ ngoài cửa sổ vào lớp, in lên bảng đen thành những vệt tròn, dài, xinh xinh, ganh đua cùng những nét phấn trắng trên đó. Bài toán hình học không gian thầy Chung vừa mới giảng xong còn để lại, chưa ai xóa. Những dòng chứng minh sao thật là dễ thương. Tôi thấy chúng không khô khan, mà êm đềm như những câu thơ. Tôi gặp được chúng và quý chúng, như một người đi xa về gặp lại người thân.
 
Dù sao, cuộc đời mới đã bắt đầu. Tôi đang sống cuộc đời mà tôi hứa rằng sẽ bước tới. Hơn một tháng rồi còn gì? Hơn một tháng, thời gian đủ cho tôi quen thuộc hết những người, những việc trong bốn bức tường của lớp này. Tôi tự nhủ rằng không có gì lạ cả. Chỉ có người chứng kiến có thắc mắc, bận trí hay không mà thôi. Tôi đã nhập cuộc bằng một tấm lòng hân hoan kèm theo một nỗi ưu tư.
Có khi thấy cảnh thật quen thân, nhưng cũng có khi thấy mọi việc đều xa lạ. Tôi muốn hòa đồng với tất cả mọi người, lắm lúc cảm thấy có thể, mà lắm lúc cũng nhận ra rằng mình lạc lõng vô cùng. Tôi không cho là mình quá lớn hơn những người bạn nơi đây. Tôi chỉ hơn họ nhiều lắm là bốn tuổi. Bốn năm không có nghĩa lý gì đối với đời dài của con người. Nhưng tôi mơ hồ cảm thấy họ và tôi có những ý nghĩ không giống nhau – ít ra là về quan niệm trong học hành, sự nghiệp, về quyền lợi và bổn phận. Họ cũng có những lối cư xử hơi khác chúng tôi lúc trước.
 
Ngoài Đồng ra, tôi chưa quen nhiều với một ai, dù đã quen mặt. Đồng đã cho tôi một cảm tình đẹp ngay từ bữa đầu tiên. Đồng đối xử với tôi chẳng khác gì một đứa em đối với người anh. Điều đó dẽ hiểu vì Đồng đang là anh cả của một đàn em rồi. Tôi càng phục Đồng hơn nữa, khi biết rằng với chiếc Yamaha Đồng chở tôi về hôm nọ, Đồng đã đi chở khách để kiếm thêm tiền giúp gia đình. Nghề đó người ta gọi là “lái xe ôm” hay “lái xe thồ”. Tôi nhớ có hôm Đồng bảo:
- Chiếc Yamaha cà tàng đó, nếu mà mất, chắc em chết luôn.
- Nói dại! Rủi mất thiệt….
Đồng cười:
- Mất thiệt thì kể như em gẫy giò. Anh nghĩ coi, ba em khuân vác gạo dưới bến tàu làm sao nuôi đủ tụi em? Ngày nào em cũng kiếm tiền bằng cách đó. Cũng hơi mất thì giờ nhưng vẫn hơn ngồi không.
- Tôi phục Đồng ở điểm ấy.
- Có gì đâu mà phục hở anh? Biết em có tiếp tục mãi như thế này không? Em sợ một sự bất trắc nào đó nếu xảy ra. Không phải sợ cho em, mà sợ cho lũ em ở nhà. Ghê quá!
- Làm gì có chuyện đó. Đồng phải tin là Đồng đang có khả năng giúp ba, nuôi em. Rồi sẽ tiến tới chứ!
- Ngày xưa anh có ngờ trước sự bất trắc xảy đến cho anh không?
Đồng có cái tật hỏi những câu thật đột ngột không một chút ác ý, nhưng vẫn làm tôi giật mình. Đồng có vẻ hối sau câu nói. Tôi cúi xuống nhìn chân trái của mình, không nén được tiếng thở dài. Đồng nói nhỏ:
- Em xin lỗi anh.
- Tôi đâu có giận Đồng. Mà tôi thấy Đồng nói đúng. Đời phải ngờ trước những bất trắc. Nhưng có những bất hạnh mà mình không bao giờ dám nghĩ tới. Tôi, khi trước, nghĩ rằng mất cha, mất mẹ là điều bất hạnh to lớn nhất, đáng kể nhất. Khi tôi đi lính, tôi cũng nghĩ rằng một là sống, hai là chết. Có bị thương thì ráng mà chịu đau, vì mình là thằng con trai. Thế rồi đến khi mất cái chân này tôi đã nhận ra rằng đời có ngàn vạn nỗi bất hạnh khác nhau mà mỗi người phải gánh ít nhất một.
Đồng xòe mấy ngón tay ra, nói nửa buồn nửa đùa:
- Em nhé: mất mẹ là một cái bất hạnh này, nhà nghèo là hai cái bất hạnh này. Chẳng hiểu tại sao ngày xưa ông Nguyễn Công Trứ nhà nghèo xơ nghèo xác, thi rớt lên rớt xuống mà lòng vững như đá, quyết chí “Làm sao cho bách thế lưu phương, trước là sĩ sau là khanh tướng”. Ai nuôi cho ông ấy học mãi nhỉ?
Tôi cười, nói tếu:
- Thì tại ngày xưa chưa có nghề “xe ôm”…
Đồng cười theo:
- Chắc vậy. Em thì không bắt chước ông ấy nổi. Học thì gắng học, nhưng chẳng mơ công hầu khanh tướng như ông ấy đâu. Làm sao kiếm đủ tiền đóng học phí này, giúp thêm cho ba em và lo cho mấy đứa nhỏ này… Đủ mệt rồi anh há!
Nói chuyện với Đồng, tôi thấy cậu bé có nhiều ý nhĩ hay hay. Nhiều người cho rằng sống là phải thực tế. Nhưng cái thực tế kiểu như Đồng mới làm cho tôi thích. Nó đáng yêu vì hàm chứa ý thức của một con người sống trong cảnh khó khăn chật vật.
 
Hôm nay là đầu tháng. Đồng đang trao đổi với Thi tờ giấy cộng điểm. Tôi lo soạn lại những bài tập của thầy Trần. Giờ chơi, lớp vắng hoe. Ít có ai chịu ở lại trong lớp để xem bài. Nhưng tôi thấy thương môn học “sinh ngữ phụ” này như đã kính mến thầy Trần. Tôi không ngờ mình lấy lại phong độ xưa thật mau chóng. Tôi đã đọc thuộc làu cả bài văn cho cả lớp nghe. Ai cũng xuýt xoa. Và tôi thấy thầy Trần vui ra mặt.
 
Riêng có , nói chuyện xấu về các giáo sư, cặp đôi nhau, viết bậy bạ lên bảng….
- Còn nữa anh Nghiêm. Lén vào cái lớp học bỏ trống cuối hành lang để hút thuốc.
Tôi chợt nhớ ra một điều quan trọng:
- Đúng rồi! Tôi thấy Phát đi vào đó. Hắn nhút nhát, rụt rè, chắc hắn vào đó hút thuốc để đừng ai biết. Bây giờ tôi mới hiểu. À, còn khúc lan can phía sau lớp học đó nữa, tôi thắc mắc tại sao lại bị gẫy. Hồi tôi còn học ở đây thì đâu có như thế.
Thi nhíu mày như để cố nhớ:
- Để Thi nhớ lại coi… Hình như sau Tết Mậu Thân, thường xảy ra những vụ pháo kích. Xóm lao động sát trường mình bị trúng một quả. Một mảnh lớn văng trúng khúc lan can, phá như vậy đó anh.
- Sao trường không sửa lại?
- Người ta cho là không quan trọng, mới đầu còn bàn tán, về sau ông Hiệu trưởng lơ luôn vì cho rằng khúc đó học sinh không ai tới làm gì, lại ngay sau lớp học bỏ trống. Mấy năm rồi vẫn vậy.
Tôi ngao ngán thở dài:
- Trường này đang đi thụt lùi, cả hình thức lẫn tinh thần đều sa sút.
Không riêng gì ở đây đâu anh Nghiêm. Nhiều trường khác cũng tệ hại như vậy. Hết năm lớp Mười một, nếu thi đậu chúng ta phải học trường khác, vì trường này không mở lớp Mười hai.
- Chỉ tội cho mấy em lớp nhỏ, lại tiếp tục như chúng ta. Nhưng mong rằng những người có thiện chí như Thi sẽ làm cho trường lớp khá hơn.
- Thi nhờ anh Nghiêm và Đồng nữa chứ!
Chúng tôi cùng cười.
 
°°°
 
Tôi bỗng có thói quen ra đứng ở hành lang trong giờ ra chơi - từ lúc nào không biết. Thường thì để hóng một chút gió mát, hoặc nói chuyện với Đồng, còn không thì đứng một mình nghĩ ngợi lan man. Tôi cũng thường nhìn về cuối dãy đàng kia, nơi có lớp học bỏ trống chứa đồ cũ. Một sức lôi cuốn lạ thường từ nơi đó. Không phải vì phía bên kia có một khúc lan can gẫy. Không phải vì trong phòng có một đống bàn ghế cũ. Cũng không phải điều lạ là Phát. Tôi đã biết Phát vào đó để hút thuốc. Một lý do dễ hiểu, là bởi hắn có tính e lệ hơn cả con gái, hắn là một tên con trai có mặc cảm kỳ khôi. Mà điều lạ, là mấy ngày nay tôi đã thấy Đĩnh cũng đi vào đó. Tính tình của hắn trái ngược hẳn với Phát, thì có lý nào hắn lại cũng sợ người khác trông thấy? Vả lại, tôi đã từng thấy hắn thản nhiên hút thuốc trong lớp mà!!!
 
Tôi thắc mắc vô cùng. Nhiều dấu hỏi đặt ra trong đầu.
Cho đến hôm nay, khi tôi ra về, Đồng mới vừa dìu tôi đi xuống hết cầu thang, thì Phát đứng chờ sẵn ở đó. Phát nói lí nhí:
- Anh Nghiêm, em có chuyện … muốn nói riêng với anh…
Tôi đưa mắt nhìn Đồng. Đồng nói ngay:
- Em ra lấy xe rồi đợi bên ngoài. Chút nữa anh ra nghen.
Đồng vừa mới đi, Phát nhìn quanh như sợ ai trông thấy. Sân trường còn lưa thưa vài học sinh. Tôi hỏi:
- Phát có việc gì vậy?
Phát lắp bắp:
- Em muốn nhờ anh… cho em mượn một ngàn.
- Tôi không mang tiền theo. Ngày mai tôi sẽ đưa, được không?
Phát tiu nghỉu nét mặt:
- Cũng được, nhưng… em cần gấp.
Tôi nghĩ hôm nay không phải đầu tháng, lý nào Phát lại cần tiền gấp? Chẳng lẽ hắn không có tiền đóng học phí tháng sau? Tôi không muốn tò mò nhưng thấy hắn có vẻ khác thường nên hỏi:
- Phát cần tiền để làm gì vậy?
Tôi thầm đoán chắc Phát vốn e lệ sẽ không trả lời. Nhưng bỗng nhiên đôi mắt Phát rưng rưng, giọng hắn nghẹn ngào:
- Em… kẹt quá anh Nghiêm ơi! Em thiếu nợ… thằng Đĩnh.
Tôi ngạc nhiên:
- Phát mượn tiền Đĩnh làm gì? Mua sách? Hay đóng học phí? Hay Phát hư xe?
- Không.
Phát lắc đầu. Dường như hắn sắp khóc. Tôi thấy thương hại con người yếu đuối quá độ ấy. Và tôi chợt nghĩ đến cái “thư viện lưu động” của Đĩnh. Nhưng không lẽ Phát nợ một nghìn đồng chỉ vì mỗi tuần cần vài chục bạc để xem tiểu thuyết?
- Phát ạ, cứ thành thật xem tôi là bạn của Phát đi, nói cho tôi nghe. Giúp Phát được gì, tôi sẽ giúp.
- Anh không giúp em được gì đâu.
Tôi bực mình lặng im. Bỗng nhiên Phát chảy nước mắt. Hắn nói như rên rỉ:
- Anh Nghiêm ơi, em chẳng còn biết tính sao…
- Thì Phát cứ nói đi! Đĩnh đã làm gì Phát?
- Thằng Đĩnh làm cho em phải mắc nợ nó. Nó bảo em đưa tiền, rồi nó cho hút thuốc.
Tôi nghĩ thầm “à ra thế!”. Nhưng tôi lại vướng vào một câu hỏi khác. Chẳng lẽ anh chàng đang đứng trước mặt tôi đây lại nhát gan đến nỗi không dám ra tiệm mua gói thuốc lá, để phải mua lại của Đĩnh? Tôi quay cuồng với những hồ nghi.
Phát tiếp tục rền rỉ:
- Em hết tiền từ tuần trước, nó bảo cho em nợ… Đến hôm nay nó đòi. Em chưa xin được tiền của ba em.
- Bao nhiêu một gói thuốc lá?
Phát lắng đó thôi, đủ cho tôi vui rồi.
 
Trong giờ Toán, tôi thấy Thi đôi lúc kín đáo nhìn thầy Chung, mỉm cười lộ vẻ thân thiện. Hình như thầy Chung cũng có vẻ tươi cười. Tôi tự nhủ lòng đó không phải là việc đáng ngạc nhiên nữa. Nó đã hiển nhiên trước mắt. Tôi phải nhìn như nhìn Đĩnh cầm một quyển tiểu thuyết hạ cấp, như nhìn Phát xanh xao gầy mòn vì thuốc, như nhìn bao nhiêu người lừa lọc, làm hại nhau ở ngoài đời.
 
Hai giờ Toán cũng trôi qua không một chút thú vị nào ở tôi. Rồi cũng như bao ngày, tôi lặng lẽ theo chân mọi người đi ra. Tôi đứng ở đầu hành lang nhìn xuống dưới đường huyên náo, lẩm nhẩm tính xem đã bao nhiêu ngày mình học ở đây. Một anh bạn học trong lớp đi ngang, dừng lại hỏi:
Anh Nghiêm xuống không? Em đỡ anh nhé!
Tôi lắc đầu:
Cám ơn Lộc. Tôi chờ em tôi. Chắc nó sắp tới rồi.
Người nam sinh đi xuống thang lầu. Mọi người đã lần lượt về hết. Tôi nghe lòng chùng xuống, buồn lạ lùng.
 
Có tiếng chân đi lên thang lầu. Tôi bỗng hành động như một phản xạ, đứng nép vào một góc tường. Người đi lên không nhìn thấy tôi, vì xem ra dáng điệu có vẻ hăm hở lắm. Hắn là Đĩnh. Tôi hơi ngạc nhiên. Đĩnh trở lại lớp làm gì? Chắc hắn bỏ quên một cây bút, một quyển vở? Nhưng một phút sau, tôi lại thêm một điều ngạc nhiên nữa. Vì không phải chỉ có Đĩnh. Mà trong lớp còn có một ai nữa. Tôi nghe loáng thoáng tiếng Đĩnh nói chuyện với người đó. Một giọng nói con gái. Tôi nghe có tiếng cười của Đĩnh. Rồi Đĩnh đi ra cửa lớp, nói lớn:
Chị không tin tôi sao? Quyển sách dịch của chị ở trong lớp học cuối dãy.
Thi xuất hiện, nói giọng hoảng hốt:
Ồ, cặp của tôi để trong lớp, sách của tôi chỉ có thể rơi trong lớp. Tôi chưa bao giờ bén mảng đến cái phòng đó.
 Tôi nép người sát vào tường hơn. Ở khúc quanh kia Đĩnh vẫn thản nhiên nói với Thi:
Nhưng sự thật là ở trong ấy mà.
Sao anh biết?
Tôi giấu.
Thi tức giận:
Anh thừa lúc tôi đi lấy sổ điểm, giấu sách của tôi phải không? Anh chơi gì lạ vậy?
Có gì quý giá đâu mà chị cuống lên thế?
Sao lại không?
Thi vừa nói vừa chạy về phía cuối dãy lớp. Đĩnh chạy theo, gọi:
Thi! Thi! Chờ tôi nói cái này…
Một vật rơi ra từ túi quần của Đĩnh. Hắn không để ý nên cứ chạy tiếp. Một xâu chìa khóa! Tôi ngạc nhiên, rời chỗ nấp đi ra nhặt vật đó lên. Đủ cỡ, đủ loại chìa khóa. Có những chiếc giống như chìa khóa xe gắn máy. Có cả một cây que sắt giống như dụng cụ của những tên anh chị trong phim trinh thám.
Tôi bỗng nghĩ đến chiếc xe bị mất của Đồng và ống khóa bị mở toang nơi cửa trước của lớp học. Thủ phạm không ai khác hơn là Đĩnh. Tôi nghĩ rất nhanh như thế rồi bước tới. Thi và Đĩnh đã vào trong lớp học bỏ trống đó. Tôi nghi một điều gì sẽ xảy ra cho Thi. Tên Đĩnh giấu sách của Thi trong đó làm gì nếu không có một tà ý? Tôi cố gắng đừng cho tiếng nạng chạm xuống nền quá to. Tôi muốn đi nhanh, nhưng tôi chỉ bước được những bước ngắn ngủi. Chiếc nạng trở nên một cực hình cho tôi.
 
Tôi đã đến gần cửa lớp. Có tiếng Đĩnh cười gằn trong ấy:
Sách của Thi đây, Thi đến mà lấy.
Rồi có tiếng của Thi nói run run:
Không! Anh làm gì nhìn tôi dữ tợn vậy? Anh định dọa nạt tôi à? Tránh đường cho tôi ra!
Tôi ngạc nhiên khi nghe cả tiếng bàn ghế bị xô đẩy, giống như có một sự giằng co bên trong phòng. Tôi hoảng hốt xoải chân nạng đến đó. Tiếng Thi khóc òa lên:
Tôi không đùa kiểu đó…
Tôi hét lên một tiếng và tông cửa bước vào. Nhưng đã không kịp nữa rồi! Đĩnh đã dồn Thi đến sát cánh cửa phía bên kia. Thi kinh hoàng la lên một tiếng rồi xô cánh cửa đó chạy vụt ra bên ngoài. Đĩnh vọt ra theo.
Ôi Chúa, Phật ơi! Khúc lan can gẫy… Có tiếng hét nghe rụng rời.
Tôi như người bị ngạt trong một thứ khí độc địa nhất của thế gian. Có tiếng ai la lên ở phía dưới sân trường. Có tiếng chân chạy thình thịch vòng tới phía cầu thang. Trời ơi! Là tên Đĩnh! Tôi vùng bước nhanh ra hành lang, hét to lên như để tất cả mọi người phải nghe thấy. Bắt lấy nó! Bắt lấy nó! Tôi không biết tôi đã gào những câu gì sau đó nữa. Hình như dưới đường người ta đã ùa ra. Họ la phụ với tôi. Bắt lấy nó! Rồi bỗng nghe như xé không khí, một tiếng súng nổ. Tôi muốn bịt hai tai lại nhưng đã kịp nghe mất rồi!
 
°°°
 
Đồng đứng bật dậy khi ba má của Thi từ trong phòng bước ra, run run nói:
Thưa hai bác, con là Đồng, xin phép hai bác cho con vào thăm Thi.
Người mẹ mắt hoen lệ nhìn Đồng đăm đăm:
Cậu là Đồng hở? Đồng học cùng lớp với Thi sao?
Rồi bà quay sang chồng, nói:
Thì ra đây là Đồng mà con nó nhắc hoài đó mình!
Người cha gật đầu:
Được, cậu vào đi. Nó mê man hai mươi tiếng đồng hồ rồi, mới tỉnh dậy đây. Bác sĩ đã cho người nhà vào thăm. Không biết…
Ông bỏ lửng câu nói. Người mẹ nức nở khóc. Đồng nắm tay tôi:
Đi, anh Nghiêm.
Ba Thi hỏi:
Anh cũng là bạn học?
Tôi gật đầu “dạ” rồi theo Đồng bước vào phòng bệnh. Hai đứa tôi đứng sững bên giường. Thi nằm đó, đầu băng trắng toát. Lớp băng mới không che giấu được dấu máu thấm ra hồng hồng. Tôi nghe trái tim như muốn se thắt lại. Đôi mắt Đồng mở lớn như mất thần. Đồng bỏ tôi đứng trơ giữa nền gạch xanh, đến bên giường của Thi. Hình như cô bé đã chờ đợi từ lâu, mở đôi mắt ra, nhìn Đồng. Đồng run giọng:
Thi! Thi có sao không?
Đôi môi xanh nhợt gượng mỉm cười:
Thi… nghe tỉnh táo lắm. Mê man không biết đã bao lâu… Đồng đến thăm Thi đấy hở? Ai cho Đồng biết?
Chợt nhìn thấy tôi đứng hồ như bức tượng giữa phòng, Thi nói:
À, anh Nghiêm! Thi cám ơn Đồng và anh Nghiêm. Thi cũng muốn gửi lời thăm thầy Trần, thầy Hãn, tất cả các thầy… các bạn… và anh Chung…
Tôi cảm thấy các mạch máu thắt mạnh. Đồng quỳ xuống bên giường, sững sờ như gỗ đá.
Thi mở lớn đôi mắt, từ đó hai dòng lệ tuôn ra, miệng Thi thều thào mệt mỏi:
Trong cái lớp học bỏ hoang vẫn còn quyển sách dịch của Thi, quyển “Tuổi trẻ và chiến tranh”. Tên Đĩnh nó đã giấu dưới một cái bàn gẫy mục nát, Thi chưa kịp lấy ra. Ở trong đó, Thi có để một tập vé số do Thi in ở nhà in.
Đồng ngẩn ngơ không hiểu. Thi gắng gượng nói:
Đồng vào lớp đó lấy ngay đi. Đồng cầm tập vé số đó tới nhà thầy Chung… anh ấy sẽ cắt nghĩa cho Đồng hiểu… Mệt quá!...
Thi đưa mắt nhìn tôi, hỏi:
À, còn tên Đĩnh…?
Nó… nó đã bị cảnh sát bắn trúng chân, bắt giam rồi.
Anh Nghiêm… ráng khuyên Đồng đi học trở lại. Đồng hứa là Đồng sẽ đi học nhá!
Đồng gượng đáp, giọng nghẹn ngào:
Đồng sẽ đi học.
Thi nhắm mắt lại, im lặng… Chiếc đồng hồ để trên bàn thuốc dường như không muốn chạy. Ở đây như không còn có thời gian. Chai nước biển treo lủng lẳng trên đầu giường cơ hồ không buồn chảy những giọt nước hồi sinh qua ống nhựa nhỏ nữa. Trên chiếc giường kia như không còn sự sống. Không gian cô đọng lại thành một khối băng lạnh ngắt. Đồng quỳ yên lặng trên nền gạch xanh. Tôi đứng trơ bên chân nạng.
 
Tiếng cửa mở nghe êm ái. Ba má Thi vào lại. Có cả một người bác sĩ. Đồng đứng dậy lui ra gần bên tôi để cho vị bác sĩ đến nghe mạch cho Thi. Có tiếng người trao đổi với nhau truyền đi trong không khí nghe lao xao. Có tiếng người mẹ thét lên. Hai vị sinh thành bổ nhào đến bên giường bệnh. Đồng siết mạnh tay tôi nghe đau nhói. Hết rồi!!!
 
°°°
 
Đồng xô ngã chiếc bàn mục gẫy. Một đám mối bò ra nghe rào rào, ghê khiếp. Quyển sách của Thi nằm dưới đó. Tôi cầm lên, giũ những con mối gớm guốc ấy, và giở ra. Có một tập giấy nhỏ in số thứ tự từ một đến một trăm. Đồng và tôi không hiểu gì cả. Đồng nói:
Thi bảo em đến nhà thầy Chung. Ông ấy có liên hệ gì đến tập vé số này?
Tôi nghĩ tới một sự liên hệ… Nhưng thôi, tôi không muốn nói ra. Tôi từ nay phải quên rằng mình là một chứng nhân bất đắc dĩ và khổ sở nhất.
Đồng hãy thử đến nhà ông ấy đi.
Anh đi với em?
Tôi lắc đầu:
Thôi, Đồng đi một mình.
Hai đứa tôi ra cửa sau nhìn khúc lan can gẫy. Một thủ phạm vô tư và oan nghiệt là đó. Ôi! Tôi tưởng rằng trên đời không còn một thứ nào đáng ghê sợ bằng mảnh đạn đã cắt ngang chân tôi. Tôi nhắm mắt lại, không muốn thấy, không muốn nghe gì cả.
Tôi kéo tay Đồng đi về phía lớp. Đồng nói:
Em không vô lớp đâu! Em nghỉ học rồi!
Đồng vào đi! Hôm nay có một người thương gia bự lắm muốn tuyển nhân viên cho hãng của ổng, khoảng mười giờ sẽ đến để ghi tên những ai muốn đi làm. Đồng thử xin việc làm đi!
Giọng Đồng nghe xót xa:
Thi chết rồi! Hết cả ý nghĩa để mà phấn đấu.
Đồng hãy nghĩ đến năm đứa em của Đồng.
Đồng cúi gằm mặt, đi lủi thủi thấy tội. Chúng tôi đến trước cửa lớp, đúng lúc chuông vào học hai giờ sau reo vang.
Giờ thầy Hãn, phải không anh Nghiêm?
Đúng rồi.
Hai đứa tôi đi vào lớp giữa những đôi mắt ngạc nhiên của các bạn. Dường như nhà trường đã cho tất cả biết chuyện xảy ra cuối buổi học sáng hôm qua. Thấy tôi, Lan chạy đến hỏi ngay:
Anh Nghiêm! Anh có biết Thi nằm ở nhà thương nào không? Nó có sao không?
Giọng cô bé như sắp khóc. Tôi nói như một cái máy:
Thi … chết rồi Lan ơi!
Lan kêu lên một tiếng đau thương rồi òa khóc. Những người bạn lại bắt đầu xôn xao. Tôi nghe đầu nhức bưng. Đồng lủi thủi đến ngồi ở chỗ cũ của mình. Tôi đi theo Đồng, bàng hoàng nhận ra rằng hai đứa tôi không có một quyển vở, một cây bút, đã từ bệnh viện đến lớp như hai kẻ mất hồn.
 
Thầy Hãn đi vào, ngẩn ngơ nhìn lớp học hỗn loạn. Những tiếng bàn tán vẫn tiếp tục. Lan và mấy người bạn vẫn chưa dứt tiếng khóc. Thầy Hãn gõ tay lên bảng mấy cái, rồi cất tiếng:
Các em hãy giữ yên lặng. Tôi biết các em đang xao động vì việc xảy ra hôm qua. Tôi cũng đang rối óc lên đây. Các em hãy giữ trật tự dùm cho. Những tệ trạng xảy ra ở trường này là do ba tôi thiếu sự phối hợp với ông Giám học và ông Giám thị, tôi…
Những lời của thầy Hãn chừng như vô ích đối với mọi người. Các học sinh lại tiếp tục bàn tán. Thầy Hãn đập bàn, nói to:
Các em hãy yên lặng!
Dứt lời thầy, ông giám đốc hãng “Tố Nữ” thò đầu vào, theo sau là ông Giám học. Tôi chỉ cho Đồng, nói:
Đó, cái ông muốn tuyển nhân viên kìa, Đồng.
Ông Giám học đến nói nhỏ với thầy Hãn những câu gì, thầy Hãn gật đầu nhưng lộ vẻ không vui. Ông thương gia cười hềnh hệch và nói:
À, tôi đến để ghi tên  các em nào muốn đi làm. Ở lớp bên kia tôi đã ghi được mười em. Bây giờ ở đây tôi xin mười em nữa.
Vài nam sinh và vài nữ sinh đứng lên. Ông chủ hãng xua tay nói vội vàng:
À à, quên, tôi xin nói cho các em biết rằng, hãng của tôi chỉ tuyển chọn … nữ sinh thôi. Hề hề! Nam sinh thì… xin miễn.
Rồi ông ta hấp háy đôi mắt sau cặp kính khả ố, nhìn qua phía nữ sinh, nói:
Để coi… tôi chọn em này, em này…
Thầy Hãn ngắt lời:
Thưa ông, xin cho chúng tôi được biết hãng của ông làm những dịch vụ nào?
Lão chủ quay lại, cười:
Dạ, hãng tôi là hãng “Tố Nữ”, quên, phải nói là nhà hàng “Tố Nữ”, sang trọng nhất ở Chợ Lớn, mới khai trương đó thầy! Các em khỏi phải làm trọn ngày, chỉ cần làm một buổi thôi, lương rất hậu. Các em có thể ngồi “két”, hay bưng nước, bưng bánh ra cho khách. Chỉ cần son phấn cho đẹp, hề hề…
Các nữ sinh đỏ mặt ngồi xuống. Lão “Tố Nữ” cười toe toét:
Nào! Em nào muốn ghi tên?
Tôi đứng phắt dậy, lấy chiếc nạng chống đi ra khỏi chỗ ngồi, tiến lên bảng. Lão “Tố Nữ” ngạc nhiên, nói:
Í, í, tôi không nhận nam sinh mà! Tôi không có nhận con trai…
Tôi tức giận đến trước mặt lão, thầy Hãn và ông Giám học. Tôi nói to như chưa bao giờ:
Xin phép thầy, cho em được nói một vài lời. Em là trưởng lớp, xin thay mặt các bạn của em, phản đối vụ tìm việc này. Chúng em tưởng là một sự giúp đỡ cho học sinh, không ngờ lại là một việc làm hết sức bỉ ổi. Người ta còn đi học, lão này bảo phải son phấn để làm gì? Học đường không phải là nơi cung cấp những nhân vật như thế cho lão. Lão muốn tìm người son phấn, hãy đi tìm chỗ khác, ai dẫn lão vào đây?
Không khí lớp học căng ra. Lão “Tố Nữ” đỏ mặt, nổi cáu:
Tôi là bạn thân của ông Giám học. Ổng giới thiệu cho tôi.
Tôi gằn từng tiếng:
Tôi biết như thế chứ! Ông là bạn thân của “Ngài” Giám học. Thưa thầy – tôi quay sang nói với thầy Hãn – em đã chứng kiến bao nhiêu điều trái tai gai mắt ở trường này. Em muốn ép mình để khỏi làm một học sinh vô lễ. Nhưng hôm nay em phải nói, nói một lần cuối rồi em không nói nữa. Vì khi em đã lên đây, đứng nói trước mặt thầy khi thầy chưa cho phép, là một điều bất kính; chửi vào mặt lão này, là một điều bất nhã; và khai những điều tắc trách của “Ngài” Giám học ra đây, là một sự không biết điều. Em xin thầy thứ lỗi cho em.
Thầy Hãn đứng im nhìn tôi, sững sờ. Tôi nói tiếp, giọng sắc như dao:
Em là một học sinh cũ của trường này, em trở về đây là vì thương mến trường lớp, quý các thầy. Nhưng chỉ mấy tháng học mà em đã thấy đủ điều tệ hại. Từ một cái “thư viện lưu động” toàn những quyển tiểu thuyết dâm tục đến việc học sinh hút bạch phiến trong lớp học bỏ trống cuối đường. Từ việc buôn chữ của “Ngài” Giám học mỗi đầu tháng đứng soát vé ngay trước cổng trường… đến khúc lan can gẫy đã để như vậy mấy năm nay….
Tôi nghẹn giọng:
Chính nơi đó đã xảy ra một thảm kịch. Lớp chúng em mất đi một người bạn đáng mến. Anh bạn em mất xe cũng vì giờ ra chơi nhà trường để cổng mở mà không ai kiểm soát. Các học sinh muốn “cúp cua” cũng rất dễ dàng. Không có một kỷ luật tối thiểu để học sinh tuân theo. Còn bài học, chúng em học như những cái máy, học vì bổn phận, không được thảo luận, không có gì gọi là hứng thú. Đến hôm nay, ông chủ nhà hàng này lại được ngang nhiên vào lớp tuyển chọn người làm. Thưa thầy, vì ai? Vì “Ngài” Giám học thiếu căn bản, em đau lòng mà nói như vậy.
Mặt ông Giám học tím lại. Ông run rẩy nói không ra lời. Lớp học im phăng phắc. Lão “Tố Nữ” sấn đến, nói như thét:
Anh này láo quá!
Tôi không láo. Tôi nói sự thật. Có những vị thầy đáng kính nể thì cũng có những nhà mô phạm thiếu đức độ làm cho chúng tôi mất cả tin tưởng. Trong xã hội có những người lương hảo đáng khâm phục thì cũng có những con rắn độc đáng phỉ nhổ… như ông.
Lão “Tố Nữ” nắm lấy cổ áo tôi, gào lên:
Thằng này hỗn!
Cơn giận của tôi đã đến lúc như không khí nén căng trong một bóng cao su mỏng manh. Tôi vùng ra khỏi bàn tay của lão “Tố Nữ’, giật chiếc nạng bên người giáng cho lão một cái nên thân.
Lớp học náo loạn lên không ngờ. Sau hành động đó, tôi mất thăng bằng quỵ xuống. Chiếc nạng rơi trên nền xi-măng nghe khô khan. Tôi nghe thân thể mình cứng ngắc. Tôi muốn biến đi cho thoát khỏi không gian ngục tù này.