Chương 4.1 Hành trình của cuộc sống va chạm phải vô số khái niệm siêu hình. Ða phần là vô nghĩa, đã thế, làm Tâm loạn. Băn khoăn, day dứt, trăn trở, thao thức. Cứ tưởng với tới lại hụt hẫng, càng muốn trốn lại càng khó thoát. Lạy Chúa, ý của Người quả là tăm tối. Mọi sinh vật ra đời đã hoàn thiện. Qua bàn tay của Chúa không thể có mặt hàng thứ phẩm. Vậy làm sao lại có cái ác. Chúa tạo ra thiên nhiên đa dạng và mỗi vật có chức năng riêng. Lão Tử nói: "Ngắn dài đo nhau". Mỗi vật tuy tiểu dị nhưng thực là đại đồng. Quá trình vận động tạo sự cọ xát giữa các chức năng của vật nên lầm tưởng rằng giữa các vật có sự hơn kém. Mọi vật đều bình đẳng, không có sinh vật cao cấp hoặc hạ cấp. Con người, hỡi ôi, sản phẩm thiêng liêng của Chúa. Vì Chúa đã tạo ra con người theo hình ảnh của mình và cây sậy có tư tưởng đó nhất quyết đòi sự độc tôn trong thế giới tự nhiên. Và giữa người này, người kia cũng vậy. Ðã đòi một sự khẳng định, tất cả đều muốn bành trướng cái bản ngã tự cho là duy nhất. Cái ác đầu tiên manh nha từ sự so bì cao thấp, ghen tỵ. Dần dần, cùng hành trình của nhận thức (ở đây hiểu theo nghĩa cái gọi là sự phát triển của nền văn minh, khái niệm do con người tự tạo, Chúa không tác tạo ra khái niệm). Cái ác đạt đến một cấp độ cao, nó được nuôi dưỡng tinh vi bằng vô số nhưng đạo đức giả. Nó bám theo cái Thiện. Vậy là con người đòi cạnh tranh với Thượng đế. Và Người đã thấy sự tha hoá. Lòng thương của Người được thể hiện bằng cách cho Ðức Chúa con giáng thế. Nhằm cho cái ác mất hẳn đi trước ngày phán xét. Chao ôi là bất lực. Cái ác, hiểu một cách đơn giản là tất cả những gì đi ngược ý Chúa. Cho nên muốn giải trừ cái ác hãy để mình tan vào ánh sáng trong suốt của Chúa. Hay khác đi, Chúa sống qua thân xác của mình. Con người chân chính là phiên bản của Chúa. Phải thế chăng mà Nietzche nói: "Thượng đế đã chết". Ma tổ Đạo Nhất nói: "Phật chỉ như que khô củi mục". Ðành tạm minh hoạ như vậy. Lạy Chúa, chỉ có sức mạnh hiển linh tuyệt vời của Người mới cứu được con. Biết bao hố bùn đê tiện quyến rũ con nhẩy vào, con đã lưỡng lự hay đã trượt chân. Vâng, con quen dùng những từ giả dối để tự biện hộ. Lạy Chúa con là kẻ có tội, con đã ác với nhiều người vì nghĩ rằng nhiều người đã ác với con. Con đã không dằn lòng khi đã kêu xin Người khản cả tiếng, xin Người hãy cho con lòng tin. Xin Người hãy làm chậm trễ hành trình vào bẩn thỉu của con để con được ngửa mặt nhìn đời. Con tin rằng tất cả những người thiện lương đều có thể mắc lỗi lầm, nhưng không bao giờ rơi vào sự quay quắt đểu giả đê tiện. Và Chúa đã sinh ra họ với nỗi quằn quại đau đớn của sự trung thực. Con là đứa con bé nhỏ của Người và Người không nỡ quên. Khi con vượt qua được sự cám dỗ, dạn dĩ nhìn vào bình minh của ngày hôm sau, nhìn thẳng vào mắt người đầu tiên trong ngày đang đi đường kia, con mới biết ân Chúa to lớn nhường nào. Con vẫn được là con của Chúa, không phải vì con có học, có lòng trung thực hay dũng cảm. Mà đó là ý Chúa. Chương 4.2 Tôi tốt nghiệp đại học năm 1982. Luận văn, trái với sự mong đợi của tôi và thầy hưởng dẫn, bị đánh giá thấp. Ðến bây giờ tôi đã phần nào thông cảm với những bó buộc của trường quy, những hạn hẹp của cuộc sống, còn lúc ấy đặc biệt là ấm ức. Ông giáo già vì tuổi tác lẫn lý lịch không có bằng Phó tiến sĩ khuyên tôi đừng đi làm. Cùng với thời gian tôi càng hàm ơn người thầy. Một trí thức duy nhất tôi tôn trọng. Thầy đã nâng cao cả tửu lượng lẫn kiến thức cho tôi. Lá số tử vi thầy lập cho tôi rồi chiết giải, thỉnh thoảng bị va đập những ngúc ngoắc từ cuộc sống, tôi giở ra xem và nhớ lại vẫn thấy đúng đến ghê người. Và lạ thay, ngày thầy mất trùng đúng ngày tự tử của người bạn thân cùng tháng cùng năm chỉ khác giờ. Tất nhiên là phải khác giờ. Giỗ đầu hai người khi trời mưa, tôi khóc suốt năm tiếng, nuốt vã hết ba lít rượu trắng. Ðó cũng là đỉnh cao trong lịch sử độc ẩm của tôi. Ba tháng sau khi tôi tốt nghiệp, Tâm đi Ðức. Bảy tháng sau có giấy gọi nhập ngũ. Tôi chẳng vui chẳng buồn. Mẹ tôi bần thần rút ra hai chỉ để chạy vạy, mặt trận Tây nam và biên giới phía Bắc đều đã ngớt tiếng súng. Tại sao tôi không thi hành nghĩa vụ quân sự, tiêu chuẩn tối thiểu của một nam công dân lương thiện. Tôi sợ sự gian khổ và những nộì quy khắc nghiệt chăng, hay có sự liên tưởng nào đến Hemingway và Remarque. Không biết. Thật nhiều sự loay hoay ở tôi. Tôi gặp lại nàng khi đến hỏi tin anh bạn. Mùa đông năm 1985 tôi đã là cán bộ nhà nước. Một viên gạch được đóng dấu trong công cuộc xây dựng xã hội. Nàng ở nhà một mình, bố đã đi lấy vợ lẽ. Mẹ mất hút sau chuyến buôn đường dài lần thứ hai. Tôi chìa tờ Nguyệt san hải ngoại có đăng bài thơ kí tên Du. Giọng ca thê lương của gã sinh viên mất quê. - Cách đây hai tháng rưỡi em có nhận được một lá thư của anh ấy. Ðọc sởn da gà. Anh ấy buồn lắm. Tôi thấy nàng cũng buồn. Son phấn đánh kĩ chỉ tăng thêm phần ảm đạm. Ngày Du còn ở nhà, nàng xinh và tươi hơn. - Em sống thế nào. Câu hỏi xã giao làm tôi tự đỏ mặt. Cô em gái duy nhất của người bạn thân duy nhất, gần bốn năm không qua cửa. Nàng không trả lời, nhìn tôi. Ðâu đó ở lúc nào đó một cô bé đã nhìn tôi như vậy. Ðầu năm học thứ ba, khi đòi lại cuốn giáo trình tiếng Anh cho Du mượn, giữa trang 34 và 35 kẹp một lá thư tình của cô bé lớp mười hai, ấp úng đầy lỗi chính tả, nói yêu tôi. Cứ nghĩ rằng tương lai giải Nobel sẽ lủng lẳng ở cổ mình, tôi lãnh đạm đi qua mối tình đầu của thiếu nữ mới lớn với sự cao đạo của minh tinh Clack Gable. - Ði ăn chiều cùng anh nhé. Nàng nhận lời. Và đến giờ nỗi đau của tôi vẫn trọn vẹn. Chưa khi nào, chưa ở đâu với riêng !!!366_3.htm!!!
Đã xem 97870 lần.
http://eTruyen.com