Theo sau khủng hoảng tài chính toàn cầu, người ta nói nhiều về cấu trúc tài chính toàn cầu. Hầu như không có cuộc thảo luận nào về cấu trúc chính trị toàn cầu. Đây là một sự bỏ sót kì lạ, căn cứ vào nền chính trị quốc tế đầy rẫy những xung đột, và các dàn xếp được nghĩ ra để giải quyết chúng là yếu hơn nhiều so với vũ đài tài chính.
Chúng ta đã không có một biến động chính trị khả dĩ so sánh được với khủng hoảng tài chính toàn cầu, nhưng đã có quá nhiều xung đột cục bộ, và do thiếu một cơ chế hoà giải hữu hiệu, một số trong chúng tỏ ra có sức tàn phá ghê gớm. Nếu chúng ta ngó tới một lục địa duy nhất - Châu Phi - các cuộc xung đột đã khó mà đếm được. Phải thú nhận, chúng không gây nguy hiểm cho hệ thống tư bản toàn cầu, nhưng không thể nói như thế về cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân giữa Ấn Độ và Pakistan, hay những căng thẳng ở Trung Đông và Balkan, không thể không nhắc tới Đài Loan. Kiếp trước của chủ nghĩa tư bản toàn cầu đã kết thúc với Thế Chiến I. Tôi không muốn gọi bóng ma của một cuộc chiến tranh thế giới khác, nhưng tôi tin rằng: Hệ thống có thể bị phá vỡ bởi những diễn biến chính trị một cách dễ dàng, hệt như bởi sự bất ổn định tài chính; rất có thể hai thứ sẽ tăng cường lẫn nhau để tạo ra biến động.
Dường như các cuộc xung đột cục bộ ngày càng trở nên khó khắc phục. Trong thời Chiến tranh Lạnh, chúng đã bao hàm trong một xung đột lớn hơn, đẩy hai siêu cường chống lại lẫn nhau. Mỗi bên đều cố giữ cho nhà mình trật tự và khai thác các điểm yếu của đối phương. Sự dàn xếp là xa lí tưởng, và một số xung đột cục bộ day dứt hàng năm, nhưng ít cuộc xung đột bị bỏ mặc và không cuộc xung đột nào được cho phép leo thang để trở thành một cuộc chiến qui mô toàn diện giữa các siêu cường. Ngày nay, chúng phải trở thành các cuộc khủng hoảng nở hết cỡ trước khi chúng nhận được sự chú ý, và ngay cả khi đó, cũng khó tập họp ý chí chính trị để giải quyết chúng.
Hầu hết các xung đột cục bộ nảy sinh từ các quan hệ bên trong một quốc gia có chủ quyền: Căng thẳng sắc tộc, tham nhũng, trấn áp, sụp đổ quyền lực trung ương. Rốt cuộc, chúng có thể tràn qua biên giới quốc gia, song đến lúc đó, chúng có thể day dứt dưới sự bảo hộ của chủ quyền dân tộc. Đó là lí do vì sao, có nhiều đến thế những cuộc xung đột đã phát triển thành khủng hoảng hết cỡ.
Các mối quan hệ quốc tế thường liên quan đến các mối quan hệ giữa các quốc gia; ngày nay, những việc xảy ra trong nội bộ các quốc gia trở nên quan trọng hơn, và không có dàn xếp hữu hiệu nào để giải quyết các xung đột bên trong. Các qui tắc chế ngự các quan hệ quốc tế áp dụng cho các mối quan hệ giữa các quốc gia. Trong nội bộ các quốc gia, chủ quyền được giả thiết là thắng thế, trừ trường hợp một quốc gia từ bỏ hay uỷ thác chủ quyền của nó theo thoả ước quốc tế. Các dàn xếp chế ngự quan hệ giữa các quốc gia còn xa mới thoả đáng, nhưng lại còn nhiều thiếu sót hơn nữa đối với tình hình trong nội bộ các quốc gia. Không có cơ chế hữu hiệu nào để ngăn chặn khủng hoảng tiến triển. Bất kể sự can thiệp bên ngoài nào đều tạo thành sự can thiệp vào chủ quyền. Vì ngăn ngừa khủng hoảng đòi hỏi một mức độ can thiệp nào đó từ bên ngoài, những dàn xếp hiện hành là dễ bị khủng hoảng.
Đây chẳng có gì mới. Nguyên lí cho rằng: Các nhà nước có chủ quyền phải được phép quyết định chuyện họ đối xử với thần dân của mình ra sao đã được xác lập trong Hiệp ước Westphalia năm 1648, sau ba mươi năm chiến tranh tôn giáo. Từ đó, các mối quan hệ quốc tế dựa trên nguyên lí chủ quyền quốc gia.
Các nhà nước có chủ quyền được lợi ích quốc gia chỉ dẫn. Các lợi ích quốc gia không nhất thiết trùng với các lợi ích của công dân của nó, và các quốc gia, thậm chí, có lẽ ít quan tâm đến công dân của các quốc gia khác. Có vài cơ chế an toàn được cấy vào những dàn xếp này để bảo vệ lợi ích của người dân. Liên Hiệp Quốc đã thông qua Tuyên bố Phổ quát về Quyền Con người, song không có cơ chế thực thi. Có một số hiệp ước và định chế quốc tế, song ảnh hưởng của chúng chỉ bó gọn ở các lĩnh vực hẹp mà các quốc gia có chủ quyền đã uỷ thác cho chúng. Các sự kiện bên trong các đường biên giới quốc gia, như thế, phần lớn được miễn giám sát quốc tế.
Dù sao, người dân sống dưới các chế độ đàn áp cần sự bảo vệ từ bên ngoài. Các quốc gia chắc lạm quyền hơn trong quan hệ với công dân của nó so với trong quan hệ với các quốc gia khác, vì chúng chịu ít ràng buộc hơn. Đối với người dân sống dưới các chế độ áp bức, sự giúp đỡ từ bên ngoài thường là cứu tinh duy nhất. Nhưng người dân sống ở nơi khác ít quan tâm đến việc giúp đỡ họ. Nhìn chung, người dân sống ở các nền dân chủ sẵn sàng bảo vệ quyền tự do riêng của họ khi nó bị nguy hiểm. Nhưng không có đủ sự ủng hộ cho xã hội mở như một nguyên lí phổ quát. Sự thiếu sót này nghiêm trọng ra sao? Nó có thể được sửa? Trước tiên, chúng ta sẽ nghiên cứu thái độ thịnh hành đối với các quan hệ quốc tế và sau đó đến tình hình thực tế.
Chủ nghĩa hiện thực địa chính trị Các quan hệ quốc tế không được hiểu kĩ. Chúng không có một môn khoa học để dựa vào, mặc dù có một học thuyết gọi là “chủ nghĩa hiện thực địa chính trị” đòi địa vị khoa học. Hệt như lí thuyết về sự cạnh tranh hoàn hảo, địa chính trị có gốc rễ ở thế kỉ mười chín, khi khoa học được kì vọng cung cấp những giải thích và tiên đoán tất định. Theo địa chính trị, sự ứng xử của các quốc gia chủ yếu được quyết định bởi bản năng thiên phú về địa lí, chính trị, và kinh tế. Henry Kissinger, tông đồ của địa chính trị, cho rằng nguồn gốc của địa chính trị truy nguyên thậm chí xa hơn, đến Hồng y Richelieu, người tuyên bố rằng “các quốc gia không có các nguyên lí, chỉ có các lợi ích”.
[2] Học thuyết này tương tự giống với học thuyết
laissez-faire: Cả hai coi tư lợi là cơ sở thực tiễn duy nhất để giải thích hay tiên đoán ứng xử của đối tượng. Đối với
laissez-faire, đối tượng là cá nhân người tham gia thị trường; đối với địa chính trị, là quốc gia. Có họ gần với cả hai, là biến thể thô tục của chủ nghĩa Darwin, theo đó, sự sống sót của cá thể thích hợp nhất là qui tắc của tự nhiên. Mẫu số chung của ba học thuyết là chúng đều dựa trên nguyên lí về tư lợi và loại trừ tất cả các cân nhắc luân lí hay đạo đức. Trong trường hợp địa chính trị, điều này có nghĩa là lợi ích quốc gia, cái không nhất thiết trùng với lợi ích của nhân dân. Ý tưởng cho rằng: Nhà nước phải đại diện cho các lợi ích của các công dân là vượt quá khung dẫn chiếu của nó. Có, tất nhiên, các quan điểm khác về quan hệ quốc tế có tính đến các cân nhắc đạo đức, nhưng chúng được coi là mềm yếu và lí tưởng chủ nghĩa. Các nhà chức trách của quốc gia thường cảm thấy họ không thể có điều kiện lang thang quá xa khỏi chủ nghĩa hiện thực địa chính trị trong sự giao thiệp với các quốc gia khác.
Triển vọng này mang lại một số kết quả lạ kì. Chủ nghĩa hiện thực địa chính trị không thể đương đầu, thí dụ, với sự phản đối chiến tranh Việt Nam của nhân dân. Gần đây hơn, nó không thể đối phó với sự tan rã của các quốc gia như Liên Xô và Nam Tư. Theo địa chính trị, một quốc gia là một quốc gia là một quốc gia. Chúng ta được dạy để nghĩ về chúng như các con tốt trên một bàn cờ. Ðiều xảy ra ở bên trong con tốt không phải là công việc của địa chính trị.
Thú vị là, lí thuyết kinh tế có nhược điểm tương tự. Địa chính trị dựa trên quốc gia; kinh tế học dựa trên cá nhân tách biệt, con người kinh tế -
homo economicus. Chẳng kiến trúc nào đủ mạnh để chịu được sức nặng của lí thuyết được xây dựng trên nó. Các con người kinh tế được giả thiết là có tri thức hoàn hảo, cả về nhu cầu riêng của họ lẫn về các cơ hội mở ra cho họ, và có khả năng đưa ra các lựa chọn duy lí, dựa trên thông tin đó. Chúng ta đã thấy rằng các giả thiết này là phi thực tế; chúng ta cũng thấy lí thuyết kinh tế đã lách khó khăn bằng cách coi cả các sở thích và cơ hội là cho trước. Nhưng chúng ta bị bỏ lại với cảm tưởng rằng: Con người được tư lợi của họ chỉ dẫn như các cá nhân cô lập. Trên thực tế, con người là động vật xã hội: Sự sống sót của cá thể thích hợp nhất phải kéo theo sự hợp tác cũng như cạnh tranh. Có một thiếu sót chung trong thuyết thị trường chính thống, chủ nghĩa hiện thực địa chính trị, và chủ nghĩa Darwin thông tục: Sự bỏ qua tất cả những động cơ nào khác với tư lợi hẹp hòi.
Không có trật tự thế giới Chuyển từ lí tưởng sang thực tế, hãy nhìn vào hoàn cảnh thực tế trong các quan hệ quốc tế. Nét tiêu biểu của tình trạng hiện thời là nó không thể được mô tả như một “chế độ”. Không có hệ thống chính trị tương ứng với hệ thống tài chính toàn cầu; hơn nữa, không có sự đồng thuận rằng: Một hệ thống chính trị toàn cầu là hoặc khả thi hay đáng mong muốn.
Đây là một tình trạng tương đối mới. Cho đến khi đế chế Soviet sụp đổ, ta có thể chỉ ra một chế độ trong các quan hệ quốc tế - Chiến tranh Lạnh - và nó đã đặc biệt ổn định: Hai siêu cường đại diện cho hai hình thức khác nhau về tổ chức xã hội, đã bị kẹt trong cuộc xung đột chí tử. Mỗi bên đều muốn tiêu diệt bên kia, và cả hai chuẩn bị cho cuộc chiến bằng cách tiến hành chạy đua vũ khí hạt nhân. Hệ quả là, mỗi bên trở nên đủ mạnh để có thể trút sự tàn phá lên bên kia nếu bị tấn công. Điều này đã ngăn chặn chiến tranh toàn bộ nổ ra, mặc dù nó đã không ngăn chặn các cuộc giao tranh nhỏ ở bên lề và việc dùng mẹo để kiếm ưu thế.
Một sự cân bằng quyền lực, như được thể hiện bởi Chiến tranh Lạnh, nói chung được thừa nhận như một cách để duy trì hoà bình và ổn định trên thế giới; bá quyền của một cường quốc đế quốc là cách thứ hai; một tổ chức quốc tế có khả năng hoà giải hữu hiệu có thể là cách thứ ba. Hiện tại, chúng ta chẳng có cách nào trong số kể trên.
Hoa Kì hiện là siêu cường duy nhất còn sống sót, nhưng nó không có quan điểm rõ ràng về vai trò của nó trên thế giới. Trong Chiến tranh Lạnh, Hoa Kì đã vừa là một siêu cường lẫn người lãnh đạo của thế giới tự do, và hai vai trò củng cố lẫn nhau. Với sự tan rã của đế chế Soviet, tính đồng nhất dễ chịu này cũng tan rã, nhưng người ta không nhận ra nó. Hoa Kì đã có thể vẫn là người lãnh đạo của thế giới tự do, nhưng để làm vậy, nó phải hợp tác với các nước có đầu óc dân chủ khác, đầu tiên để giúp xây dựng nền móng dân chủ ở các nước nguyên cộng sản, sau đó, củng cố các định chế quốc tế cần thiết để duy trì một xã hội mở toàn cầu. Hai dịp trước đây, khi Hoa Kì nổi lên như người lãnh đạo của thế giới tự do - vào cuối Thế Chiến I và II - nó đã làm chính xác việc đó: Nó bảo trợ Hội Quốc Liên, rồi đến Liên Hiệp Quốc. Tuy nhiên, cả hai nỗ lực đã tỏ ra vô ích. Trong trường hợp thứ nhất, Quốc hội đã từ chối phê chuẩn Hội Quốc Liên; ở trường hợp thứ hai, Chiến tranh Lạnh đã làm cho Liên Hiệp Quốc phần lớn trở nên vô hiệu quả.
Cơ hội để làm cho Liên Hiệp Quốc cường tráng lại đã đến khi Mikhail Gorbachev trở thành người đứng đầu Liên Xô. Gorbachev đã hi vọng làm cho Liên Hiệp Quốc (LHQ) hoạt động theo cách mà các nhà sáng lập ra nó đã dự kiến, bằng cách tạo dựng một liên minh với Hoa Kì. Đó là phần mạch lạc nhất của chương trình của ông, được gọi là
novoye myshlenie (tư duy mới), được thảo tỉ mỉ công phu chỉ bởi một mảng của bộ máy quan liêu Soviet ủng hộ các cải cách của ông - Bộ Ngoại Giao. Các ý tưởng của ông về cải cách kinh tế thì ít mạch lạc hơn nhiều; ông đã kì vọng bạn đồng minh sắp tới của mình, Hoa Kì, đến giải cứu ông.
Một trong những hành động đầu tiên của Gorbachev đã là trả các khoản tiền chưa đóng cho Liên Hiệp Quốc. Rồi ông đến trước Đại Hội đồng LHQ để say sưa yêu cầu hợp tác quốc tế. Nó nhận được sự quang là phi thực tiễn mau chóng trở nên hiển nhiên vì nền kinh tế chỉ huy đã quá bệnh hoạn để nuôi dưỡng phôi thai của một nền kinh tế thị trường. Tức là, vấn đề chuyển định giá đã không thể giải quyết được. Nhưng ngay cả một ý tưởng nông nổi như vậy từ một nguồn tầm thường cũng đã được ủng hộ ở mức cao nhất. Thủ tướng Nikolai Ryzhkov đã ra lệnh cho lãnh đạo của các cơ quan Soviet chủ chốt - Uỷ Ban Kế hoạch, Uỷ ban Vật tư, v.v. - tham gia. Đúng là tôi đã có thể thu hút các nhà kinh tế phương Tây như Wassily Leontief và Romano Prodi tham gia từ phía phương Tây.
Muộn hơn, tôi đã đưa một nhóm chuyên gia phương Tây - những người tư vấn cho các nhóm kinh tế gia Nga khác nhau, chuẩn bị các chương trình cải cách kinh tế cạnh tranh nhau. Sau đó tôi đã dàn xếp cho các tác giả của kiến nghị chính của Nga cho cải cách kinh tế - cái gọi là Kế hoạch Shatalin - do Grigory Yavlinsky lãnh đạo, được mời đến cuộc họp năm 1990 của IMF/Ngân hàng Thế giới ở Washington. Gorbachev lưỡng lự về kế hoạch và cuối cùng quyết định chống lại nó. Ông lẩn tránh hai vấn đề: tư nhân hoá đất đai, và đồng thời giải tán Liên Xô cùng với việc lập một liên minh kinh tế. Tôi vẫn nghĩ Kế hoạch Shatalin có thể đã mang lại một sự chuyển đổi có trật tự hơn so với diễn tiến thật sự của các sự kiện.
Ngay sau đó, Gorbachev mất quyền lực, Liên Xô tan rã, và Boris Yeltsin trở thành tổng thống Nga. Ông uỷ thác nền kinh tế cho Yegor Gaidar, đứng đầu một viện nghiên cứu kinh tế, người đã học lí thuyết kinh tế vĩ mô từ sách giáo khoa chuẩn của Rudi Dornbusch và Stan Fischer. Gaidar đã thử áp dụng chính sách tiền tệ vào một nền kinh tế không tuân theo các tín hiệu tiền tệ. Các doanh nghiệp quốc doanh tiếp tục sản xuất theo kế hoạch, cho dù chúng không được trả tiền vì việc đó. Tôi nhớ cuộc gọi điện cho Gaidar tháng Tư 1992 để chỉ ra là: Nợ giữa các công ti đã tăng đến mức bằng một phần ba GNP; ông thừa nhận vấn đề nhưng tiếp tục không đếm xỉa đến.
Khi Gaidar thất bại, tiếp theo là một hành động cân đối khó chịu, và cuối cùng Anatoly Chubais, từ một viện nghiên cứu khác, nổi lên như phó thủ tướng phụ trách kinh tế. Ông đặt ưu tiên cho việc chuyển tài sản từ nhà nước sang tay tư nhân. Ông tin rằng: Một khi tài sản nhà nước được tư hữu hoá, các chủ sở hữu sẽ bắt đầu bảo vệ tài sản của mình và quá trình tan rã sẽ có thể dừng.
Đó không phải là cách nó được tiến hành. Một sơ đồ phân phát
voucher (phiếu), mà người dân sau đó có thể dùng để mua các công ti quốc doanh, đã trở thành một cuộc chiếm đoạt tài sản nhà nước, mạnh ai nấy làm. Các ban quản lí chiếm quyền kiểm soát các công ti bằng cách lừa công nhân để lấy
voucher hay gom mua cổ phần với giá rẻ. Họ tiếp tục hút thu nhập và, thường xuyên, tài sản chui vào các công ti mẹ đặt ở Cyprus, một phần để tránh thuế, một phần để trả tiền cho cổ phần mà họ mua, một phần để tích tụ tài sản ở nước ngoài do thiếu lòng tin vào các sự kiện diễn ra ở trong nước. Những số tiền kếch xù được kiếm trong chốc lát, ngay cả trong khi nước Nga cực kì thiếu thốn về tiền và tín dụng, cả rúp và đôla.
Từ các điều kiện hỗn loạn này, nguyên lí của một trật tự kinh tế mới bắt đầu nổi lên. Nó đã là một dạng của chủ nghĩa tư bản, nhưng là dạng rất lạ kì và nó sinh ra theo một trình tự khác cái có thể kì vọng dưới các điều kiện bình thường. Tư nhân hoá đầu tiên đã là tư nhân hoá an ninh công cộng, và theo cách nào đó, nó đã thành công nhất. Các quân đội tư nhân tạp nham và các băng nhóm mafia được dựng lên, và chúng cai quản ở nơi chúng có thể. Các ban quản lí của các doanh nghiệp quốc doanh lập các công ti tư nhân, chủ yếu ở Cyprus, các công ti này kí kết hợp đồng với các doanh nghiệp quốc doanh. Các nhà máy thua lỗ, không đóng thuế, và khất nợ lương và nợ nần với các công ti khác. Dòng tiền mặt bị hút sang Cyprus. Các ngân hàng mới được thành lập, một phần bởi các doanh nghiệp nhà nước và ngân hàng quốc doanh, một phần bởi các nhóm thương mại mới nổi. Một vài ngân hàng kiếm số tiền kếch xù bằng cách cai quản tài khoản của các cơ quan nhà nước khác nhau, kể cả Kho bạc Nga.
Sau đó, một thị trường cổ phiếu, có liên quan đến sơ đồ tư nhân hoá các doanh nghiệp nhà nước bằng phân phát
voucher, được sinh ra trước khi các cơ chế để đăng kí cổ phiếu và để thanh toán hữu hiệu các giao dịch được thiết lập một cách phù hợp, và trước xa việc : Các doanh nghiệp - mà cổ phiếu của chúng được buôn bán - bắt đầu ứng xử giống các công ti.
Một văn hoá phạm pháp trở nên thấm đậm trước xa các luật và qui chế thích hợp có thể được ban hành. Tiền bán từ sơ đồ
voucher đã không dồn lại cho nhà nước hay bản thân các công ti. Đầu tiên, các nhà quản lí phải củng cố việc kiểm soát và trang trải các khoản nợ họ đã mắc trong quá trình chiếm quyền kiểm soát; chỉ sau đó, họ mới có thể bắt đầu tạo ra thu nhập trong nội bộ công ti. Ngay cả khi đó, có lợi cho họ để che giấu hơn là báo cáo thu nhập, trừ phi họ có thể hi vọng tăng vốn bằng việc bán cổ phần. Song chỉ có ít công ti đến được giai đoạn đó.
Những sự sắp xếp này có thể được mô tả một cách chính đáng là “chủ nghĩa tư bản kẻ cướp”, vì cách hữu hiệu nhất để tích tụ tư bản tư nhân đã là chiếm đoạt tài sản nhà nước, nếu hầu như không có gì để khởi động. Tất nhiên, đã có một số ngoại lệ. Trong một nền kinh tế thèm khát các dịch vụ, đã có thể kiếm tiền ít nhiều hợp pháp bằng cung cấp các dịch vụ ấy, thí dụ, thông qua công việc sửa chữa hay vận hành các khách sạn và nhà hàng ăn.
Viện trợ nước ngoài chủ yếu đã để cho hai định chế tài chính quốc tế - IMF và Ngân hàng Thế giới - vì các nước phương Tây đã không sẵn lòng góp tiền từ ngân sách riêng của họ. Tôi đã phản đối cách dàn xếp này, với lí do: về mặt tổ chức, IMF không phù hợp với công việc. Nó hoạt động bằng cách đòi các chính phủ kí một thư ngỏ ý tôn trọng các điều kiện ảnh hưởng đến tính ổn định của đồng tiền và ngân sách trung ương, giữa các đòi hỏi khác, và nó ngưng cấp tiền nếu chính phủ không thoả mãn các điều kiện. Khi một nước không có một chính phủ hữu hiệu, phương pháp này đảm bảo rằng chương trình sẽ thất bại. Đó là điều đã xảy ra ở Nga. Chính phủ trung ương đã không có khả năng thu thuế, và cách duy nhất để nó có thể thoả mãn các mục tiêu cung tiền là từ chối thoả mãn các nghĩa vụ ngân sách. Khất tiền lương và nợ giữa các công ti tích tụ đến mức không thể quản lí nổi. Tôi đã lí luận rằng: Cần đến một cách tiếp cận bừa, trực tiếp hơn, và nó có thể được chấp nhận một cách hăm hở khi ấy. Nhưng đó có nghĩa là phải đưa tiền thật ra, và các nền dân chủ phương Tây chùn bước trước triển vọng.
Khi IMF gia hạn khoản vay 15 tỉ $ cho Nga, tôi đã lí luận trong một bài báo đăng trên
Wall Street Journal ngày 11 tháng 11, 1992, rằng tiền phải được đánh dấu để chi trả các khoản an sinh xã hội, và việc chi tiêu các khoản tiền này phải được giám sát chặt chẽ. Vì đồng rúp mất giá, tiền hưu chỉ còn 8 $ một tháng, cho nên tiền phải đủ cho chi trả toàn bộ lương hưu. Kiến nghị của tôi đã không được xem xét nghiêm túc vì nó đã không hợp với phương thức hoạt động của IMF. Cho nên, tôi quyết tâm chứng tỏ rằng viện trợ nước ngoài có thể có kết quả.
Tôi lập ra Quỹ tài trợ Khoa học Quốc tế với 100 triệu $ (chi cuối cùng là 140 triệu $). Hành động đầu tiên của chúng tôi là phân chia 500 $ cho mỗi người trong số 40.000 nhà khoa học giỏi nhất của Nga với hi vọng rằng điều này sẽ khuyến khích họ ở lại Nga và tiếp tục công việc khoa học của họ. Việc này tốn 20 triệu $, và nó cho phép các nhà khoa học này tồn tại một năm. Các tiêu chuẩn lựa chọn người được nhận là công khai, minh bạch, và khách quan: Các nhà khoa học đã phải có ba bài báo đăng trong các xuất bản phẩm khoa học hàng đầu. Việc phân phát được hoàn tất trong vài tháng, với tỉ lệ chi phí ít hơn 10 phần trăm, và sơ đồ đã đảm bảo chi trả bằng đôla cho mỗi người nhận ở khắp Liên Xô trước đây. Điều này chứng tỏ kiến nghị của tôi về kiểm soát giải ngân là có tính thực tiễn.
Phần tiền còn lại được dùng để hỗ trợ nghiên cứu trên cơ sở một quá trình duyệt đồng đẳng được tổ chức ở tầm quốc tế, trong đó, các nhà khoa học nổi tiếng nhất trên thế giới đã tham gia. (Boris Berezovsky, người muộn hơn trở thành một kẻ đầu sỏ tai tiếng, đã đóng góp 1,5 triệu $ cho trợ cấp đi lại vì các lí do riêng của ông ta. Đây là khoản đóng góp duy nhất từ Nga). Tất cả tiền được cam kết cho thời hạn ít hơn hai năm.
Những lí do để tôi ủng hộ các nhà khoa học rất phức tạp. Tôi muốn chứng minh rằng: Viện trợ nước ngoài có thể thành công, và tôi chọn khoa học như lĩnh vực để chứng minh, vì tôi có thể tính đến sự ủng hộ của các thành viên của cộng đồng khoa học quốc tế, những người sẵn lòng hiến thời gian và năng lực của họ cho việc đánh giá các dự án nghiên cứu. Nhưng phương thức phân chia viện trợ khẩn cấp có thể có kết quả cho những người về hưu cũng như các nhà khoa học.
Có các lí lẽ khác ủng hộ việc giúp các nhà khoa học. Trong thời gian chế độ Soviet còn đứng vững, nhiều bộ óc tuyệt nhất đã gia nhập các viện nghiên cứu, nơi tư duy đ»c lập được khoan dung hơn so với phần còn lại của xã hội Soviet, và họ làm ra loại khoa học đứng đầu các thành tựu của nhân loại. Nó là một xu hướng khác một chút so với khoa học phương Tây - mang tính suy đoán hơn và ít tiên tiến hơn về mặt kĩ thuật, trừ vài lĩnh vực ưu tiên. Các nhà khoa học cũng đi đầu trong việc cải cách chính trị. Andrei Sakharov đặc biệt được nhiều người biết đến và được ngưỡng mộ, nhưng còn nhiều người khác nữa. Ngoài ra, đã có mối nguy hiểm là các nhà khoa học hạt nhân có thể bị các nước xỏ lá cám dỗ.
Toàn bộ công việc là một thành công vang dội và đã cho quỹ tài trợ của tôi danh tiếng không thể bị công kích. Đã có nhiều cuộc tấn công chống chúng tôi vì chúng tôi đã tham gia vào các chương trình có thể gây tranh cãi. Thí dụ, chúng tôi tổ chức một cuộc thi các sách giáo khoa mới không có ý thức hệ Marxist-Leninist và bị lên án là đầu độc đầu óc sinh viên. Một lần, Duma đã tiến hành buổi nghe điều trần về việc cáo buộc chúng tôi kiếm bí mật khoa học một cách rẻ tiền, mặc dù mọi nghiên cứu do quỹ tài trợ đều phải được công bố và thuộc về tài sản công cộng. Toàn bộ cộng đồng khoa học đứng lên ủng hộ chúng tôi, và vì thế Duma đã kết thúc bằng cách thông qua biểu quyết cảm ơn. Khi tôi nói là lịch sử có thể có diễn tiến khác đi nếu các nền dân chủ phương Tây đã đến giúp nước Nga sau sự sụp đổ của hệ thống Soviet, tôi vì thế có thể dựa vào thí nghiệm riêng của tôi.
[7] Hãy tưởng tượng những người Nga có thể nghĩ về Phương Tây ngày nay khác thế nào nếu giả như IMF đã trả tiền lương hưu cho họ khi họ ở bên lề của sự chết đói.
Tôi đã kiêng việc đầu tư cá nhân vào Nga, một phần để tránh bất kể xung đột lợi ích nào, nhưng chủ yếu vì tôi không thích cái tôi thấy. Tôi đã không can thiệp, tuy vậy, các nhà quản lí quỹ của tôi, nhiều người đã muốn đầu tư, và tôi cũng chấp thuận sự tham gia của họ trong một quỹ đầu tư do Nga điều hành, với các điều kiện ngang bằng như các nhà đầu tư phương Tây khác.
Tôi đã dự Diễn đàn Kinh tế Thế giới ở Davos tháng Giêng 1996, nơi ứng viên tổng thống cộng sản, Gennadi Zyuganov, được cộng đồng kinh doanh tiếp đón nồng nhiệt. Tôi gặp Boris Berezovsky và nói rằng: Nếu Zyuganov được bầu thì ông ta, Berezovsky, sẽ bị treo trên cột đèn. Tôi muốn ông ủng hộ Grigory Yavlinsky, người tôi coi là nhà cải cách chân thật duy nhất giữa các ứng viên, nhưng tôi đã ấu trĩ. Tôi không nhận ra mức độ mà Berezovsky đã dính líu vào các thương vụ bẩn thỉu với gia đình Yeltsin. Theo tuyên bố công khai của ông ta, cảnh báo của tôi về sự an toàn của ông ta tập trung sự chú ý của ông ta. Cùng với các nhà doanh nghiệp Nga hàng đầu tham dự hội nghị Davos, họ đã nhóm họp và lập một nhóm hoạt động cho sự tái cử của Eltsin.
Đó là cách họ trở thành đầu sỏ. Một thủ thuật chính trị xuất sắc: Yeltsin bắt đầu với một ước lượng chấp thuận thấp hơn 10 phần trăm, và họ đã thành công để ông ta được tái cử. Cuộc vận động do Anatoly Chubais quản lí. Tôi không biết chi tiết, nhưng tôi có thể dùng trí tưởng tượng của mình. Khi một trong những trợ lí của Chubais bị bắt khi rời Nhà Trắng Nga - tổng hành dinh của thủ tướng và chính phủ - cùng với khoảng 200.000 $ trong một chiếc cặp, tôi chắc không phải tiền chơi. Những kẻ đầu sỏ đã tống một giá nặng cho sự ủng hộ Yeltsin của họ. Họ đã nhận cổ phần của các công ti nhà nước giá trị nhất, như tài sản đảm bảo cho các khoản vay mà họ cho ngân sách nhà nước vay trong sơ đồ tai tiếng “cho vay đổi lấy cổ phần”. Sau khi Yeltsin thắng cử, các công ti này được đưa ra đấu giá và bọn đầu sỏ chia chác cổ phần với nhau.
Tôi biết kĩ Chubais. Theo tôi, ông là một nhà cải cách thật sự, người đã bán linh hồn mình cho quỷ dữ để chiến đấu chống lại cái ông gọi là “mối đe doạ đỏ-nâu” - sự kết hợp của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa dân tộc - cái ông tin sẽ chế ngự nước Nga, trừ phi ông làm cái gì đó để ngăn chặn nó. Sau sự tái cử của Yeltsin, ông lại phụ trách kinh tế, nhưng ông đã gặp khó khăn trong việc kiểm soát những kẻ đầu sỏ ngành dầu khí. Tôi được động viên nhiều khi Yeltsin đưa Boris Nemtsov, thống đốc cải cách của Nizhny Novgorod, vào chính phủ và coi ông như con nuôi. Chubais bị cuộc bầu cử làm đồi bại, còn Nemtsov thì trong sạch: Ông đã vững vàng hơn Chubais. Tôi coi đây là một tín hiệu, rằng: Chế độ Yeltsin, dưới sự lãnh đạo của Chubais, thật sự muốn rời xa chủ nghĩa tư bản ăn cướp sang chủ nghĩa tư bản hợp pháp. Ngân sách nhà nước và cung tiền được giữ trong giới hạn, và thuế quá hạn đã bắt đầu được thu. Lạm phát và lãi suất giảm. Quyền của cổ đông được tôn trọng hơn, và thị trường cổ phiếu hưng phát. Tiền nước ngoài đổ vào cổ phiếu và các công cụ nợ. Những người Nga đi vay có thể nhận được khoản vay năm năm chỉ với 250 điểm cơ sở
[8], cao hơn lãi suất liên ngân hàng ở London.
Chính vì dựa vào cơ sở này mà năm 1997 tôi đã quyết định tham gia vào cuộc đấu giá Svyazinvest, công ti mẹ, quốc doanh về điện thoại. Tôi đau khổ vì quyết định, do biết quá nhiều về nạn tham nhũng tràn lan ở Nga. Đã dễ hơn để giữ cho bàn tay tôi sạch bằng cách bám chặt vào việc từ thiện. Nếu nước Nga không thể chuyển đổi từ chủ nghĩa tư bản ăn cướp sang chủ nghĩa tư bản hợp pháp, thì mọi việc từ thiện của tôi là vô ích. Cho nên tôi quyết định tham gia đấu thầu cạnh tranh mua Svyazinvest, việc đấu thầu hoá ra thắng. Đây đã là cuộc đấu giá thật sự, trong đó nhà nước không bị lừa. Mặc dù chúng tôi trả một giá hợp lí - dưới 2 tỉ $ một chút, gần một nửa do các quỹ của tôi đưa ra - tôi tính rằng nó sẽ là một khoản đầu tư rất đáng nếu quá độ sang chủ nghĩa tư bản hợp pháp suôn sẻ.
Đáng tiếc đó không phải là điều đã xảy ra. Cuộc đấu giá bị xô đẩy thành một cuộc ẩu đả, đấu đá lê thê giữa những kẻ đầu sỏ, một cuộc cãi vã giữa bọn ăn cắp. Một số kẻ đầu sỏ đã hăm hở cho quá độ sang hợp pháp trong khi những kẻ khác kháng cự vì họ không có khả năng hoạt động một cách hợp pháp. Kẻ phản đối chủ yếu cuộc đấu giá và kết quả của nó là Boris Berezovsky. Sau khi liên minh của ông ta thua đấu giá, ông ta thề tiêu diệt Chubais. Tôi đã có một số cuộc nói chuyện thành thật với ông ta, nhưng tôi đã không tìm được cách can ngăn ông ta. Tôi đã nói rằng ông ta là một người giàu, có giá trị hàng tỉ trên giấy. Tài sản chính của ông ta là Sibneft, một trong những công ti dầu lớn nhất thế giới. Tất cả cái ông ta cần làm là củng cố vị thế của mình. Nếu ông ta không tự mình làm được, ông ta có thể thuê một nhà ngân hàng đầu tư. Ông ta bảo là tôi không hiểu: Vấn đề không phải là ông ta giàu có đến đâu mà là ông ta so đọ ra sao với Chubais và với những kẻ đầu sỏ khác. Họ đã có một sự dàn xếp, và họ phải bám vào nó. Ông ta phải tiêu diệt hoặc bị tiêu diệt.
Tôi đã chứng kiến rất gần một cảnh tượng lịch sử kinh dị, trong đó, những kẻ đầu sỏ hùng mạnh đã cố thử đảo ngược kết quả không chỉ của cuộc đấu giá mà của toàn bộ nỗ lực của chính phủ để kiểm soát những kẻ đầu sỏ. Cứ như tôi đang xem những người đánh lộn nhau trên một chiếc thuyền khi nó bị cuốn đến một thác nước. Như một phần của chiến dịch buộc tội và buộc tội chống trả, Berezovsky đã tiết lộ rằng: Chubais đã nhận 90.000 $ từ một hợp đồng sách giả, thực ra là sự trả công của các đầu sỏ khác cho sự phục vụ của ông như nhà quản lí cuộc vận động của Yeltsin. Chubais yếu đi và bị bối rối do liên tục phải tự bảo vệ. Việc thu thuế cần sự can thiệp cá nhân của ông, nếu phải tiến triển việc đó, và tiền thu thuế đã sụt giảm. Có một sự trôi dạt xuống điểm nguy hiểm trong nền kinh tế năm 1998, đúng lúc người ta bắt đầu cảm nhận được tác động của cuộc khủng hoảng Á châu. Nó lên đến đỉnh điểm ở vụ vỡ nợ nội địa ở Nga vào tháng Tám 1998, làm rung chuyển các thị trường tài chính quốc tế.
Các ngân hàng Hàn Quốc và Brazil đầu tư nhiều vào thị trường Nga đã phải thanh lí các vị thế của họ. Một số ngân hàng Moscow cho vay cũng bị rủi ro vì chúng đã có các vị thế đầu cơ trái phiếu lớn và cũng có các hợp đồng kì hạn bằng rúp không được đảm bảo. Đã có những giờ phút gieo neo vào tháng Mười Hai 1997, nhưng chúng đã trôi qua. Lãi suất tăng đột ngột và chi tiêu chính phủ giảm sút, nhưng Duma do dự thông qua các luật cần thiết cho cải cách cơ cấu. Ngày 24 tháng Ba 1998, Yeltsin sa thải Viktor Chernomyrdin khỏi chức thủ tướng và ngày 24 tháng Tư, buộc Duma chấp nhận Sergei Kiriyenko, một nhà kĩ trị trẻ do Gaidar và Chubais kiến nghị, thay thế. Một thoáng, nước Nga đã có một chính phủ cải cách, chính phủ tốt nhất từ khi Liên Xô tan rã, và tháng Bảy 1998, IMF đã thông qua một khoản vay giá trị 8,5 tỉ SDR (khoảng 11,2 tỉ $ US), trong đó 3,6 tỉ SDR (khoảng 4,8 tỉ $ US) đã được giải ngân. Nhưng đã không đủ. Tại điểm này, tôi sẽ quay sang cái tôi gọi là thí nghiệm thời gian thực. Tôi bắt đầu nó ngay trước sự sụp đổ cuối cùng. Tôi sao lại một cách trung thực những ghi chép mà tôi đã viết trong hai tuần, trong khi khủng hoảng lan ra.
Một thí nghiệm thời gian thực Chủ nhật, 9-8-1998
Rúp (giao ngay) | = 6,29 |
Quá trình mà Karl Popper khuyến nghị là cải biến xã hội (social engineering) dần dần. Tôi không hoàn toàn vừa lòng với thuật ngữ, vì mặt thay đổi chế độ mang tính cách mạng, nhịp độ là quá nhanh để cho phép chúng ta xa hoa với hành động từ từ; đó là vì sao các sự kiện tuột khỏi vòng kiểm soát. Sự sụp đổ của hệ thống Soviet đã là giây phút lịch sử. Nhưng giây phút đó đã qua đi, và như tôi đã lí luận ở trên, chúng ta đã bỏ lỡ một cơ hội lịch sử. Quang cảnh chính trị quốc tế hiện nay tĩnh lặng hơn nhiều, với các vấn đề đặc thù dần dần trở nên sục sôi. Bởi vậy, một cách tiếp cận dần dần là thích hợp. Cho nên tôi sẽ tập trung vào một trường hợp cá biệt - sự tan rã của Nam Tư - điều nêu ra các vấn đề đối mặt với chúng ta theo cách đặc biệt chua xót. Tôi sẽ cố xây dựng lí lẽ biện hộ cho xã hội mở bằng đi từ cá biệt sang tổng quát. Sự tan rã của Nam Tư Kể từ lần xuất bản đầu tiên của cuốn sách này, khủng hoảng ở Kosovo đã trở nên nguy kịch hơn. Sự can thiệp của NATO tạo thành một tiền lệ quan trọng, trong đó, một liên minh các quốc gia dân chủ đã can thiệp vào một cuộc xung đột nội bộ trong phạm vi một quốc gia có chủ quyền, nhân danh các nguyên lí phổ quát, cho dù các nguyên lí đó đã không được xác định một cách thích đáng. Sự can thiệp đã thành công, nhưng đúng là sát nút, và gây nên nhiều vấn đề rắc rối. Cảnh tượng các máy bay NATO bỏ bom từ trên cao đã gây nhiều bối rối, và về nhiều mặt, đã trực tiếp phản tác dụng. Can thiệp của NATO đã đẩy nhanh sự thanh lọc sắc tộc mà nó nghĩ là phải ngăn chặn; nó tạm thời làm câm lặng sự phản đối nội địa đối với Slobodan Milosevic; nó đã chia rẽ hơn là thống nhất thế giới lại đằng sau các nguyên lí phổ quát mà nó viện dẫn đến. Kết quả cuối cùng đã làm nhẹ bớt một số tác động xấu này, và thật quá cám dỗ để quên các vấn đề rắc rối và tuyên bố thắng lợi. Nhưng điều đó không được tình trạng hiện thời biện minh. Những hi vọng gắn với can thiệp NATO đã không được thoả mãn. Milosevic vẫn nắm quyền ở Nam Tư. Sự phục hồi luật và trật tự ở Kosovo đã chậm chạp và không đầy đủ. Xung đột sắc tộc đang diễn ra, do Milosevic cổ vũ, trực tiếp làm lợi cho ông ta. Căng thẳng tăng lên giữa Serbia và Montenegro. Tất cả các diễn tiến này chứng tỏ rằng: Các thành viên NATO đã thất bại khi tiếp tục cuộc giao chiến với sự cam kết xây dựng. Các thành viên NATO cần đưa quá trình tan rã đến kết thúc bằng cách hội nhập khu vực vào cộng đồng kinh tế và chính trị của Châu Âu. Nhu cầu đã được các nhà lãnh đạo chính trị nhận ra; bây giờ, vấn đề là thực hiện. Tôi hi vọng: Ðến khi cuốn sách này được xuất bản, sẽ có tiến bộ đáng kể. Số phận của Nam Tư trước đây và số phận các nước láng giềng của nó tạo thành một trường hợp thử thách cho xã hội mở. Hãy xem lại sự tan rã của Nam Tư. Tôi có một số hiểu biết trực tiếp về chủ đề này. Tôi có các Quỹ tài trợ Xã hội Mở hoạt động ở tất cả các nước trong khu vực Balkan, trừ Hi Lạp và Thổ Nhĩ Kì. Trước khủng hoảng Kosovo, chúng tôi đã có các chi nhánh của Quỹ Nam Tư ở Kosovo và Montenegro; các chi nhánh này bây giờ được biến thành các quỹ độc lập. Tôi đã ở Belgade trong tháng Tư 1990 và đã gặp thủ tướng Ante Markovic đúng vào ngày ông công bố thành lập một đảng liên bang, đảng sẽ tranh cử ở mỗi nước cộng hoà. Chúng tôi đàm phán về việc thiết lập một Quỹ Xã hội Mở mà chính phủ liên bang sẽ cung cấp vốn đối ứng. Lúc đó, Nam Tư có tình hình kinh tế tốt hơn Ba Lan nhiều. Nó đã cởi mở hơn và thịnh vượng hơn Ba Lan suốt thời kì cộng sản. Cả hai nước đã mắc căn bệnh siêu lạm phát, và cả hai đã đưa ra chương trình ổn định hoá do IMF tài trợ - chương trình được biết đến nhiều hơn như “vụ nổ lớn” - vào 1 tháng Giêng 1990. Nam Tư đã có lợi thế về việc các chuyên gia được đào tạo bởi các định chế tài chính quốc tế ở Washington, và chương trình đã tiên tiến hơn nhiều so với ở Ba Lan. Giá thực tế rớt vào tháng Tư - đó đã là lí do vì sao Ante Markovic chọn đưa đảng của ông ra lúc đó. Sau đó, Milosevic bị thâm hụt ngân sách lớn ở Serbia, làm sụp đổ chương trình ổn định hoá và thắng các cuộc bầu cử ở Serbia. Tháng Sáu 1991, tôi cũng đã ở Belgrade, ngay trước khi chiến sự nổ ra ở Slovenia và Croatia. Tôi đã ăn sáng với Đại sứ Hoa Kì Warren Zimmerman, người nói với tôi rằng Bộ trưởng Ngoại giao James Baker vừa thăm Belgrade và bảo các nhà lãnh đạo quân đội Nam Tư rằng: Hoa Kì không phản đối nếu họ tuyên bố tình trạng khẩn cấp, đảm bảo các đường biên giới, và tiến hành bầu cử liên bang với sự giám sát quốc tế trong vòng sáu tháng. Tôi cũng đã gặp Bộ trưởng Ngoại giao Leko Loncar, người nói với tôi rằng: Cộng đồng Châu Âu đã đề nghị một khoản cho vay 3 tỉ ecu, một số tiền không nhỏ, nếu liên bang Nam Tư không tan rã, nhưng ông ta không hi vọng. Hơn nửa ngân sách liên bang dùng để chu cấp cho quân đội, chủ yếu dưới sự chi phối của người Serb; hơn nửa ngân sách liên bang là từ thuế quan, thu được ở Slovenia. Không ngạc nhiên là quân đội lo để đảm bảo nguồn thu nhập chủ yếu của nó và Slovenia đã không sẵn lòng cung cấp. Khi xung đột vũ trang xảy ra, nước đi đầu tiên của quân đội Nam Tư là cố chiếm các cứ điểm biên giới ở Slovenia, nhưng những người Slovenia đã quyết tâm hơn và đã thắng. Khi liên bang Nam Tư tan rã, tôi lập các quỹ ở mỗi nước cộng hoà kế tục. Tôi cứ tiếc mãi là đã làm chậm quá trình với hi vọng đảm bảo được vốn đối ứng từ chính phủ liên bang. Đã có một nhóm các nhà trí thức cam kết để biến đổi Nam Tư thành một nền dân chủ, những người tìm sự ủng hộ của tôi; tôi trao trách nhiệm cho họ điều hành các quỹ. Họ đã phản đối những xúc cảm dân tộc chủ nghĩa ngày càng trở nên chi phối khi sự tan rã của Nam Tư tiếp diễn và các hành động tàn bạo tăng lên. Họ vẫn háo hức hợp tác với nhau; họ thấy xung đột không phải ở dạng của những người Serb, Croat, Bosnia, và Albani mà là ở dạng của xã hội mở đối lại xã hội đóng. Điều này làm cho họ bất hoà, không chỉ với chế độ cai trị mà, trong trường hợp của Bosnia, với xã hội nói chung. Quỹ ở Croatia đã có nguy cơ bị giam cầm trong khu ghetto do nó tự tạo ra, và tôi đã miễn cưỡng thay ban lãnh đạo để cho quỹ có thể được một mảng rộng hơn của xã hội chấp nhận. Khi khủng hoảng Bosnia nổ ra và Sarajevo nằm dưới sự bao vây, tôi đã cam kết tặng 50 triệu $ cho Cao uỷ Người Tị nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR). Đó là vào tháng Mười Hai 1992. Suy nghĩ của tôi: Bằng cách ủng hộ các tổ chức tự nguyện đi vào nước đó, tôi cũng có thể kéo lực lượng gìn giữ hoà bình LHQ vào để bảo vệ họ, việc đó sẽ giúp ngăn chặn các hành động tàn ác. Đây hoá ra là một đường đi sai. Tuy nhiên, tôi vẫn giữ được một mức độ kiểm soát nào đó đối với quà biếu của tôi, và tiền được tiêu đặc biệt khéo. Dưới sự lãnh đạo của một nhà tổ chức cứu trợ tài ba, Fred Cuny, người sau đó bị giết ở Chechnya, thêm một hệ thống cung cấp nước được thiết lập, đưa điện đến qua một đường hầm, một đơn vị sản xuất plasma được lắp đặt ở bệnh viện, phân phát hạt giống cho người dân để trồng rau ở các miếng đất nhỏ hay trên ban công, v. v. Tuy vậy, tôi coi quà của tôi là một sự thú nhận thất bại: Có thể tốt hơn nhiều nếu khủng hoảng đã có thể được ngăn chặn và tiền được tiêu trong các nước không bị phá huỷ. Tháng Mười Một 1993, tôi thăm Sarajevo, bay trên một chiếc Ilyushin, một trong những máy bay lớn nhất trên thế giới, chở ống gas mà Fred Cuny dùng để mở rộng hệ thống cung cấp hơi đốt tự nhiên. Đó là một chuyến đi kinh hoàng, với phi hành đoàn Ukraina siết chặt hay nới lỏng các dây đai giữ các ống lại với nhau khi máy bay nghiêng sang bên này hay bên kia; chúng tôi ngồi trên một ghế băng dọc theo các ống, chúng tôi có thể bị đè nát nếu dây đai bị tuột. Ở Sarajevo, tôi được yêu cầu dự cuộc khánh thành hệ thống cung cấp nước. Cany đã xây dựng một « nhà máy tiền chế » làm sạch nước và thuê chở nó sang từng mảng. Chúng nằm vừa vặn bên trong chiếc Ilyushin và có thể được dỡ ra khỏi khoang trong vòng tám phút - thời gian bốc dỡ được phép ở Sarajevo. Chúng được lắp bên trong một đường hầm dọc con sông; nước được hút từ sông và được lọc sạch. Cuny thậm chí đã tìm thấy một bể chứa bị bỏ phế ở sườn đồi bên cạnh, xây từ thời quân chủ Áo-Hung, nơi có thể chứa nước và phân phối nhờ trọng lực. Đáng tiếc, các nhà chức trách địa phương đã không cho phép nối nước vào. Chúng tôi chẳng bao giờ tìm ra được vì sao - hoặc là vì nó có thể gây trở ngại cho mánh lới phân phối nước, hay vì chính phủ cần đến những hình ảnh đẫm máu trên CNN, cho thấy cảnh tượng người dân bị giết trong khi chờ lấy nước. Tôi đã phải đe doạ: Sẽ công khai đưa ra sự phản đối của mình, trước khi được cấp giấy phép. Quỹ Xã hội Mở ở Bosnia và Herzegovina đã có một nét riêng biệt, tách khỏi hoạt động cứu trợ nhân đạo. Mục tiêu của nó là hỗ trợ xã hội dân sự, và nó giữ khoảng cách với các nhà chức trách. Nó duy trì tinh thần phản kháng, kêu gọi lương tâm của thế giới. Nó chắc chắn đã kêu gọi lương tâm của tôi. Cuộc viếng thăm của tôi đơn thuần xác nhận điều mà tôi đã nhận biết từ xa: Sự cam kết anh dũng của họ cho các giá trị của xã hội mở. Trên đường quay về, tôi dừng ở Zagreb và đã có một cuộc gặp duy nhất với Tổng thống Franjo Tudjman. Ông lên án tôi ủng hộ những kẻ phản bội đất nước của ông và truyền bá tư tưởng mới, nguy hiểm, được gọi là xã hội mở. Quỹ tiếp tục chịu sự thù địch từ phía chính phủ, do nó ủng hộ các phương tiện truyền thông đại chúng độc lập. Sự kiểm soát các phương tiện truyền thông đại chúng là toàn diện hơn ở Croatia so với ở Nam Tư, và, vì có các mối liên hệ tôn giáo và lịch sử, nên ít bị Châu Âu lăng nhục hơn. Nó làm cho quỹ bị cô lập và bị rủi ro một chút. Tôi cũng dính líu sâu vào Macedonia. Hi Lạp đã áp đặt việc cấm vận lên Macedonia, trong tranh chấp về tên, điều đó phá vỡ nền kinh tế Macedonia một cách nghiêm trọng. Macedonia ở giữa đất liền và được Hi Lạp cung cấp dầu. Đầu năm 1993, tôi đã cho Macedonia vay 25 triệu $ để nước này có thể mua đủ dầu để vượt qua mùa đông. Macedonia là một xã hội đa sắc tộc với nhóm thiểu số Albani lớn. Nó có thể tồn tại như một nước độc lập chỉ nếu khi nó coi mọi công dân của mình ngang nhau, và chính phủ dường như nhận ra sức thuyết phục của lí lẽ này. Đó là lí do vì sao tôi đã cảm thấy rất quan trọng để vội vã giúp họ. Chính phủ đã trả món vay, nhưng về mặt khác, nó đã không hoàn toàn giữ lời hứa. Có lẽ nó đã cố gắng, nhưng vấp phải nhiều sự phản đối từ giới trí thức Macedonia. Đặc biệt, không được phép dạy bằng tiếng Albani ở trường đại học. Khi một trường đại học Albani bất hợp pháp được dựng lên ở Tetovo, tôi đã khẩn cầu Tổng thống Kiro Gligorov đừng phẫn nộ trước sự khiêu khích, nhưng vô ích: Máu đã chảy. Khi tôi công khai bày tỏ sự thất vọng của mình, chính phủ xem tôi như một persona non grata (người không được chấp nhận). Ðối lại, tôi cũng có cảm giác tương tự. Tôi đã đau khổ thấy đạo đức công xấu đi dần dần. Trong những ngày đầu độc lập và trong thời gian cấm vận của Hi Lạp, tôi đã cảm thấy khá rõ tinh thần vì công việc chung, thậm chí cả chủ nghĩa lí tưởng, được chính phủ thể hiện. Khi Nam Tư bị cấm vận, tình hình đã thay đổi. Buôn lậu và các hoạt động lậu truyền bá tham nhũng. Đã có mưu toan ám sát Tổng thống Gligorov, trượt sát mục tiêu. Tôi thấy rằng các quan chức chính phủ trung thực trước kia đã từ bỏ cuộc chiến đấu, trở nên ích kỉ và tham nhũng. Quỹ của chúng tôi ở Nam Tư đúng là đã luôn luôn bất hoà với chế độ, nhưng nó đã tìm được cách bén rễ mạnh trong xã hội dân sự. Bên cạnh việc nó ủng hộ các phương tiện truyền thông đại chúng độc lập và cung ứng các khoản trợ cấp khác làm cho chính phủ phẫn nộ, quỹ còn tiến hành nhiều hoạt động nữa - đặc biệt về y tế công cộng, giáo dục, văn hoá, và hỗ trợ những người tị nạn - mà chính phủ không thể công khai phản đối. Tại một điểm, việc đăng kí của quỹ bị thu hồi, nhưng nó vẫn tiếp tục hoạt động, và cuối cùng việc đăng kí được phục hồi. Sau đó khi tôi thăm quỹ vào tháng Sáu 1997, tôi được Milan Milutinovic, khi đó là Bộ trưởng Ngoại giao, tiếp. Chúng tôi, nói theo ngôn ngữ ngoại giao, đã có một cuộc thảo n. Chính để khai thác mọi lựa chọn khả dĩ, tôi đã gọi lại cho Gaidar để hỏi, liệu có thể áp một khoản phí lên những người nắm giữ GKO, những người muốn lấy tiền mặt khi hoàn trả. Ông ta nói: Sẽ phản tác dụng vì nó sẽ tiêu huỷ mức tín nhiệm của GKO. Tất nhiên ông ta đã đúng. Theo tình hình này, tôi tin rằng: Không có sơ đồ của tôi, chính phủ sẽ vỡ nợ với các hệ quả tai biến; ngay cả với sơ đồ ấy, hầu hết các ngân hàng Nga sẽ bị phá huỷ, nhưng thậm chí sẽ là sai lầm, nếu lại đi cứu vớt chúng. Tối thứ Ba, 11 tháng Tám Rúp (giao ngay) | = 6,30 |
Rúp Kì hạn | = 91% |
GKO | = 147% |
Prins | = 23,92% |
S&P | = 1.068,98 |
Trái phiếu kho bạc Mĩ 30 năm | = 5,60% |
Tôi có cuộc đối thoại ngắn với Lipton ngày thứ Hai. Chính quyền Hoa Kì vẫn chưa đi đến kết luận. Ông ta hứa sẽ gọi lại. Ngày thứ Ba đã có sự sụp đổ trong thị trường tài chính Nga. Buôn bán trên thị trường cổ phiếu tạm ngưng. Trái phiếu chính phủ thụt ở mức thấp nhất mới. Thậm chí các thị trường quốc tế bị ảnh hưởng. Sơ đồ mà tôi kiến nghị không còn khả thi nữa. Chỉ một gói cứu trợ lớn tối thiểu 15 tỉ $ mới có thể ổn định thị trường và không thể kì vọng nhà đầu tư tư nhân nào đưa tiền vào. Lipton bay đi Moscow mà không gọi lại cho tôi. Tôi nghe qua tin vịt rằng ông ta cáu tiết đi mà chẳng có gì để đề nghị. Tôi quyết định viết bức thư sau cho Financial Times: “Thưa ngài, sự sụp đổ ở các thị trường tài chính Nga đã đến pha kết thúc. Các nhà ngân hàng và môi giới những người đã vay đối lại các chứng khoán không thể thoả mãn gọi vốn biên và việc bán bắt buộc tràn đầy cả thị trường cổ phiếu và trái phiếu. Thị trường cổ phiếu tạm thời bị đóng cửa vì không thể thanh toán việc buôn bán; giá trái phiếu chính phủ và tín phiếu kho bạc lao xuống vực thẳm. Mặc dù việc bán tạm thời được hấp thu, có nguy cơ là dân cư sẽ lại bắt đầu rút tiền tiết kiệm. Cần đến hành động ngay lập tức. Phiền là hành động cần thiết để đương đầu với một khủng hoảng ngân hàng là ngược hoàn toàn với hành động đã thống nhất với Quỹ Tiền tệ Quốc tế để đương đầu với khủng hoảng ngân sách. Chương trình IMF áp đặt chính sách tiền tệ và tài khoá ngặt nghèo; khủng hoảng ngân hàng đòi hỏi bơm thanh khoản. Hai đòi hỏi không thể hoà thuận mà không có sự giúp đỡ quốc tế thêm. Chương trình của IMF giả định rằng, sẽ có người mua trái phiếu chính phủ với một cái giá: Khi chính phủ tiếp tục thu thuế và cắt bớt chi tiêu, lãi suất sẽ hạ xuống và khủng hoảng sẽ dịu đi. Giả thiết là sai vì phần lớn nợ tồn đọng được giữ tại biên và mức tín dụng có thể không được gia hạn. Có một kẽ hở tài trợ cần được lấp. Kẽ hở sẽ trở nên lớn hơn nếu công chúng bắt đầu rút tiền gửi. Giải pháp tốt nhất là đưa ra một hội đồng tiền tệ [4] sau một đợt phá giá vừa phải từ 15 đến 25 phần trăm. Cần phá giá để hiệu chỉnh việc sụt giá dầu và để giảm khoản dự phòng cần đến cho hội đồng tiền tệ. Nó cũng phạt những người nắm giữ nợ chính phủ có mệnh giá bằng rúp, cự tuyệt chi phí cứu giúp. Cần đến khoảng 50 tỉ $ dự trữ: 23 tỉ $ để đảm bảo M1 [lượng cung tiền ngắn do công chúng nắm giữ] và 27 tỉ $ để đảm bảo cho thâm hụt nợ nội địa đảo nợ cho năm tiếp theo. Nga có dự trữ 18 tỉ $; IMF đã hứa 17 tỉ $. Nhóm G7 cần phải đưa thêm 15 tỉ $ để làm cho hội đồng tiền tệ khả thi. Sẽ không có sự cứu giúp hệ thống ngân hàng. Trừ một vài tổ chức giữ tiền gửi của công chúng, các ngân hàng phải tự lo lấy. Giá trái phiếu của chính phủ có thể phục hồi ngay tức khắc và các định chế tài chính lành mạnh hơn có thể sống sót. Khoảng 40 tỉ $ được những người Nga giữ bằng tiền nước ngoài. Với một hội đồng tiền tệ, họ có thể được quyến rũ để mua trái phiếu chính phủ có mệnh giá rúp với suất thu nhập hấp dẫn. Nếu họ làm vậy, tín dụng dự phòng của G7 không cần phải dùng đến. Việc giảm lãi suất sẽ giúp chính phủ thoả mãn các mục tiêu tài khoá của mình. Nếu giả như G7 sẵn lòng đưa 15 tỉ $ ngay tức thì, tình hình có thể được ổn định, thậm chí không cần đến hội đồng tiền tệ, mặc dù nó kéo dài hơn và thiệt hại sẽ lớn hơn. Sẽ khó thực hiện sự hiệu chỉnh tiền tệ hạn chế mà không có một hội đồng tiền tệ vì áp lực phá giá tiếp nữa sẽ trở nên không thể cưỡng được, như đã xảy ra ở Mexico tháng 12-1994. Nếu hành động bị trì hoãn, cái giá cho việc cứu nguy sẽ tiếp tục tăng lên. Chi phí đã chỉ là 7 tỉ $ một tuần trước đây. Đáng tiếc, các nhà chức trách tài chính quốc tế đã không đánh giá đúng tính khẩn cấp của tình hình. Các lựa chọn khả dĩ khác, là vỡ nợ hay siêu lạm phát. Cả hai sẽ đều có các hậu quả tài chính và chính trị tàn khốc.” Thứ Năm, 13 tháng Tám Rúp (giao ngay) | = 6,35 |
Rúp Kì hạn | = 162% |
GKO | = 149% |
Prins | = 23,76% |
S&P | = 1.074,91 |
Trái phiếu kho bạc Mĩ 30 năm | = 5,65% |
Sau khi tôi viết bức thư cho tờ Financial Times, Phó Thống đốc Ngân hàng trung ương Nga áp đặt một số hạn chế lên tính chuyển đổi của đồng rúp. Nó đã có một tác động tàn phá lên thị trường Nga: Các cổ phiếu đã mở ở mức thấp hơn 15 phần trăm và đã không phục hồi mấy. Bức thư của tôi đã nhận được nhiều chú ý, nhưng những chú ý này lại nhắm vào chủ trương phá giá của tôi, chứ không hướng tới đề xuất của tôi về một hội đồng tiền tệ. Nó đã trở thành một yếu tố trong cái được gọi là Thứ Năm Đen tối. Tôi bị kết tội đầu cơ chống đồng rúp. Đó không phải là ý định của tôi. Tôi cảm thấy buộc phải đưa ra một tuyên bố như sau: “Sự rối loạn trong các thị trường tài chính Nga không do bất kể điều gì tôi đã nói hay làm. Chúng tôi không có vị thế ngắn bằng rúp và không có ý định nào trong việc bán non đồng tiền. Thực ra, danh mục đầu tư của chúng tôi sẽ bị hại bởi bất kể sự phá giá nào. Mục đích của bức thư của tôi gửi cho tờ Financial Times chỉ là việc đưa ra một lời kêu gọi cảnh tỉnh cho các chính phủ G7. Trong khi chính phủ Nga đang làm mọi thứ trong quyền hạn của mình để đối phó với tình hình, nó không thể thành công mà không có trợ giúp thêm từ nước ngoài.” Thứ Sáu, 14 tháng Tám Rúp (giao ngay) | = 6,35 |
Rúp Kì hạn | = 162,7% |
GKO | = 172% |
Prins | = 23,01% |
S&P | = 1.062,75 |
Trái phiếu kho bạc Mĩ 30 năm | = 5,54% |
Tôi đã nói chuyện với Bộ trưởng Bộ Tài chính Rubin và nhấn mạnh tính khẩn cấp của tình hình. Ông ta hoàn toàn ý thức được, nhưng mối quan tâm của ông không được các chính phủ G7 khác chia sẻ, điều chủ yếu không đạt được do nghỉ hè. Nghị sĩ Mitch McConnel liên hệ với tôi và tôi thúc giục ông gọi điện thoại cho Rubin để đảm bảo với ông ta sự ủng hộ của đảng Cộng hoà trong cái có thể là một hành động rất rủi ro. Muộn hơn trong ngày, người ta tiếp cận tôi, nhân danh Kiriyenko. Ông ta vẫn tìm kiếm khoản vay bắc cầu 500 triệu $ nhưng khoản đó không còn thực tế. Tôi đề nghị bay sang Moscow để thảo luận các vấn đề lớn hơn, nếu điều đó có thể giúp được gì. Tối Chủ Nhật, 16 tháng Tám Rúp (giao ngay) | = 6,35 |
Rúp Kì hạn | = 162,7% |
GKO | = 172% |
Prins | = 23,01% |
S&P | = 1.062,75 |
Trái phiếu kho bạc Mĩ 30 năm | = 5,54% |
Tôi ở Nga gần hết cuối tuần. Tôi đã trả lời phỏng vấn trên đài phát thanh Echo [Tiếng vọng] Moskva, giải thích lập trường của tôi, và một tuyên bố của tôi được đọc trên TV Nga. Tôi hi vọng tìm được cách sửa lại ấn tượng sai, rằng tôi chủ trương phá giá khi tôi cầu khẩn lập hội đồng tiền tệ hoặc rằng tôi có thể được lợi từ sự phá giá bằng cách nào đó. Nói chuyện với Gaidar dăm ba lần. Chuẩn bị một bài - về việc chủ trương giải pháp một hội đồng tiền tệ - và gửi cho ông ta chuẩn y. Đúng bây giờ (6:30 chiều Thứ Hai, giờ Moscow), ông ta nói với tôi rằng ông đã nói chuyện với Larry Summers [Thứ trưởng Tài chính] và không có trợ giúp nào; họ sẽ phải hành động đơn phương. Tôi nói bài báo của tôi không còn thích hợp, nhưng ông đã thúc tôi công bố nó, dẫu sao đi nữa. Tôi đã không làm điều đó. Thứ Ba, 18 tháng Tám Rúp (giao ngay) | = 6,80 |
Rúp Kì hạn | = 305% |
GKO [5] | = |
Prins | = 29,41% |
S&P | = 1.101,20 |
Trái phiếu kho bạc Mĩ 30 năm | = 5,56% |
Thứ Hai, địa ngục bung ra. Nước Nga áp đặt việc hoãn nợ và nới rộng dải mua bán đồng rúp, thực tế, phá giá nó đến 35 phần trăm. Tồi hơn, các ngân hàng Nga không được phép thực hiện các nghĩa vụ với nước ngoài của họ. Điều này gây tàn phá giữa các đối tác nước ngoài, bán tống bán tháo các chứng khoán Nga với bất kể giá nào. David Lipton gọi cho tôi nhờ giải thích và gợi ý tôi viết cho họ một thư báo. Đọc lại, tôi thấy nó hơi bị xuyên tạc. Điểm mà tôi thử đưa ra là vẫn chưa quá muộn để tìm một giải pháp xây dựng cho khủng hoảng ở Nga. G7 phải đưa ra đề nghị đưa tiền mạnh, cần cho việc lập một hội đồng tiền tệ với điều kiện Duma thông qua các luật cần thiết để thoả mãn các điều kiện của IMF. Có hai khả năng: Duma có thể đồng ý hay từ chối kiến nghị. Trong trường hợp đầu, giá trị đồng rúp sẽ được phục hồi, nợ bằng rúp có thể được táiởng, và KLA lấn sân. Không ngoa để nói rằng: Khủng hoảng Kosovo năm 1999 là hệ quả trực tiếp của Hiệp ước Dayton năm 1995. Các nhà hoạch định chính sách Tây phương phải nhận ra rằng: Xung đột ở Nam Tư đã không chỉ là giữa những người Serb, Croat, Bosnia, và Albani, mà cũng là giữa xã hội đóng và xã hội mở. Sự nhận ra này có thể làm cho các nhà hoạch định chính sách nhạy cảm hơn với các vấn đề như thiếu các phương tiện truyền thông đại chúng độc lập và các cuộc bầu cử gian lận. Nó có thể đã làm họ nản lòng, không dựa vào các chế độ đàn áp giống như các chế độ của Slobodan Milosevic, Franjo Tudjman, và ở mức độ ít hơn, của Alija Izetbegovic ở Bosnia; họ có thể đã không bỏ qua các vấn đề ở Kosovo trong suốt cả một thập kỉ. Thứ ba, sự can thiệp từ bên ngoài rõ ràng đã không thành công. Nó có nhiều dạng, song chẳng hình thức nào hoạt động cả. Ở Bosnia, cộng đồng quốc tế đã can thiệp trong khuôn khổ của LHQ, và kết quả thật tai hại. Học từ bài học đó, ở Kosovo, các cường quốc phương Tây dựa vào NATO, nhưng kết quả chẳng tốt hơn mấy; cuối cùng, phải cầu khẩn đến nhà chức trách LHQ để tạo một sự dàn xếp. Trước đó, LHQ đã áp đặt cấm vận kinh tế với các hệ quả không lường trước. Các nhà doanh nghiệp mờ ám có thể vi phạm sự trừng phạt, với sự giúp đỡ của các nhà chức trách. Điều này dẫn đến những liên minh tội lỗi giữa các chế độ cai trị và các băng nhóm mafia ở Nam Tư và một vài nước láng giềng. Cộng đồng Châu Âu thậm chí đã thử hành động phòng ngừa bằng hứa cho vay nếu các nước trong liên bang Nam Tư ở lại với nhau, nhưng vô ích. Tóm lại, chẳng sự can thiệp nào có kết quả cả. Can thiệp quân sự ở Kosovo có đạt được mục tiêu quân sự trước mắt, song, nó đã không mang lại hoà bình. Các bài học của Nam Tư Các sự kiện ở Nam Tư ủng hộ lí lẽ chung của tôi. Can thiệp trừng phạt có khuynh hướng không hiệu quả và nó thường phản tác dụng. Điều này đúng với trừng phạt kinh tế, gìn giữ hoà bình, và hành động quân sự. Ngăn chặn khủng hoảng không thể bắt đầu đủ sớm, và nó phải dựa vào các nguyên lí của xã hội mở. Ngay dù có đúng như thế, cũng không có đảm bảo nào rằng hành động phòng ngừa sẽ thành công; cho nên chúng ta không thể không có những trừng phạt. Các trừng phạt này sẽ được biện minh tốt hơn về mặt đạo đức và chính trị nếu đã vét cạn tất cả các lựa chọn xây dựng. Ở các giai đoạn sớm, phòng ngừa khủng hoảng là tương đối không đau đớn và rẻ tiền; muộn hơn, thiệt hại và chi phí leo thang theo hàm số mũ. Phiền là, phòng ngừa khủng hoảng, dẫu cho bắt đầu sớm đến đâu, không nhất thiết sẽ thành công. Có một phần của khái niệm về xã hội mở cho rằng: Không phải mỗi vấn đề đều có một giải pháp. Thí dụ, với thiện chí tốt nhất trên đời, chẳng có gì có thể duy trì được hiện trạng ở Nam Tư. Vào năm 1989, nếu giả như các nền dân chủ phương Tây đã phản đối khi Slobodan Milosevic huỷ bỏ sự tự trị của Kosovo, có khả năng là Milosevic đã không thể củng cố được quyền lực của ông ta ở Serbia, và do đó, đã có thể có một quá độ hoà bình hơn sang chế độ mới. Nhưng nếu sự can thiệp thất bại, thì hành động quân sự có thể không thể tránh khỏi. Mặc dù thế, hành động sớm có thể ít tốn kém hơn. Thiệt hại có thể đã ít hơn nhiều, nếu giả như NATO đã can thiệp khi hải quân Nam Tư ném bom Dubrovnik vào tháng Mười Hai 1991. Một trong những trở ngại chính cho can thiệp khủng hoảng sớm là một tỉ lệ rủi ro-phần thưởng nghịch. Chẳng ai được vinh dự do giải quyết các cuộc khủng hoảng vẫn chưa nổ ra; nếu sự ngăn chặn thành công, không khủng hoảng nào xảy ra cả. Chỉ có sự thất bại mới được ghi nhớ. Chính phủ hay các định chế nào lại sẵn lòng chấp nhận sự đánh cược như vậy? Tôi tin trở ngại có thể được khắc phục với sự giúp đỡ của lí lẽ đạo đức mà tôi đề xuất ở trước: Về vấn đề làm việc đúng, ta phải chuẩn bị chiến đấu các trận có thể bị thua. Tôi muốn làm rõ điểm này bằng cách ngó tới một lĩnh vực khủng hoảng vẫn chưa nổi lên trong ý thức chung: Thung lũng Ferghana. Thung lũng Ferghana Thậm chí, có ít người đã nghe nói về Thung lũng Ferghana, nối Uzbekistan, Tajikistan, và Kyrgyzstan. Còn ít người hơn biết rằng: Rắc rối nghiêm trọng đang mưng lên ở đây. Tôi có thể cũng chẳng biết đến nó, nếu giả như tôi không có các quỹ ở các nước đó. Uzbekistan là quốc gia lớn nhất và mạnh nhất trong khu vực, được phú cho nhiều dầu và khoáng sản và phải chịu một chế độ áp bức. Sự đàn áp được chủ yếu hướng về việc chống lại trào lưu Hồi giáo chính thống, và coi mọi biểu hiện của Hồi giáo như biểu hiện của trào lưu chính thống, chế độ có thể trấn áp thoải mái. Kyrgyzstan, nước láng giềng, nhỏ hơn và nghèo hơn nhiều. Nó có một tổng thống có thiên hướng dân chủ nhưng bất lực. Tajikistan bị tàn phá bởi nhiều năm nội chiến, mới được giải quyết gần đây. Các đường biên giới trong Thung lũng Ferghana là khó kiểm soát, và bản thân thung lũng lại dễ tiếp cận từ Afganistan. Thung lũng suy tàn về kinh tế, buôn bán ma tuý và khủng bố ngự trị. Các sự cố vũ trang xảy ra ở Kyrgyzstan nhiều hơn ở Uzbekistan, chính xác vì Uzbekistan độc đoán hơn. Bầu cử tổng thống được dự định ở Kyrgyzstan vào tháng Mười 2000, dự kiến với phe đối lập đáng kể. Dưới áp lực từ mọi phía, chính quyền ngày càng phục hồi các biện pháp trấn áp, hăm doạ các phương tiện truyền thông và bắt giữ các ứng viên tổng thống tiềm năng. Chẳng có lí do gì để tin rằng: Các ứng viên đó sẽ dân chủ hơn chút nào so với người đương nhiệm. Triển vọng ảm đạm. Sự đàn áp và khủng bố tăng cường lẫn nhau. Chúng ta ở trong giai đoạn đầu của xung đột leo thang. Ở khía cạnh này, tình hình gợi nhớ lại Nam Tư năm 1990. Phải làm gì? Tôi không nhìn thấy một chiến lược để đảo lộn xu hướng thịnh hành, để tôi lại với hai lựa chọn: Tiếp tục làm điều mà quỹ của chúng tôi làm tốt nhất - hỗ trợ giáo dục, xã hội dân sự, và pháp trị - hoặc từ bỏ hoàn toàn nỗ lực. Nỗ lực dường như vô ích, và ở khía cạnh nào đó, nó thậm chí tỏ ra phản tác dụng. Thí dụ, nếu chúng tôi thành công trong việc thực thi pháp trị ở Kyrgyzstan vì tổng thống tương đối khá có chủ ý, thì ông ta có thể thua trong cuộc tranh cử với một nhân vật cứng rắn hơn. Nhưng tôi tin chắc rằng: Rút ra sẽ là một sai lầm. Thung lũng Ferghana tiêu biểu cho trường hợp: Nơi xứng đáng để tiếp tục, bất luận kết quả ngắn hạn là gì. Chúng ta đang gieo những hạt giống của xã hội mở, và trong số đó, một vài hạt sẽ bén rễ. Tỉ lệ mất mát sắp tới làm nản lòng, nhưng các hạt giống sống sót có thể trở nên có giá trị cực kì chính xác, vì có quá ít hạt sẽ sống sót. Tôi nhớ là ở Hungary, khi tôi muốn lập một trường kinh doanh, các ứng viên tốt nhất để lãnh đạo nó đã nghiên cứu ở nước ngoài theo học bổng của Quỹ Ford hai mươi lăm năm trước. Kết luận mà tôi rút ra không hoàn toàn thoả mãn, vì nó không cho một con đường để ra khỏi khủng hoảng hiện thời. Bản thân điều đó xem ra làm xói mòn lí lẽ biện hộ cho việc phòng ngừa khủng hoảng. Chúng ta đã nhận diện ra một khủng hoảng ở giai đoạn tương đối sớm, chúng ta muốn ngăn chặn nó, thế mà chúng ta không tìm được cách làm điều đó. Nhưng đó là thân phận con người: Không phải mọi vấn đề đều có lời giải. Khả năng rằng: Một cuộc khủng hoảng ở Thung lũng Ferghana là không thể tránh khỏi, trên thực tế làm vững mạnh lí lẽ ủng hộ loại công việc mà các quỹ của tôi gánh vác. Tôi đã lí luận rằng: Phòng ngừa khủng hoảng không thể bắt đầu đủ sớm, và rằng: nó được thực hiện đến cùng, tốt nhất bằng cách đặt nền móng cho các xã hội mở. Giả như, nếu chúng ta biết ngăn chặn khủng hoảng thế nào, thì đơn thuốc của tôi có thể quá hoang phí; cứ như tình hình này, nó có thể là sự lựa chọn sẵn có tốt nhất. Và cho dù nó có hoang phí, chắc chắn nó không vô dụng. Có thời kì, khi có thể tìm ra một chiến lược hứa hẹn. Trong các giai đoạn đầu của sự sụp đổ hệ thống Soviet, tôi đã có thể hầu như luôn luôn hình dung được các chiến lược đầy hứa hẹn nào đó, và tôi đã cố gắng ủng hộ chúng, mặc dù không thành công. Có các thời kì khác, khi chẳng có chiến lược nào xem ra hữu hiệu cả, vì xu hướng đã được định rồi. Sự giải tán Nam Tư là một trường hợp như vậy; Thung lũng Ferghana có thể là trường hợp khác nữa. Trong các trường hợp này, chúng ta phải dùng đến đơn thuốc của Sergei Kovalev và tiếp tục chiến đấu các trận thua. Nghịch lí thay, nó sẽ đảm bảo cho thắng lợi cuối cùng, bởi vì những người sẵn sàng chiến đấu các trận thua giữ cho ngọn lửa tự do không ngừng cháy. Xã hội trở nên tiến gần hơn tới lí tưởng xã hội mở, so với xã hội mà ở đó, người dân chỉ theo đuổi tư lợi của mình. Đó là sự biện minh cho việc làm đúng, bất luận những người khác làm gì. Viện trợ nước ngoài Khi tôi chủ trương can thiệp mang tính xây dựng vì mục đích kiến thiết các xã hội mở, tôi chủ trương viện trợ nước ngoài. Theo một nghĩa, đó là việc các quỹ của tôi làm, và đó là điều tôi chủ trương cho một liên minh các xã hội mở. Viện trợ nước ngoài đã mang tiếng xấu, và đúng thế. Nó là một hành động khởi nghiệp, về nhiều mặt, khó hơn việc điều hành một doanh nghiệp vì lợi nhuận, thế mà nó lại được rút gọn thành một bài tập quan liêu. Các bộ máy quan liêu hay quan tâm đến việc tự duy trì hơn là đến việc thực hiện sứ mệnh của mình. Trách nhiệm giải trình là một nét cốt yếu của nền dân chủ, nhưng nó khuyến khích hành vi phòng ngự, đoán theo, và buộc tội lẫn nhau. Chúng ta bắt các công chức theo các tiêu chuẩn cao hơn các nhà doanh nghiệp. Chúng ta chịu thiệt hại trong kinh doanh nhưng không chịu trong viện trợ nước ngoài. Chẳng ngạc nhiên là những người chịu trách nhiệm tránh rủi ro ngay cả với cái giá: Tránh luôn cả thành công. Trong lí lẽ ủng hộ viện trợ nước ngoài, tôi đi ngược dòng. Thuyết thị trường chính thống tìm cách giải thoát các hoạt động kinh tế khỏi bất kể loại can thiệp chính thống nào, và phải thừa nhận là nó đã tạo ra một số kết quả tuyệt vời bằng cách tháo năng lực sáng tạo của trí tuệ con người ra. Và ở đây, tôi thử áp đặt ảnh hưởng nặng nề của bộ máy quan liêu. Đó không phải là điều tôi bênh vực. Tôi công nhận các giá trị của một nền kinh tế thị trường. Tôi tin chúng dựa chính xác vào sự giải phóng các năng lực sáng tạo, chứ không vào việc tạo ra cân bằng. Nhưng động cơ lợi nhuận là không đủ để duy trì xã hội. Nền kinh tế thị trường chỉ là một phần của xã hội mở. Phải có nỗ lực nào đó để cổ vũ sự phát triển của các xã hội mở, và nó phải có một thành phần mang tính xây dựng, bởi vì những trừng phạt, bản thân chúng không thể làm được việc; chúng cũng chẳng thể được biện minh về mặt đạo đức. Điều đó có nghĩa rằng: Chúng ta phải tiến hành viện trợ nước ngoài với ý thức đầy đủ về sự bất hoàn hảo của nó. Tôi tin việc sáng tạo trong sự theo đuổi các mục tiêu xã hội ngang như sáng tạo trong sự theo đuổi lợi nhuận là không vượt quá năng lực trí tuệ con người. Tôi đã cố chứng minh điều này trong các hoạt động từ thiện của riêng tôi. Tôi đã tạo ra cái tôi gọi là một “phiên bản fractal” [1] của xã hội mở, thiết lập một mạng lưới các quỹ được hội đồng, gồm những người dân của các nước mà chúng phục vụ, cai quản. Tôi dựa vào họ để quyết định quỹ nên làm cái gì, và họ chịu trách nhiệm về các hành động của họ. Tôi thường ngạc nhiên bởi việc họ làm. Một số chương trình hay nhất là những chương trình tôi chẳng bao giờ hình dung ra. Phải thừa nhận nó là chuyện hú hoạ. Chúng tôi đã có một số thành công lớn, một số kết quả xoàng xoàng, và thi thoảng những thất bại, đòi hỏi phải thay nhân sự. Tôi muốn cách tiếp cận này có thể được lặp lại ở một qui mô lớn hơn, nhưng tôi nhận ra rằng: Nó không thể được thực hiện. Thật vậy, mạng lưới quỹ của riêng tôi đã đạt đến qui mô mà ở đó, nó mất một số tính uyển chuyển xưa kia của nó và bắt đầu mang tính cách của một bộ máy quan liêu. Tuy nhiên, tôi là một tác nhân độc lập. Tôi có đủ khả năng để thừa nhận và sửa các sai lầm của tôi; đó là lí do vì sao, các nỗ lực của tôi đa phần đã thành công. Các nhà chính trị và cạt động khủng bố Chechen. Khi Shamil Basayev, một thủ lĩnh du kích Chechen, xâm lấn láng giềng Dagestan, Putin đã phản ứng mãnh liệt. Các lực lượng an ninh Nga tấn công những người Chechen và Putin đưa ra tối hậu thư, tuyên bố rằng bọn khủng bố ở Dagestan sẽ được quét sạch vào 25 tháng Tám. Mục tiêu thời gian đã đạt được. Dân cư Nga đã phản ứng lại cách giải quyết tình hình của Putin một cách nhiệt tình, và sự nổi tiếng của ông lên rất cao. Sau đó, một loạt vụ nổ đầy bí ẩn ở Moscow đã phá huỷ toàn bộ một số nhà chung cư, giết hại khoảng ba trăm người khi họ ngủ. Trong cơn hoảng loạn xảy ra sau đó, sự lo ngại và căm giận hướng về việc chống lại những người Chechen, được trợ giúp bởi một chiến dịch phối hợp cẩn thận giữa các phương tiện báo chí và TV. Putin xâm chiếm Chechnya, và cuộc bầu cử Duma được tiến hành trong bầu không khí cuồng chiến. Rất ít các ứng cử viên dám chống lại sự xâm chiếm. Grigory Yablinsky là một trong số ít đó. Ông đã ủng hộ chiến dịch chống khủng bố ở Dagestan nhưng đã vạch đường đúng ở xâm lấn Chechnya. Sự mến mộ của đại chúng với đảng của ông (Yabloko) rớt thảm hại và chỉ vừa đủ ngưỡng 5 phần trăm phiếu bầu để có mặt ở Duma. Đảng ủng hộ chính phủ, đảng Thống nhất, vừa được vội vã nặn ra mà không có bất kể chương trình nhất quán nào, về hàng thứ hai sau những người Cộng sản, với 23 phần trăm. Liên minh các Lực lượng cánh Hữu, do Chubais, Sergei Kiriyenko, và các nhà cải cách khác lãnh đạo, đi theo Putin và đạt thành tích khá với 8,6 phần trăm. Yevgeni Primakov, người với sự ủng hộ của Thị trưởng Moscow Yuri Luzhkov, đã được coi là một ứng viên tổng thống sáng giá, đã bị đánh bại hoàn toàn; đảng của họ chỉ được 13 phần trăm. Sử dụng đà do thắng lợi về bầu cử Duma đem lại, Yeltsin công bố việc từ chức của mình vào Đêm Giao thừa, hầu như thực sự đảm bảo sự lựa chọn Putin như người kế vị của mình. Primakov rút khỏi danh sách ứng cử viên. Sự nổi lên kì lạ, chẳng biết từ đâu, của Putin đã giống kì quái với mưu mô chính trị đảm bảo sự tái cử của Yeltsin năm 1996. Từ kinh nghiệm lâu đời với Berezovsky, tôi thấy bàn tay của ông ta trong cả hai hoạt động. Tôi gặp ông ta lần đầu, liên quan đến sự đóng góp 1,5 triệu $ của ông vào Quỹ Khoa học Quốc tế, khi giám đốc điều hành quỹ, Alex Goldfarb, giới thiệu chúng tôi với nhau. Tôi đã mô tả cuộc thảo luận được biết rõ ở Davos; rồi sau đó, Berezovsky tự cho là chính cuộc nói chuyện này đã thúc đẩy ông lập ra một hội ủng hộ cho việc tái đắc cử của Yeltsin. Trong năm 1996, chúng tôi đã có một số cuộc trao đổi rất thẳng thắn về cuộc vận động tái cử; tôi muốn biết ông ta hành động ra sao. Thế rồi dẫn đến sự thù địch trong đấu giá Svyazinvest, nhưng chúng tôi tiếp tục nói chuyện. Tôi đã cố thử cải biến ông ta từ nhà tư bản ăn cướp thành nhà tư bản hợp pháp; ông cố lợi dụng tôi trong đợt vận động cho chức chủ tịch Gazprom - tổ chức thương mại hùng mạnh nhất nước Nga. Tháng Sáu 1997, ông mời tôi đến Sochi để thăm Viktor Chernomydin, người đã là chủ tịch Gazprom trước khi ông trở thành thủ tướng, và sau đó đưa tôi về Moscow trên chiếc máy bay riêng của ông. Berezovsky nói với tôi rằng: Cả Chubais lẫn Nemtsov ủng hộ sự đề cử ông. Tôi đã không tin ông ta, nên tôi hỏi Nemtsov. Đó là lần đầu tiên ông nghe về chuyện đó. “Bước qua xác của tôi” đã là phản ứng của ông. Sau đó tôi đã ăn trưa với Berezovsky ở “câu lạc bộ” của ông ta, được trang trí, có chủ ý hay không, rất giống sự miêu tả Hollywood về một nơi lui tới của mafia. Tôi là khách duy nhất. Tôi đã không nói cho ông ta nghe: Nemtsov nói gì, nhưng tôi đã nói với ông ta rằng: Tôi đã hỏi Nemtsov và ông này từ chối biết bất kể thứ gì về yêu cầu của Berezovsky đối với chức chủ tịch Gazprom. Điều này làm cho Berezovsky rất tức giận, và sự tức giận của ông làm tôi ớn lạnh. Tôi thực sự cảm thấy ông ta có thể giết tôi. Và tuy ông ta không nói toẹt ra, ông ta làm cho tôi cảm thấy rằng: Tôi đã phản bội ông ta bằng cách nói chuyện với Nemtsov. Đó là điểm ngoặt trong quan hệ của chúng tôi. Chúng tôi tiếp tục nói chuyện với nhau- một lần Berezovsky bay sang New York gặp tôi - nhưng từ đó tôi cố giữ khoảng cách. Như tôi đã nói, sự bất hoà giữa những kẻ đầu sỏ, và đặc biệt mâu thuẫn giữa Berezovsky và Chubais, là một tình tiết kì quái, mặc dù không kì quái như việc tiến cử Putin làm người kế vị Yeltsin. Berezovsky nhìn thế giới qua lăng kính của lợi ích riêng của mình. Ông ta chẳng khó khăn gì đặt số phận của nước Nga dưới số phận riêng của mình. Ông ta thật sự tin rằng: Ông và những kẻ đầu sỏ dầu khí đã mua chính phủ bằng cách trả cho sự tái cử của Yeltsin, và rằng: Chính phủ đã bội ước bằng cách cho phép đấu giá thật sự đối với Svyazinvest. Ông ta quyết tâm hạ bệ Chubais vì Chubais đã phản bội ông ta. Khi tôi cảnh cáo ông ta rằng: Ông ta đang phá huỷ cái lều quanh mình, ông ta trả lời: Ông ta không còn lựa chọn nào khác; nếu ông ta để lộ bất kỳ một sự yếu đuối nào ra, ông ta không thể sống sót. Lúc đó, tôi đã không thể hiểu điều này, nhưng sau, nhìn lại, nó hoàn toàn có lí. Berezovsky không thể tiến hành chuyển đổi sang hợp pháp; cơ hội duy nhất để ông ta tồn tại là giữ người ta mắc vào tấm lưới các quan hệ bất hợp pháp mà ông ta đã dệt ra. Ông ta đã nắm chặt Yeltsin vì sự giúp đỡ bất hợp pháp mà ông ta dàn xếp cho gia đình Yeltsin. Thí dụ, ông ta đã làm cho con rể của Yeltsin trở thành giám đốc Aeroflot, thu nhập ngoại tệ mạnh của hãng hàng không được hướng sang một công ti Thuỵ Sĩ gọi là Forus, mà họ giải thích cho tôi, đơn giản có nghĩa là: “For us: Cho Chúng ta”. Điều này đã cho ông ta quyền lực đối với Eltsin mà chẳng kẻ đầu sỏ nào có được. Berezovsky cũng đã nắm chắc Chubais, và khi đến cực điểm của trục trặc, ông ta đã không do dự sử dụng nó. 90.000 $ mà Chubais nhận được ở dạng hợp đồng cho một cuốn sách rởm đã gây ra sự suy sụp tạm thời của ông này. Đây là viễn cảnh mà tôi áp dụng cho các sự kiện tiếp theo. Berezovsky và gia đình Yeltsin tìm cách duy trì mãi quyền miễn trừ mà họ đã hưởng dưới chính quyền Yeltsin. Họ đã thử nhiều cách, một số thật lố bịch. Một lúc, Yeltsin, với sự xúi giục của Berezovsky, thông báo cho chủ tịch Duma là ông sẽ bổ nhiệm Nikolai Aksyonenko làm thủ tướng, song Chubais đã can thiệp; văn bản chính thức gửi Duma bổ nhiệm Sergei Stepashin. Rồi thì Stepashin bị đẩy khỏi chức vụ. Tình hình của Berezovsky trở nên tuyệt vọng khi scandal về rửa tiền bất hợp pháp ở ngân hàng Hoa Kì nổ ra năm 1999, vì ông ta biết rằng ông ta không còn có thể tìm thấy nơi ẩn náu ở phương Tây. Bằng cách này hay cách khác, ông ta phải tìm ra một người kế vị Yeltsin, người có thể bảo vệ ông ta. Đó là khi kế hoạch đề bạt ứng viên Putin được ngấm ngầm bày đặt. Trong chuyến bay từ Sochi về Moscow vào năm 1997, Berezovsky đã nói với tôi chuyện ông ta đã trả tiền những người cầm đầu quân sự chống Nga ở Chechnya và Abkhasia ra sao. Cho nên khi nhà lãnh đạo Chechen Shamil Basayev xâm chiếm Dagestan, tôi nghi ngờ có sự dối trá. Và tôi đặt ra một thử nghiệm: Liệu Basayev có rút lui trong thời hạn mà Putin đưa ra không? Ông ta đã rút lui. Ngay khi đúng như thế, tôi cũng không thể hoàn toàn tin rằng: Những vụ nổ ở các toà nhà chung cư ở Moscow có thể là một phần của kế hoạch để biện minh cho chiến tranh. Nó đã quá độc ác. Nó có thể không là đơn nhất - lịch sử Nga đầy rẫy các tội ác do những kẻ khiêu khích bị nhử gây ra, từ Azev điệp viên ở thời sa hoàng cho đến mưu sát Kirov, được dùng để biện minh cho sự thanh trừng của Stalin - nhưng bản thân nó, tuy vậy, sẽ là một hạng thật khác biệt. Tuy nhiên, tôi không thể loại trừ khả năng ấy. Từ quan điểm của Berezovsky, việc đặt bom có lí hoàn toàn. Các cuộc tấn công khủng bố này không chỉ chọn một tổng thống, người sẽ cho Yeltsin và gia đình ông sự miễn trừ; chúng cũng để cho Berezovsky nắm chắc Putin. Cho đến nay, không có bằng chứng nào nổi lên phủ nhận lí thuyết này. Trong khi chúng ta có thể chẳng bao giờ tìm ra sự thật về các vụ nổ ở Moscow, không có nghi ngờ gì rằng chiến tranh ở Chechnya đã đẩy Putin đến chiến thắng. Tôi thấy điều này, nói giảm nhẹ đi, gây đau đớn. Giữa 1994 và 1996, trong chiến tranh trước ở Chechnya, dân Nga bị đau khổ, khi họ nhìn thấy trên TV sự tàn phá và đau khổ mà sự xâm lấn Chechnya gây ra. Sự phản đối của các bà mẹ những người lính và các nhà hoạt động nhân quyền như Sergei Kovalev đã giúp dẫn đến sự giải quyết qua đàm phán. Lần này, phản ứng của dân cư Nga trái ngược rõ rệt với thái độ trước. Phải thừa nhận là những kẻ khủng bố Chechen phải chịu lỗi chính; chúng bắt các công nhân trợ giúp và các nhà báo, giữ họ để đòi tiền chuộc, và nhiều khi giết họ. Fred Cuny, anh hùng của Sarajevo, đã bỏ mạng theo cách này. Hầu như chẳng có ai dám dính vào chuyện giúp những người Chechen hay đưa ra công khai sự tàn nhẫn mà họ phải chịu. Cũng đã có sự thao túng khéo léo tình cảm công chúng chống lại chúng. Sự thực, vẫn là thái độ của dân Nga đã rất khác thái độ vài năm trước. Ở giai đoạn đầu của thời kì sau Gorbachev, người Nga có ác cảm với bạo lực, và họ tích cực chống lại nó. Thực ra, có rất ít máu chảy trong những ngày đầu, và hiếm khi người ta bị giết - ở Tbilisi, Georgia, ở Vilnius, Lithuania, và tháng Mười 1993 ở trụ sở của Duma - công luận quay ra phản đối những kẻ sử dụng vũ lực. Không còn thế nữa. Bằng việc bầu Putin tháng Ba năm 2000, người dân Nga bị dính líu vào sự chém giết ở Chechnya. Có một lí thuyết cho rằng: Một nạn nhân, khi bị hành hung vừa đủ mức, sẽ trở nên dễ bị lôi kéo vào bạo lực. Hình mẫu khớp với trường hợp của nhiều kẻ phạm tội hung dữ và nó dường như cũng áp dụng cho bạo loạn sắc tộc. [6a] Những người Serb từ lâu tự coi mình là các nạn nhân, và Slobodan Milosevic đã có thể lợi dụng tình cảm này trong việc theo đuổi chính sách thanh lọc sắc tộc. Cái gì đó tương tự dường như đã xảy ra ở Nga. Putin sẽ cố tái lập một nhà nước mạnh, và rất có thể, ông sẽ thành công. Theo nhiều cách, đó có thể là một sự phát triển đáng mong mỏi. Như bài học Nga đã dạy chúng ta, một nhà nước yếu có thể đe doạ đến tự do. Một chính quyền có thể thực thi pháp luật là không thể thiếu được cho sự hoạt động của một nền kinh tế thị trường. Bằng việc thực hiện sự chuyển đổi từ chủ nghĩa tư bản ăn cướp sang chủ nghĩa tư bản hợp pháp, Putin có thể hoàn toàn chỉ huy sự phục hồi kinh tế Nga; các khoản đầu tư của tôi ở Nga - bao gồm Svyazinvest - có thể cuối cùng có kết quả. Nhưng nhà nước của Putin chắc không được xây dựng trên các nguyên lí của xã hội mở; có khả năng hơn, nó sẽ dựa trên sự suy đồi đạo đức, nỗi nhục, và sự thất vọng mà nhân dân Nga đã trải nghiệm sau sự sụp đổ của hệ thống Soviet. Putin sẽ tìm cách tái thiết lập uy quyền của nhà nước ở trong nước và vinh quang của nước Nga ở nước ngoài. Nước Nga không mất đi; ngược lại, nó có thể hồi sinh với Putin. Nhưng phương Tây đã mất Nga như một người bạn và đồng minh và như một người ủng hộ các nguyên lí của xã hội mở. Một điều rõ như pha lê: Triển vọng mà chúng ta đối mặt ở nước Nga đã có thể tránh được, nếu bản thân các xã hội mở của phương Tây đã cam kết vững chắc hơn cho nguyên lí của xã hội mở. Trong bài nói từ biệt, Yeltsin đã xin nhân dân Nga thứ lỗi: “Vì sự thực, nhiều hi vọng của chúng ta đã không thành hiện thực. Vì những việc dường như đơn giản, đối với chúng ta lại hoá ra gay go. Tôi muốn xin được lượng thứ, vì thực ra, tôi đã không có khả năng biện minh cho hi vọng của một số người, tin rằng chúng ta có thể có khả năng tiến lên trong một đợt đột kích từ quá khứ toàn trị xám ngắt và trì trệ sang một tương lai tươi sáng, giàu sang và văn minh. Bản thân tôi đã tin thế. Nhưng nó đã không xảy ra như vậy. Theo cách nào đó, tôi đã quá ấu trĩ.” Ðiều mà Yeltsin đã không nói, là ông và nhiều người khác đã đặt niềm tin của họ vào phương Tây, nhưng phương Tây đã không xứng đáng với các kì vọng - phải thú nhận - được cường điệu của họ. Tôi có thể nói chỉ cho chính mình. Đầu tiên, tôi đã nghĩ rằng các chính khách Tây phương đơn giản đã không hiểu điều gì đang xảy ra. Rằng Gorbachev đã sẵn lòng thay đổi hệ thống - là quá tốt để có thể là thật - nên họ muốn thử thách ông ta. Họ đã đặt ra các chướng ngại, và khi Gorbachev đã vượt qua chúng, họ đặt các chướng ngại cao hơn. Cuối cùng họ phải thừasự xây dựng các định chế chính trị; và Liên hiệp châu Âu cho việc tái thiết kinh tế. Làm cho tình hình tồi hơn, tổng hành dinh LHQ ở New York muốn thực thi kiểm soát chi tiết với UNMIK. Kết quả thật tai hại. Sáu tháng sau khi giải quyết khủng hoảng Kosovo, trật tự không được vãn hồi và người dân không cảm thấy an toàn. Các đội quân KFOR đã thành công trong việc bảo vệ bản thân mình, chứ không phải việc bảo vệ được dân cư dân sự. LHQ đã không có khả năng đưa ra một lực lượng công an thoả đáng. Tình hình đã được cải thiện từ khi đó, nhưng sự thiệt hại không hề được tháo gỡ. Dân cư người Serb phải trốn tránh trong các vùng bị bao quanh, những người di gan bị xua đuổi, và dân cư Albani sống trong sợ hãi. Thiếu ngân quỹ và sự lẫn lộn của các nhà chức trách đã làm chính quyền LHQ thất bại ở mọi bước. Nó không thể trả lương cho giáo viên và các viên chức dân sự khác, phục hồi các dịch vụ công thiết yếu, thiết lập cơ sở sơ đẳng cho hệ thống tư pháp, hoặc thậm chí cung cấp các tài liệu đăng kí dân sự. Nhằm tăng nguồn thu, nó đưa ra thuế quan đối với hàng hoá đến từ Macedonia - một bước thụt lùi, tạo ra sự chậm trễ méo mó và tham nhũng trắng trợn và mâu thuẫn trực tiếp với mục tiêu làm giảm tầm quan trọng của các đường biên giới. Hậu quả của khủng hoảng Kosovo đã tiết lộ một sự khác biệt kinh khủng giữa các nguồn lực có thể được huy động cho hành động quân sự và nguồn lực sẵn có cho các mục đích xây dựng. Trong trường hợp Hoa Kì, ngân sách quốc phòng là 260 tỉ $, viện trợ nước ngoài 13 tỉ $. NATO chi 2 đến 4 tỉ $ cho việc ném bom Nam Tư, nhưng các nước NATO gặp khó khăn trong việc tìm ra 50 triệu $ để giúp Montenegro tiến hành các cải cách kinh tế. Tuy nhiên, nếu chế độ Djukanovic ở Montenegro có thể duy trì sự ổn định kinh tế còn đồng dinar của Nam Tư mất giá trị, thì chế độ Milosevic chắc chắn bị bất ổn định hơn là do mọi cuộc ném bom. Sự chậm trễ về huy động nguồn lực làm trầm trọng thêm các khó khăn về cam kết xây dựng. Sự khác biệt giữa ý định và thực tế là đủ rộng để tạo ra tình huống xa cân bằng. Nó sẽ được giải quyết ra sao? Phần nhiều phụ thuộc vào sự cân đối - không chỉ số phận của Nam Tư trước đây mà cả tương lai của Liên hiệp châu Âu và tính hiệu lực của khái niệm về xã hội mở. Vùng Balkan không phải là lĩnh vực có vấn đề duy nhất trên thế giới - có quá nhiều để liệt kê: Indonesia (có thể là Nam Tư rất rõ ràng), Chechnya, Thung lũng Ferghana, Congo, Angola, Kashmir, Đài Loan, và v. v. Tuy nhiên, số phận của Balkan đặt ra một thách thức trực tiếp cho NATO. Nếu chúng ta không muốn cam kết một cách xây dựng, thì chúng ta không có quyền gì để can thiệp trừng phạt; và nếu chúng ta không sẵn lòng can thiệp vào công việc nội bộ của một quốc gia có chủ quyền nhưng áp bức, thì chúng ta không thể hi vọng về một xã hội mở. Có những giây phút nào đó, lịch sử đã để ngỏ hơn những lúc khác. Chúng ta đã không lợi dụng được giây phút như vậy ở Liên Xô năm 1989; chúng ta đang có những giây phút như vậy ở Balkan vào đầu thế kỉ mới. Chúng ta chẳng có thể làm được mấy ở Chechnya: Chúng ta càng phản đối, chúng ta càng nuôi dưỡng tâm trạng dân tộc chủ nghĩa cay đắng ở Nga. Nhưng, việc làm thay đổi diễn tiến của các sự kiện, để chúng trở nên tốt hơn ở Balkan, hoàn toàn trong năng lực của chúng ta. Tôi rất hi vọng, rằng ý tưởng về xã hội mở sẽ qua được thử thách lần này. Có nhiều nhân tố ủng hộ nó. Ðiều gì đó giống một kế hoạch Marshall cho Balkan đang được thảo luận, và nó được sự ủng hộ của những người có vị trí có trách nhiệm: Điều này chứng tỏ chúng ta có tiến bộ. Tôi không cảm thấy cô đơn như tôi đã thấy sau sự sụp đổ của Liên Xô. Tuy nhiên, sự ủng hộ công khai đang yếu đi. Khi NATO bắt đầu ném bom Nam Tư, Kosovo nằm ở trung tâm sự chú ý của thế giới; bây giờ, nó bị các cuộc khủng hoảng khác thế chỗ. Trách nhiệm của các hành động của chúng ta vẫn còn đó. Các chính phủ dân chủ đáp lại ý chí của nhân dân; trừ phi nhân dân cam kết cho các nguyên lí của xã hội mở, chúng ta không thể kì vọng xã hội mở thắng thế. Chúng ta phải theo đuổi đến cùng, vì cho chính chúng ta.
[2]Henry Kissinger, Diplomacy (New York: Simon and Schuster, 1995). [3]Amartya Sen, Development as Freedom (New York: Alfred A. Knof, 1999), bản tiếng Việt: Phát triển là Quyền tự do (Viện Quản lí Kinh tế TW- NXB Thống kê 2002). [1]Chú thích của dịch giả: fractal: cấu trúc hình học tự lặp lại ở mọi qui mô để tạo ra các hình thù không đều, không thể tạo ra bởi hình học cổ điển. Các fractal được sử dụng rộng rãi để mô phỏng bằng máy tính các hiện tượng tự nhiên, một khái niệm quen thuộc của các hệ thống có độ phức tạp cao.
http://eTruyen.com