Hồi 1
Nay Hán xuống Bạch thành đóng lại,
(Chinh phụ ngâm khúc)

 Nghiêm Sơn cho các đạo binh lên đường được ba ngày thì có ngựa lưu tinh báo rằng Triệu Anh-Vũ đã cho binh vượt Thiên-sơn. Đào Kỳ và toàn quân chiếm được Độ-khẩu. Tại bản doanh còn Nam-hải nữ hiệp, Phương-Dung, Lê Ngọc-Trinh, Lương Hồng-Châu với đạo binh Nam-hải. Vương nói với Nam-hải nữ hiệp:
– Tôi với Phương-Dung phải lên đường đi Kinh-châu. Đạo Kinh-châu do Đại-tư-mã Đặng Vũ thống lĩnh. Đặng là một đại-tướng giỏi nhất của Hán, ngặt vì phó tướng của Đặng là Mã Viện không ai chịu ai, vì vậy hơn năm qua, không thắng được Thục. Nếu tôi có mặt, thì hai người mới không dám kình chống nhau.
Phương-Dung hỏi:
– Mã Viện là ngưới thế nào?
– Mã Viện được phong chức Phục-ba tướng quân. Hồi phụ thân ta làm tướng cho Trường-sa vương. Viện là một huyện-úy. Sau cô Viện trở thành Vương-phi Trường-sa vương, y được cất nhắc lên chức Đô-úy, rồi Thái-thú. Hồi ta cùng Kiến-Vũ thiên-tử khởi binh, y đem toàn quân theo. Kiến-Vũ thiên-tử cảm động là người trung lương, chỗ con cô con cậu, nên cho y giữ đại quân. Lúc ta với Đặng Vũ đánh chiếm Kinh-châu, có bàn với Thiên-tử rằng: "Đất Kinh-châu địa thế phân chia Nam, Bắc Trung-nguyên bằng sông Trường-giang. Phía Bắc là hàng rào bảo vệ Lạc-dương, phía Nam tiếp giáp Lĩnh-nam, nơi các Thái-thú bất phục. Phía Đông giáp Mân-Việt, lòng người nan trắc. Phía Tây giáp Thục, Công-tôn Thuật hùng cứ, bất cứ lúc nào cũng gặp nguy hiểm, cần có người văn võ kiêm toàn, trung lương trấn thủ. Ta đề cử Mã Viện trấn giữ chín quận Kinh-châu, còn em y là Mã Anh làmThái-thú Trường-sa. Trong khi ta đánh vùng Giang-đông, chiếm Mân-việt, rồi kinh lược Lĩnh-nam"
Lê Ngọc-Trinh hỏi:
– Tại sao Kiến-Vũ thiên-tử không giao cho Mã Viện đánh Thục, mà lại giao cho Đặng Vũ?
Nghiêm Sơn lắc đầu:
– Mã Viện tuy là người trung lương, nhưng so với Đặng Vũ y chỉ là một đại tướng dưới quyền. Cho trấn thủ Kinh-châu là quá sức rồi. Chứ còn thống lĩnh quân nghiêng nước, các tướng khác như Sầm Bành, Mã Vũ không phục. Tuy vậy Kiến-Vũ thiên-tử vẫn giao y trấn thủ Kinh-châu kiêm phó tướng cho Đặng Vũ.
Nghiêm Sơn thở dài tiếp:
– Mã cậy thế là người thân của Mã thái-hậu, trấn thủ vùng trọng địa, trong khi tài ba, công lao y thua xa 9 đại tướng dưới quyền Đặng Vũ, được ta tặng cho danh hiệu "Tương-dương cửu hùng".
Phương-Dung tỏ vẻ hiểu biết:
– Tương-dương cửu hùng là chín đại tướng võ công vô địch, tài dùng binh không thua Tôn Vũ, dường như họ tên là Sầm Bành, Mã Vũ, Cảnh Yểm, Tế Tuân, Tang Cung, Lưu Hán, Phùng Tuấn, Đoàn Chí, Lưu Long. Tất cả chín người theo Kiến-Vũ thiên-tử từ khi mới khởi binh. Hiện họ đều ở đạo Kinh-châu cả sao?
– Đúng thế. Vì võ công cao, tài dùng binh giỏi, lại nhiều công lao hơn Mã Viện. Mã Viện làm phó tướng, họ bất phục. Đã vậy Mã Viện còn muốn hất cẳng Đặng Vũ, khi Đặng Vũ cầm quân đánh vào Thục, y tìm cách chần chờ không chịu cung ứng lương thảo, bổ sung binh lính, cho nên Đặng Vũ mới thua.
Phương-Dung gật đầu:
– Vì vậy đại ca cần có mặt ở Kinh-châu phải không? Dường như Mã Viện chỉ sợ có Thiên-tử với đại ca thì phải?
Nghiêm Sơn gật đầu:
– Đúng thế. Việc dùng binh quan trọng nhất là trị quân cho nghiêm. Ta thành công nhờ đều đó. Một lần Mã Viện ỷ thế Mã thái-hậu, ta sai đem ra chặt đầu. Kiến-Vũ thiên-tử xin ta tha tội cho y. Ta phạt đánh y 30 côn, cách chức xuống còn sư trưởng, sai đi lập công chuộc tội. Từ đó y thấy ta như gà thấy cáo. Sư muội thấy đấy ta đối xử với anh hùng Lĩnh-nam, sư bá, sư thúc, sư đệ, sư muội bằng tất cả tình ruột thịt, họ là anh hùng, họ biết vì đại nghĩa tuân phục lệnh ta, thì có gì xảy ra đâu?
Lê Ngọc-Trinh nói:
– Bọn em là người hiệp nghĩa. Đem chữ hiệp ra làm việc, mà lại gây sự với nhau. Đem chữ nghĩa ra giúp đại ca Dù mất mạng cũng không từ, còn đâu là chuyện bất tuân lệnh nữa.
Nghiêm Sơn gật đầu:
– Sư muội nói đúng đó.
Vương nói với Nam-hải nữ hiệp:
– Phàm việc xung phong, tranh thắng, cần bảo vệ hậu quân cho vững. Lỡ hậu quân có biến cố, thì tiền quân bị lâm vào thế lưỡng đầu thọ địch. Hai vị Đinh Công-Thắng, Triệu Anh-Vũ đã vượt Kim-sơn. Đào Kỳ đang chiếm Độ-khẩu, song địa thế quá hiểm trở, vậy cần bảo vệ hậu quân thực kiên cố. Cho nên tôi mới nhờ Nam-hải nữ hiệp, sư thúc Lương Hồng-Châu, sư muội Lê Ngọc-Trinh là những người tinh minh mẫn cán, thống lĩnh đạo Nam-hải với ba Quân-bộ, ba Sư-kỵ dàn ra làm trừ bị, bảo vệ hậu quân.
Phương-Dung hỏi:
– Trong sáu đạo quân Lĩnh-nam, đạo Nam-hải bảo vệ hậu quân, đạo Nhật-nam sư bá Lại Thế-Cường đã điều lên Kinh-châu trợ chiến, đạo Cửu-chân do Hoàng sư-tỷ chỉ huy, đạo Quế-lâm do Minh-Giang chỉ huy, đạo Tượng-quận do sư đệ Đào Hiển-Hiệu thống lĩnh đánh Độ-khẩu. Đại ca nghĩ xem quân số đánh vào mặt sau Ích-châu như vậy đủ chưa?
Nghiêm Sơn nói:
– Ta được Tế-tác báo cho biết, Công-tôn Thiệu dồn toàn lực ra Kinh-châu, Hán-trung. Mặt Nam do một tướng trẻ, con nuôi Công-tôn Thiệu tên là Công-tôn Phúc tước phong Bình-nam vương trấn thủ. Quân số chưa quá 5 vạn, làm sao địch lại Tiểu sư-đệ với hai vị Đinh Công-Thắng, Triệu Anh-Vũ?
Phương-Dung, Nghiêm Sơn lên đường đi Kinh-châu. Nghiêm Sơn chỉ mang theo mười tiễn thủ của phái Hoa-lư hộ vệ. Phương-Dung mang theo mười Thần-ưng liên lạc với các cánh quân.
Lần đầu tiên Nghiêm Sơn thấy Phương-Dung cỡi con ngựa Ô. Ngựa Ô là một loại ngựa rừng Tây-vu. Hồ Đề phải mất công khó nhọc lắm mới bắt được nó. Trong buổi gặp gỡ đầu tiên, nàng tặng cho Phương-Dung. Nghiêm Sơn thấy Phương-Dung cưỡi ngựa không yên cương thì ngạc nhiên.
– Ngựa không cương làm sao mà điều khiển được?
Phương-Dung cười:
– Nó là ngựa hoang, được chị Hồ Đề dạy dỗ, hiểu được tiếng người, không cần cương.
Nàng hô lớn:
– Chạy mau!
Con ngựa Ô vọt lên như tên bắn. Nghiêm Sơn phi ngựa theo.
Hai người tới Kinh-châu vào khoảng nửa đêm. Vương với Phương-Dung gọi cửa. Đặng Vũ, Trưng Nhị mở cửa thành ra đón. Trưng Nhị nhìn mặt Phương-Dung biết đã thành công, nàng hỏi:
– Chiếm được Độ-khẩu, Kim-sơn rồi à?
Phương-Dung gật đầu:
– Quân đã qua Kim-sơn và Độ-khẩu rồi. Có lẽ giờ này họ đang trên đường tới Thành-đô. Cho nên em với Nghiêm đại-ca lên đây xem Đặng đại tư-mã cùng chị chiếm ải Xuyên-khẩu vào Bạch-đế. Với hùng tài đại lược của Đặng đại tư-mã thì vào Thành-đô chắc nhanh hơn Đào tam-ca.
Đặng Vũ thất kinh hồn vía nghĩ: Trước đây Kiến-Vũ thiên-tử thường nói rằng Nghiêm Sơn vừa có mưu, vừa có trí, lại thêm tính tình hào sảng của võ lâm hiệp sĩ không sai. Vương từ Lĩnh-Nam lên đạo quân ít hơn ta nhiều, nhờ tinh thần hiệp nghĩa, vương được một số cao nhân hiệp sĩ giúp đỡ, mới thành công như vậy. Kiến-Vũ thiên-tử, Ngô Hán với ta đều cho Tế-tác thám thính tìm đường đánh mặt sau Ích-châu mà tuyệt vọng, vì sông nước chảy xiết, núi cao vời vợi, không thể vượt qua. Nay vương đã làm được, thì vương hơn ta gấp bội, vương xứng đáng là người trên ta. Kiến-Vũ thiên-tử hứa rằng, ai bắt hoặc giết được Công-tôn Thuật sẽ cho làm chúa Ích-châu. Nghiêm Sơn làm chúa Lĩnh-Nam, nơi bờ xôi giếng mật, vương đâu có thèm làm chúa Ích-châu? Ta cần phải được lòng vươn mới mong vào Ích-châu.
Vì vậy Đặng Vũ đối với Nghiêm Sơn cực kỳ cung kính. Y sai chuẩn bị trướng gấm cho Nghiêm Sơn nghỉ, để hôm sau còn tiếp tục nghĩ kế đánh Xuyên-khẩu. Phương-Dung ở chung với Trưng Nhị, Hồ Đề.
Sau khi rời Phiên-ngung, Trưng Nhị điều động anh hùng Lĩnh-Nam theo Đặng Vũ lên Kinh-châu trước. Còn Lại Thế-Cường với Hồ Đề thống lĩnh đạo Nhật-nam cùng với binh đoàn đặc biệt Tây-vu lên sau. Phải hơn tháng mới tới. Trong khi chờ đợi Lại Thế-Cường, Hồ Đề tới, Trưng Nhị suốt ngày cùng Đặng Vũ lo bổ sung binh mã, tiếp thu lương thảo, thao luyện binh sĩ. Mọi việc vừa hoàn tất thì Nghiêm Sơn tới.
Chỉ cách nhau một tháng mà Trưng Nhị, Hồ Đề cảm thấy như xa Phương-Dung một năm vậy. Họ là những thiếu nữ trẻ tuổi tài năng xuất chúng, cùng hướng về đaÏi cuộc phục hồi Lĩnh-Nam, coi nhau như chân tay. Trần Năng hỏi về kế hoạch đánh Độ-khẩu và Kim-sơn, Phương-Dung trình bày tỉ mỉ từng chi tiết một.
Hồ Đề bảo Phương-Dung:
– Sau này nếu chúng ta khởi binh, phải chia thành khu vực, đánh nhiều mặt trận cùng một lúc, theo ý em phải chia như thế nào?
Phương-Dung đáp:
– Em đã nghĩ đến chuyện này rồi. Chúng ta chia làm bốn khu vực khác nhau. Khu vực Quế-lâm thì sư bá Triệu Anh-Vũ, Lương Hồng-Châu sẽ đứng chủ trương đại cuộc. Nhưng người điều khiển phải là Minh-Giang. Sư huynh Minh-Giang kinh nghiệm hành quân lại, lại hiểu nhân vật địa phương; huyện-lệnh, huyện-úy người nào theo ta, người nào chống ta, y biết hết.
Trưng Nhị trầm ngâm một lúc tiếp:
– Phương-Dung nhận xét đúng, chắc em đã thổ lộ mưu kế của chúng ta với Minh-Giang. Hiện giờ em để Đào tam đệ chỉ huy mặt Nam Ích-châu, còn Minh-Giang là Phấn-oai đại tướng-quân. Y là người Hán, liệu y có chống Quang-Vũ không?
Phương-Dung gật đầu:
– Chúng ta đã có 5 Thái-thú, 6 Đô-úy, Đô-sát, 5 Đại tướng-quân, thì Lĩnh-Nam đã là của chúng ta rồi. Chỉ còn Tô Định mà thôi. Tô bây giờ như người cụt tay, cụt chân. Đô-úy là sư thúc Trần Khổng-Chúng. Anh hùng Lĩnh-Nam do Đặng Thi-Sách, Trưng Trắc thống lĩnh. Kỵ binh có đaÏo Văn-lạc và Đăng-châu chiếm Luy-lâu. Các đạo Mai-động, Cối-giang, Thái-hà chiếm Long-biên. Còn các nơi khác như Thiên-trường, có sư thúc Trần Quốc-Hương, Lục-hải có Hùng Bảo, Trường-yên có phái Hoa-lư...Nghĩa là chúng ta cùng khởi binh một ngày. Quan lại địa phương ai theo ta thì để, ai không theo, chặt đầu.
Trần Năng tiếp:
– Vấn đề trước mắt là, ai thống lĩnh quần hùng? Từ trước đến nay, chúng ta mạnh ai nấy làm, chưa có người làm chúa tướng? Em sợ khi đánh đuổi giặc đi rồi lại lâm vào hoàn cảnh tranh giành địa vị.
Phật-Nguyệt nói:
– Đúng đấy, hiện chúng ta tôn Nam-hải nữ hiệp là người cầm đầu anh hùng Lĩnh-Nam. Nam-hải nữ hiệp chỉ là người đạo đức, cầm đầu anh hùng thì được, chứ tổ chức, cai trị một quốc gia thì không được.
Phương-Dung suy nghĩ một lúc rồi nói:
– Bàn chung những người sau đây có đủ tài năng, đức độ để làm chuyện đó: Đào-hầu, Đinh-hầu ở Cửu-chân, Đặng đại-ca, Nhị Trưng, sư thúc Đào Thế-Hùng. Em nghĩ sáu người này đều không ai bằng Nghiêm đại-ca.
Trưng Nhị gật đầu:
– Ta cũng nghĩ thế, tại sao ta không để Nghiêm đại-ca làm Lĩnh-Nam hoàng đế?
Phương-Dung cười:
– Em gần Nghiêm đại-ca nhiều, em biết chí của người lắm. Khi đứng ra giúp chúng ta xin Quang-Vũ cho phục hồi Lĩnh-Nam, thì Nghiêm đại-ca xin từ chức Lĩnh-nam vương, để tỏ ý không vì tham quyền cố vị mà chống lại nghĩa huynh Quang-Vũ. Người cũng như sư tỷ Hoàng Thiều-Hoa, chỉ thích tiêu dao sơn thủy. Vì vậy nếu Quang-Vũ thuận, người sẽ để Lĩnh-Nam cho chúng ta tổ chức thành một nước. Còn Quang-Vũ không thuận ắt có chiến tranh. Trường hợp đó Người sẽ đứng ngoài, không muốn giúp Quang-Vũ đánh chúng ta, cũng không muốn vì chúng ta mà phản Quang-Vũ.
Phương-Dung trầm tiếng:
– Em nghĩ thế này có đúng không: dĩ nhiên ngã ngựa cũng bị thua.
Cao Cảnh-Kiệt cười:
– Thế thì được rồi, chúng ta không ai mặc giáp, thế mới gọi là anh hùng. Ngụy tướng quân có đồng ý không?
– Dám chứ! Nhưng ta đặt vấn đề, nếu thua ta phải đầu hàng bên Hán, ngược lại ngươi thua cũng phải đầu hàng bên ta.
Cao Cảnh-Kiệt gật đầu:
– Cứ thế! Nào chúng ta cùng đấu.
Cao Cảnh-Kiệt trở về trận, bỏ áo giáp cỡi ngựa trận không yên phi ra trước trận. Chàng chỉ mặc có chiếc áo nâu, đầu chít khăn, đúng theo lối của dân Việt đất Lĩnh-Nam. Tướng sĩ hai bên reo hò ầm ĩ. Kiệt thúc ngựa cho phi vòng vòng trong khu vực cắm cờ.
Ngụy Đảng bỏ giáp trụ, phi ngựa chạy trước mặt Cao Cảnh-Kiệt. Cuối cùng hai tướng gò ngựa đứng đối diện nhau.
Công-tôn Tư cho nổ một tiếng pháo. Cao Cảnh-Kiệt phi ngựa chạy quanh bãi. Ngụy Đảng thúc ngựa đuổi theo. Bỗng Ngụy Đảng nạp tên bắn mũi thứ nhất. Tiếng tên xé gió bay đến giữa lưng Cao Cảnh-Kiệt. Kiệt vọt người lên cao, mũi tên đi dưới chân. Khi mũi tên lướt qua dưới chân chàng, rơi xuống đất, thì chàng đáp xuống lưng ngựa. Chàng cặp chân vào bụng ngựa, lộn người xuống thò tay xuống nhặt mũi tên. Hai ngựa chạy cách nhau một khoảng ngắn. Quân sĩ hai bên reo hò vang trời đất. Vì người bắn đã giỏi mà người tránh càng giỏi hơn.
Bên trận Hán, Nghiêm Sơn nói với Vĩnh-Hoa:
– Người ta gọi bốn anh em họ Cao là Thần-nỏ cũng phải. Với mũi tên vừa rồi, nếu là ta, ta chỉ có nước chết, chứ làm sao tránh nổi. Cao tứ-đệ giỏi thật, hèn chi ngày xưa Cao-cảnh hầu dùng Thần-nỏ bắn, Triệu Đà bị bại biết bao phen. Ngày nay đồ tử, đồ tôn vẫn còn giữ được oai phong cũ.
Ngụy Đảng phi ngựa đuổi theo bén gót Cao Cảnh-Kiệt. Y nạp tên bắn mũi thứ nhì, nhắm ngay đít ngựa Cao Cảnh-Kiệt. Cao Cảnh-Kiệt nghe tiếng gió biết nguy cơ. Người bên Hán la hét vang trời lo cho chàng. Vì nếu mũi tên trúng đít ngựa, ngựa sẽ hất chàng xuống đất, như vậy là thua. Cao Cảnh-Kiệt phi ngựa giữa tiếng reo hò. Chàng nghe tên từ phía sau, vội chống hai tay lên lưng ngựa, còn hai chân lộn ngược về sau, mũi tên vừa tới mông ngựa, chân chàng gạt ngang, hất bay mũi tên lên không, rồi uốn cong người lên cao ngồi vào lưng ngựa như thường. Quân sĩ hai bên reo hò vang dội. Ngụy Đảng thấy mình mất hai mũi tên biết nguy hiểm, dừng lại không đuổi nữa, Cao Cảnh-Kiệt cũng gò ngựa lại.
Ngụy Đảng nói:
– Ngươi không dám đấu cùng ta, cứ chạy đâu phải anh hùng.
Cao Cảnh-Kiệt đáp:
– Được bây giờ ta không tránh né, nếu ta tránh né hay phi ngựa hoặc gạt đỡ coi như thua cuộc.
Tướng sĩ hai bên cùng giật mình lo nghĩ cho Kiệt, vì tài bắn của Ngụy Đảng tuyệt cao, chàng không tránh né hoặc đỡ gạt, chỉ có chết mà thôi. Quân sĩ hai bên cùng im lặng, giữa trận tiền, mỗi bên hàng mấy vạn người mà như một đêm vắng vậy.
Ngụy Đảng nói lớn:
– Ta bắn vào giữa ngực ngươi đây.
Y buông tên, mũi tên xé gió bay tới. Kiệt cũng nạp tên bắn lại. Hai mũi tên đến giữa đường gặp nhau tóe lửa rồi cùng rơi xuống đất. Nhưng Cao Cảnh-Kiệt buông một lúc hai mũi, một bắn trúng tên Đảng, một bay vào giữa mặt y.
Ngụy hoảng hốt lấy cung gạt mũi tên, nhưng y gạt vào khoảng không. Vì tên của Kiệt tới trước mặt Đảng vài thước thì rơi xuống đất. Ngụy Đảng lấy cung móc một cái, mũi tên bay lên cao, y cầm lên coi, thì ra tên đã được bẻ mũi. Bây giờ y mới hiểu đối phương tha cho mình, chỉ muốn biểu lộ bản lĩnh mà thôi.
Ngụy Đảng còn đang ngơ ngác, thì Cao Cảnh-Kiệt nói lớn:
– Ta bắn gãy cung ngươi đây.
Chàng buông tên. Tên xé gió bay tới, ba mũi một lúc. Ngụy Đảng đang luống cuống, thì chát một cái, cung của y bị gãy. Phía sau cây cờ hiệu của Thục bị trúng tên, cũng gãy gục xuống. Ngụy Đảng toát mồ hôi, y biết Cao Cảnh-Kiệt không muốn giết mình, cũng không muốn giết tướng bên mình. Kiệt bắn ba mũi tên, chỉ đánh gãy cung, đánh gãy cây cờ, hiển dương tiễn pháp Âu-lạc.
Y biết mình kém đối thủ xa, y nghiêng mình:
– Tiểu tướng chịu thua anh hùng Lĩnh-Nam.
Cao Cảnh-Kiệt nghiêng mình đáp lễ:
– Nghĩa sĩ Việt đất Lĩnh-Nam chỉ cần phân thắng bại, chứ không bao giờ giết người đã thua mình. Ngụy tướng-quân, người có giữ lời hứa với ta rằng, nếu ngươi thua sẽ đầu hàng không?.
Ngụy Đảng đến trước ngựa của Công-tôn Tư, dập đầu lạy bốn lạy:
– Thái-tử, sư huynh, Thái-tử không phân biệt trên dưới, dùng tình nghĩa huynh đệ đãi tôi. Đáng lẽ suốt đời tôi phải theo Thái-tử để đền ơn tri ngộ. Nhưng nay tài hèn sức mọn, phải thua người, vậy xin Thái-tử nhận bốn lạy của tôi, coi như lễ tiễn biệt. Tôi là nghĩa sĩ đất Thục, thà chịu chết chứ không đần hàng Quang-Vũ. Vì vậy tôi xin lấy cái chết để đền ơn tri ngộ.
Nói rồi Ngụy Đảng cầm kiếm đưa lên cổ tự vẫn. Mọi người đồng kêu rú lên. Công-tôn Tư muốn cản mà không kịp chỉ còn biết thét:
– Ngừng tay!
Nhưng không kịp nữa. Bỗng có vật gì mầu xanh to bằng nắm tay, từ bên trận Hán bay hướng vào cổ tay Ngụy Đảng, vật đó bay nhanh quá không ai biết đó là vật gì, khi bay phát ra những tiếng vo vo nhức tai.
??????
Cao Cảnh-Kiệt phi ngựa sang trận Thục. Chàng hiên ngang xuống ngựa đỡ Ngụy Đảng dậy:
– Ngụy tướng quân, người là nghĩa sĩ thì nhiều, nghĩa sĩ thực hiếm. Tướng quân khỏi cần đầu hàng nữa. Chúng ta đấu tên rồi kết bạn, không biết có nên chăng?
– Ngụy Đảng này được kết thân với một anh hùng Lĩnh-Nam thực cầu mà không được.
Hai người cùng quì gối giữa trận, thề rằng:
– Chúng tôi Ngụy Đảng thuộc phái Thiên-sơn đất Thục và Cao Cảnh-Kiệt thuộc phái Hoa-lư đất Lĩnh-Nam, dùng nghĩa kết huynh đệ thề suốt đời lấy nghĩa đối xử với nhau. Nếu sai lời trời tru đất diệt.
Hai người quay lưng lại lạy nhau. Ngụy Đảng 45 tuổi làm anh, Cao Cảnh-Kiệt 22 tuổi làm em. Sau khi kết nghĩa, hai người nắm tay nhau ra một tảng đá dưới gốc cây, cách xa trận tuyến ngồi nói chuyện. Họ chỉ còn biết tình huynh đệ, tình người, tạm quên đi những gì là Hán, là Thục, là Lĩnh-Nam.
Công-tôn Tư thấy Ngụy Đảng được một người bên Hán quăng ám khí cứu thoát chết thì mừng lắm. Ngụy lại kết bạn với một hào kiệt Lĩnh-Nam thì mừng lắm, y hướng vào trận Hán:
– Không biết cao nhân nào phóng ám khí cứu Ngụy huynh, Tiểu-vương xin đa tạ.
Nguyên trái chanh đó do Khất đại-phu phóng ra cứu người. Ngài là một đại danh y đi đâu cũng mang theo nhuều trái cây làm thuốc. Thấy Ngụy Đảng khẳng khái tự vận, ngài không nỡ nhìn người nghĩa sĩ chết uổng nên mới ném trái chanh ra.
Công-tôn Tư chắp tay về phía Hán quân lạy đủ ba lạy.
Quỳnh-Hoa thấy Cao Cảnh-Kiệt chiến thắng anh hùng, tính bồng bột trẻ con nổi dậy, nàng vọt ngựa ra giữa hàng quân hai bên hỏi:
– Tiểu nữ là Trần Quỳnh-Hoa, người Việt đất Lĩnh-Nam xin được tiếp mấy chiêu cao siêu của anh hùng đất Thục.
Bên Thục đã có Điền Nhung, Hầu Đơn nếm mùi chưởng lực của nàng và Quỳnh-Hoa. Họ kể cho các bạn nghe, có người tin, có người không tin. Trấn-tây tướng-quân Thục là Sử Hùng, từ lâu không tin rằng một cô nhỏ tuổi, ẻo lã, xinh đẹp thế kia mà lại có chưởng lực mạnh như thế, y phi ngựa ra nói:
– Tôi là Sử Hùng. Trấn-tây tướng-quân xin được lĩnh-giáo mấy thế võ cao siêu của anh hùng Lĩnh-Nam.
Y nhảy xuống ngựa khoanh tay đứng chờ. Quỳnh-Hoa từ trên mình ngựa vọt người lên cao, đánh một thế Lưỡng ngưu tranh phong trong Phục-ngưu thần chưởng. Chân đá gió một cái, người nàng tà tà đáp xuống trước mặt Sử Hùng, thân pháp đẹp vô cùng. Sử Hùng thấy thế chưởng kỳ diệu không dám coi thường, y khoanh tay một vòng, đánh trở lên một chưởng. Hai chưởng gặp nhau, Quỳnh-Hoa bị bay vọt lên cao. Ở trên không nàng lộn đi hai vòng rồi tà tà đáp xuống đất.
Vừa tới đất, nàng vung chưởng đánh liền. Sử Hùng vung chưởng đỡ. Hai chưởng chạm nhau, bùng một tiếng, cả hai cùng bật lui trở lại. Qua hai chưởng đầu Sử Hùng biết công lực đối phương không kém mình là bao. Y vận công lực phát ra tột đỉnh tấn công liên tiếp hơn mười chưởng liền. Chưởng của y ảo diệu vô cùng. Nhưng Quỳnh-Hoa vẫn dùng Phục-ngưu thần chưởng là chưởng pháp cương mãnh, cực kỳ tinh vi của Lĩnh-Nam, nên y không làm sao đánh bại được nàng. Nhiều khi hai chưởng gặp nhau, y cảm thấy tay còn tê dại nữa là khác. Bây giờ y mới biết võ công Lĩnh-Nam kinh người. Y nhớ lại lời sư phụ nói: Đất Lĩnh-Nam anh hùng võ sĩ đông như kiến, đứa trẻ lên năm cũng biết đánh võ, quả đúng. Y càng đánh, càng thấy chưởng pháp đối phương hùng mạnh, không một chút sơ hở để có thể xen vào tấn công được. Y nghĩ: Một cô gái nhỏ tuổi ẻo lã như thế nầy đây mà mình đánh không lại, liệu những người lớn hơn võ công của họ sẽ đến mức nào đây?
Nguyên do Quỳnh-Hoa, Quế-Hoa là cháu Khất đại-phu mồ côi từ nhỏ, được ông nuôi nấng dạy dỗ. Cả hai nàng được học võ với ông ngay từ lúc sáu tuổi. Khất đại-phu là một nhà y học đại tài, ông nuôi hai cháu bằng thức ăn, nước uống đặc biệt, vì vậy mới 18 tuổi, nhưng công lực như người 25-30 tuổi. Võ công hai nàng có phần hơn Vĩnh-Hoa, Lê Chân, Hồ Đề. Có thể nói khắp Lĩnh-Nam, chỉ có Phương-Dung, Phật-Nguyệt, Đào Kỳ gặp kỳ duyên, mới có võ công cao hơn hai nàng mà thôi.
Đấu được trên 50 hiệp nữa, Quỳnh-Hoa đã yếu dần, chiêu thức đã rối loạn, hơi thở gấp. Bởi Phục-ngưu thần chưởng là chưởng pháp dương-cương, công lực cao thấp đều sử dụng được. Nhưng khi sử dụng thì nội lực tiêu hao rất mau. Mà nàng chỉ có công lực mười hai năm luyện tập là cùng. Trong khi Sử Hùng đã luyện đến 30 năm. Quỳnh-Hoa càng đánh càng yếu thế. Nhưng nàng nghĩ mình không thể thua được, mình thua sẽ làm mất uy tín của ông ngoại, của Vĩnh-Hoa, nên cố gắng chống đỡ thêm mười mấy chiêu nữa.
Nàng chợt nhớ nếu dùng Cửu-chân chưởng pháp có thể thắng địch. Nghĩ vậy nàng đổi chiêu phóng ra Thiết-kình phi chưởng. Bộp một tiếng, chưởng của nàng chạm vào chưởng của Sử. Sử thấy tay rung động mạnh, công lực tiêu tan mất. Y thất kinh hồn vía, nghĩ:
– Ủa! Sao con bé nầy tự nhiên thay đổi chưởng pháp. Mà chưởng pháp này bao hàm khắc tinh với chưởng pháp của mình thế này.
Y đứng ngẩn người ra suy nghĩ, thành ra Quỳnh-Hoa có thời giờ điều khí lấy lại công lực. Nàng lại phóng một chiêu trong Thiết-kình phi chưởng nữa.
Sùử Hùng thấy chưởng này khắc chế chưởng của y, bao hàm sát thủ. Y vội đưa chưởng đỡ. Bùng một tiếng, cả hai lùi lại.
Quỳnh-Hoa được Đào Kỳ dạy có hơn mười chiêu rời rạc của phái Cửu-chân mà thôi, nên chỉ lát sau nàng trở lại những chiêu thức cũ. Sử Hùng là người kinh nghiệm, y biết trước nàng sẽ phóng những chiêu nào, y vận sức lộn người về phía sau đánh ngược lại một chiêu. Quỳnh-Hoa biết nguy vội dùng hai chưởng chập một phóng ra đỡ. Bùng một tiếng nàng bật lùi trở lại.
Sử nhảy vèo đến khoằm khoằm ra chiêu Ưng trảo, bắt sống nàng. Thì y cảm thấy như ai đánh trộm, chiêu vừa nhẹ, vừa êm. Hoảng hốt, y bật chưởng về phía sau đỡ, trúng phải một vật vừa mềm, vừa nhẹ đến bạch một cái, vật này vỡ tan ra. Cánh tay y đau rần, đưa cánh tay lên ngửi là mùi cam. Y nhìn về trận Hán xem ai vừa đã ném trái cam, mà kình lực vừa nhu, vừa mạnh đến như vậy. Nhưng tuyệt không tìm ra. Y vận hết sức đánh ra một chưởng như vũ bão. Chưởng chưa ra khỏi, thì có tiếng rú trên không gian, tiếng xé gió đưa đến kình lực mạnh ghê hồn. Y nhìn lại thấy một thứ ám khí to bằng cái đầu, đang quay tròn trong không gian với tốc độ kinh khủng, kêu thành những tiếng vi vu chói tai. Ám khí quay thật nhanh nhưng đi chậm hướng người y. Y trầm người phóng một chưởng đỡ. Chưởng vừa phát thì ám khí đổi chiều vọt lên cao rồi rơi xuống, thành ra y đánh vào khoảng không. Y nhìn lại là một trái dưa. Y mãi có rừng Nghi-đô. Nữ tướng Trần Năng mang 50 thớt voi cùng 5000 quân phục tại đây. Khi Đặng đại tư-mã giao chiến với Công-tôn Thiệu, tất giặc xuất cửa thành phía Nam đánh vào tả quân của ta, tôi sẽ cho đốt pháo lệnh, bấy giờ xua voi và phục binh ra đánh. Giặc bị đánh trước sau thế nào cũng bỏ chạy vào rừng. Giặc đông quá không bắt hết đâu, phải dùng cung nỏ mà bắn. Giặc tất bị tử thương nhiều, bấy giờ hãy đổ quân ra mà bắt lấy.
– Công-tôn Thiệu xuất thành, chúng ta chờ y ở Vu-sơn. Đặng đại tư-mã với tôi ở trung quân. Sư thúc Phật Nguyệt cầm tả quân, sư thúc Lại Thế-Cường cầm hữu quân. Chúng ta cùng xuất trận. Nếu Công-tôn Thiệu xuất trận, Đặng tư-mã sẽ đấu vối y. Dù thắng, dù bại, tôi cũng xuất quân và đội voi tràn sang trận địch. Quân giặc bị đánh bất thình lình, quân trong thành sẽ đổ ra cửa Bắc, Nam cứu viện. Sư bá Lại Thế-Cường chia quân ra làm đội, một nửa chống với tả quân địch, một nửa chống với đội quân cửa Bắc. Khi thấy mình núng thế thì đốt pháo lệnh, sư muội Trần Năng cho đổ phục binh ra đánh. Giặc thua tất chạy vào rừng. Hồ Hác sư đệ phục ở đây một đội binh mà bắt sống. Quân cửa Nam đổ ra thì sư thúc Phật Nguyệt sẽ chia quân làm hai, một nửa chống với hữu quân địch, một nửa đánh quân tiếp viện cửa Nam. Khi thấy mình núng thế thì đốt pháo lệnh lên. Sư muội Lê Chân sẽ đổ phục binh ra đánh vào hậu quân đội tiếp viện cửa Nam. Bấy giờ sư thúc Phật Nguyệt phải giết cho bằng được tướng địch để giặc mất nhuệ khí. Tôi có lời dặn chung: Khi giặc bị thua nên bắt sống càng nhiều càng tốt, tôi sẽ dùng đám quân sĩ này làm tan nát đoàn quân Thục còn lại.
Các tướng thấy Trưng Nhị điều quân phải phép, đều ngẩn người ra khâm phục. Chính Đặng Vũ cũng ngẩn người, vì y đã thấy Phương-Dung điều quân. Y cho rằng Phương-Dung chỉ biết ước tính về chiến lược mà thôi, không ngờ bây giờ thấy Trưng Nhị chỉ huy quân tỏ ra thông thạo cả chiến thuật lẫn chiến lược.
Trưng Nhị tiếp:
– Lĩnh-nam vương gia và quân-sư Phương-Dung sẽ ra trước trận để khích lệ tướng sĩ.
Vừa lúc ấy thì chim ưng trở về. Hồ Đề nói:
– Nó đưa thư rồi.
Đến chiều có sứ từ trong thành đưa thư qua. Trưng Nhị cầm lấy thư đọc. Thư viết:
"Dã phu phái Thiên-sơn là Công-tôn Thiệu kính gửi Trưng Nhị cô nương thuộc phái Tản-viên, đất Lĩnh-nam".
Nàng đọc xong đưa cho Phương-Dung xem:
"Tôi là tên nhà quê, ở núi Thiên-sơn, cùng huynh trưởng xuất thân theo đòi nghiệp võ. Chúng tôi gồm bảy người sư huynh đệ đồng môn, thề cùng nhau dùng võ công giúp kẻ khó, cứu người nguy, trừ đạo tặc. Thời thế nhiễu nhương, vua thì hôn ám, quân thì nhũng lạm, giặc giã nổi lên tứ phương, Trăm họ khốn khổ, muốn sống không nổi. Vì vậy huynh trưởng tôi, tụ tập đệ tử chiếm vùng Kinh-châu, Ích-châu, Hán-trung, tổ chức thành một nước Nghiêu-Thuấn. Trước đây tôi có giao tình với sư huynh Đặng Thi-Sách rất hậu. Giữa hai người cùng một ý chí cầm gươm cứu dân. Nay chúng tôi đang làm, trong khiến trăm họ yên ổn, vua với tôi, quân với dân coi nhau như ruột thịt. Vì vậy tuy Ích-châu đất hẹp, dân nghèo, mà Quang-Vũ đem hùng binh trăm vạn, chia làm ba đạo, bao lần tiến vào đều bị đánh bại. Mới đây Tế-tác báo rằng Trưng cô nương cùng Lĩnh-nam vương xuất lĩnh hào kiệt phò Hán diệt Thục. Dĩ nhiên Lĩnh-nam nhân tài như rừng, như biển, cùng Hán diệt Thục thì Thục nguy vong. Thục nguy vong thì trăm họ Ích-châu lầm than, cũng chẳng đáng nói gì, nhưng khi Hán đã diệt Thục, liệu Lĩnh-nam có còn đứng vững được không? Lĩnh-nam vương có còn được tại vị hay không?
Trước đây, thời Tây-Hán, Sở-vương Hàn Tín, công lao dường nào, cuối cùng cũng bị diệt tộc. Nay Lĩnh-nam vương công đã không bằng Hàn Tín, mà uy lại bao trùm thiên hạ, thì cái họa không xa là mấy.
Kính cẩn mong cô nương nghĩ lại".
Phương-Dung đọc xong chuyển cho Hồ Đề, Trần Năng cùng đọc. Trần Năng nói:
– Tế tác của Thục thật tài. Chúng ta họp tại Quế-lâm, cơ mật bảo toàn, chỉ có chư tướng được biết thôi, thế mà Thục biết rồi. Đợi ngày mai ra trận sẽ định liệu.
Sáng hôm sau Đặng Vũ cho lệnh xuất quân, tới đồi Vu-sơn dàn nghiêm chỉnh. Công-tôn Thiệu dàn quân, quân khí hùng tráng, uy vũ ngất trời.
Trưng Nhị, Hồ Đề, Phật Nguyệt, Lại Thế-Cường đứng trước trận uy thế phiêu phiêu phiêu, hốt hốt, trong cái uy có cái nhàn tản.
Công-tôn Thiệu thủng thỉnh cưỡi ngựa ra trước trận nói với Đặng Vũ:
– Quang-Vũ thế cùng lực kiệt, tướng sĩ nản lòng, binh tướng không muốn chiến đấu, nên phải đi cầu viện Lĩnh-nam về đối phó với chúng ta. Đặng Vũ! Ngươi là Đại tư-mã, theo hầu Quang-Vũ đã lâu, tự hào trí dũng song toàn, vậy ngươi có dám cùng ta đấu không? Hay phải dựa vào mấy vị cô nương đất Lĩnh-nam?
Đặng Vũ cầm roi chỉ sang trận Thục:
– Lĩnh-nam hay Ích-châu cũng đều là đất của nhà Đại-Hán, mấy vị cô nương Lĩnh-nam, sang đây để trừ diệt bọn anh em phản tặc các người.
Công-tôn Thiệu quát lên:
– Bọn mi sức cùng, lực kiệt, đem đàn bà ra trận mà làm cái gì?
Trưng Nhị bước ra trước trận nói:
– Công-tôn vương gia. Vương gia hỏi câu đó đủ tỏ ra vương gia không biết cái lý của trời đất. Trong thế gian có trời thì có đất, có nóng thì có lạnh, có nam thì có nữ. Cho nên quân Hán mới có nữ tướng, nữ binh. Vương gia coi thường phụ nữ, chẳng hóa ra không hiểu lẽ biến hóa của vũ trụ ư?
Hồ Đề là người của Tây-vu theo chế độ mẫu hệ, nàng ghét nhất những người khinh thường phụ nữ. Trong đại hội Tây-hồ, Đinh Công-Thắng chế nhạo Hùng Bảo phải phục tùng vợ, nàng đã đánh cho y phải chui qua háng Trần Năng. Bây giờ nghe Công-tôn Thiệu nói giọng khinh nữ, nàng nổi giận cành hông, phất tay hai cái, hú lên một tiếng dài, vang tới trời cao. Trưng Nhị biết nàng nổi giận, chắc lại tinh nghịch cái gì đây. Nàng không can gián, nói nhỏ với Đặng Vũ:
– Để cho Công-tôn Thiệu chịu nhục một chút cũng không sao.
Từ phía sau trận một thiếu niên, tuổi khoảng 13-14, quần áo da, phi ngựa đến bên Hồ Đề. Hồ Đề nói nhỏ:
– Sún Lé, em cho chúa tôi bên Thục ăn cứt đi.
Sún Lé hỏi:
– Mấy bãi?
Hồ Đề đáp:
– Hai trăm bãi.
Sún Lé cầm tù và thổi lên trời mấy hơi dài liên miên bất tận. Từ chân trời xa xa, một đoàn chim ưng bay đến trước trận. Đàn chim ưng lông màu nâu, dưới ánh nắng phản chiếu lóng lánh đẹp vô cùng. Đàn chim chia làm 5 toán, mỗi toán 25 con xếp hàng rất ngay ngắn, bay đến trước trận lượn thành vòng tròn.
Sún Lé lại cầm tù và thổi lên một hơi dài nữa, từ chân trời xa xa đoàn chim ưng khác bay đến, cũng 25 con xếp 5 hàng ngay ngắn. Hai đàn chim lượn vòng vòng trên nền trời.
Tướng sĩ Hán, Thục cùng ngửa cổ lên nhìn hai đoàn Thần-ưng không biết những gì sẽ xảy ra. Ngay cả Nghiêm Sơn, Đặng Vũ, Phương-Dung, Trưng Nhị thấy Hồ Đề mang theo đội Thần-ưng, họ không hiểu nàng cho chúng tham chiến dưới hình thức nào? Nhất là đội này được chỉ huy bởi bọn thiếu niên tuổi chưa quá 15, đều có bộ răng đẹp, mà có hỗn danh là Sún Lé, Sún Cao, Sún Lùn, Sún Rỗ và Sún Hô. Bây giờ thấy Hồ Đề hú lên một tiếng vang vang, thì Sún Lé phi ngựa ra. Sún Lé cầm tù-và thổi, đoàn thần ưng bay lượn rất nhịp nhàng. Bỗng cả đoàn bay vọt lên mây rồi bất thần đâm bổ xuống với tốc độ kinh khủng vào giữa trận Thục. Binh tướng Thục vội vàng chuẩn bị vũ khí đối phó. Nhưng đoàn thần ưng bay xuống cách họ hơn trăm trượng thì vọt trở lên, đồng kêu một loạt. Tướng sĩ Thục thấy trên đầu, y phục, ngựa đều bị một loạt phân chim rơi xuống. Họ đưa tay lên sờ mặt rồi ngửi, mặt mũi nhăn nhó khó chịu.
Đứng lược trận phía xa, Nghiêm Sơn thấy tướng sĩ Thục bị Thần-ưng ị tập thể xuống đầu, trông thực thảm thiết. Vương là người nghiêm trang, cũng phải cười đến sùi bọt mép ra.
Hai đoàn Thần-ưng sau khi thả phân vào trận Thục, đồng ré lên một loạt, biến vào chân trời xa.
Các tướng sĩ bên Hán cười ầm lên, vỗ tay hoan hô. Hồ Đề thấy như vậy đã đủ. Nàng hú lên một tiếng. Sún Lé gò ngựa trở về trận, đứng chờ lệnh.
Hồ Đề hỏi Công-tôn Thiệu:
– Công-tôn vương gia, thế nào, nữ nhân có tài hay vô tài? Lời vương gia nói ra, chỉ đáng so sánh với phân chim mà thôi.
Công-tôn Thiệu người đầy cứt chim, giận quá, y chỉ một tướng cạnh là Công-tôn Đoàn:
– Ngươi hãy ra giết đứa con gái kia cho ta.
Công-tôn Đoàn vọt ngựa ra đứng trước Hồ Đề:
– Nữ tướng kia! Hãy cùng ta đấu ít trăm hiệp.
Hồ Đề vọt ngựa ra trước, tay nàng rung lên, cây roi da đã chụp xuống đầu Công-tôn Đoàn. Nguyên cái roi Hồ Đề cán ngắn, khoảng vài gang tay, còn lại là những sợi da. Đầu mỗi sợi da móc những tấm lục lạc và dao, móc câu. Nàng vung lên một cái thì Công-tôn Đoàn thấy một cái lưới chụp vào người. Y múa đao đỡ nhưng không kịp, một vài móc câu trúng vào người y, máu chảy ra lênh láng. Hai người quấn lấy nhau giao phong. Hồ Đề thấy võ công Đoàn cao hơn mình, bản lĩnh ngang với Trần Năng, nên không dám coi thường. Đánh được trên trăm hiệp, Hồ Đề đuối sức, nàng lùi dần về phía sau. Công-tôn Đoàn lợi dụng nàng sơ hỏ, quát lên một tiếng, chém cụt đầu con ngựa nàng. Hồ Đề biết thế nguy, là người ở rừng núi, đánh dư trăm trận, nhiều kinh nghiệm chiến đấu, nàng đạp chân vào yên ngựa, vọt người lên. Công-tôn Đoàn vớt một đao lên cao định kết liễu tính mạng nàng, thì y cảm thấy một ám khí chụp xuống đầu. Ám khí là sợi dây mềm trói tay y lại, đao rơi xuống đất. Y vùng vẫy thoát khỏi sợi dây, thì Hồ Đề đã rơi xuống sau ngựa y, chụp cổ bắt sống, phi ngựa chạy về trận Hán, liệng y xuống đất.
Bấy giờ mọi người mới nhìn ra, thấy Công-tôn Đoàn bị một con trăn to bằng cổ tay, dài hơn trượng siết chặt, không giẫy được.
Nguyên Hồ Đề thường nuôi, dạy trăn, rắn làm vũ khí. Nàng cũng như các hào kiệt Tây-vu, kể cả Lục Sún đều đeo trên lưng một cái túi. Trong túi có hai con trăn lớn và hơn chục con rắn nhỏ cực độc. Chúng được huấn luyện tinh vi. Khi lâm trận, chỉ cần xùy một tiếng, chúng từ trong túi đeo trên lưng vọt ra tấn công địch. Vì vậy trong lúc nguy cấp, Hồ Đề xùy một tiếng, con trăn nằm trong túi dưới bụng ngựa, vọt ra quấn lấy Công-tôn Đoàn. Công-tôn Thiệu nhảy ra định cứu tướng của mình thì Sầm Bành vung đao chém xả ngay mặt kình lực mạnh vô cùng:
– Công-tôn Thiệu, chúng ta tái đấu.
Sầm Bành chĩa đao ngay đầu y chém xuống! Hai người quay cuồng đấu vơi nhau. Trưng Nhị chỉ giỏi về chưởng pháp, kiếm pháp, nàng không hiểu nhiều về đao pháp, quay lại nhìn Phật-Nguyệt để hỏi ý kiến. Phật-Nguyệt là đệ tử yêu của Nguyễn Phan, kiếm thuật của nàng thần thông, không kém gì Phương-Dung, Đào Kỳ, nàng phân biệt được đao pháp của Công-tôn và Sầm. Nàng nói nhỏ cho Trưng Nhị nghe:
– Đao pháp của hai người thuộc loại dương-cương, nhưng hai môn phái khác nhau. Bành thuộc Bắc phái, trầm mãnh, thiếu biến hóa tinh vi. Còn Thiệu dường như thuộc vùng Kinh-Sở, vừa trầm vừa hùng, biến hóa tinh kỳ. Hai bên nội lực cùng cao ngang với Khất đại-phu, Đào tam-lang, Lê Đạo-Sinh. Có điều cả hai cùng kinh nghiệm chiến đấu, khó mà biết ai thắng bại. Nội lực Bành hùng hậu hơn một chút, nếu đấu chưởng thì thắng. Tôi cần quan sát võ công hai người, để Phương-Dung, Đào Kỳ nghiên cứu cách phá. Lỡ một mai họ sang Lĩnh-nam, ta biết phá võ công của họ. Biết cách phá ta không còn sợ gì nữa.
Hai tướng đấu trên hai trăm hiệp. Hồ Đề hỏi Trưng Nhị:
– Chị muốn em cho tên Công-tôn một bài học hay không?
Trưng Nhị thấy Hồ Đề thích tinh nghịch mà bấy lâu nay phải trở thành đại tướng, không có dịp phát tiết cũng buồn, ban nãy nàng cho Công-tôn Thiệu ăn phân chim, dùng trăn bắt sống Công-tôn Đoàn, lòng đầy phấn khởi. Bây giờ nàng muốn mang Công-tôn Thiệu ra đấu nữa, thì tính trẻ con của Trưng Nhị cũng nổi dậy, nàng hỏi:
– Em muốn cho hắn bài học như thế nào?
Hồ Đề bưng miệng cười:
– Em muốn nó trần truồng trước trận cho bõ ghét, vì nó có tội khinh thường đàn bà.
Trưng Nhị gật đầu:
– Ừ, em làm thử chị xem.
Hồ Đề phi ngựa đến trước hai tướng hô lớn:
– Công-tôn vương-gia, Sầm đại tướng quân xin ngừng tay?
Hồ Đề người rừng núi, nàng ưa nói mộc mạc. Nhưng từ khi rời Giao-chỉ sang đây, lúc nào cũng đi cạnh Trưng Nhị, được Trưng Nhị dạy dỗ rằng: Bất cứ trường hợp nào, dù là kẻ thù, cũng phải nói năng lịch sự, tỏ ra chúng ta dù là võ tướng cũng vẫn không mất vẻ đoan chính, nhu thuận của gái Lĩnh-nam. Cho nên lời nói vừa rồi của nàng mới văn vẻ như vậy.
Hai tướng cùng lui ngựa lại.
Hồ Đề bảo Sầm Bành:
– Sầm tướng quân, tôi thấy võ công Công-tôn vương-gia vô cùng kỳ diệu nên muốn lĩnh giáo ít chiêu. Xin Đại tướng-quân nhường cho tôi được không? Hai vị đã đánh nhau nhiều rồi mà chưa chán ư?
Công-tôn Thiệu vừa bị nàng chỉ huy đội Thần-ưng ỉa đầy đầu, quần áo, y chưa nguôi giận, tiếp theo cháu là Công-tôn Đoàn bị nàng dùng trăn bắt sống. Y thấy võ công nàng không mấy gì cao, nhưng nàng chỉ huy được trăn, chim ưng huyền bí kỳ lạ, y đã ngán. Nàng thấy võ công y cao mà còn dám thách đấu, thì chắc là có mưu đồ gì đây, y không muốn ra tay, vẫy một cái. Một tướng trẻ khoảng ba mươi tuổi, dáng điệu hiên ngang hùng vĩ bước ra trước trận nói lớn:
– Ta là Thượng-tướng Vũ Chu, nếu bên người có ai địch nổi thì ra đây đối chiêu.
Mã Viện nói nhỏ:
– Vũ Chu là tướng vô địch bên giặc, thất học, vô mưu, nhưng có võ công cao hơn tôi. Tôi bị bại về tay hắn một lần.
Hồ Đề xua tay:
– Vũ tướng quân! Ta thấy người coi cũng đẹp đẽ đấy, ta không muốn đấu với ngươi. Ta muốn đánh nhau với Công-tôn Thiệu kia. Ngươi về trận nghỉ đi, đừng đánh nhau với ta, không tốt đâu.
Nàng là người Tây-vu, ngẫm nghĩ câu nói bằng tiếng Mường, xong mới dịch sang tiếng Hán, nên giọng hơi ngọng. Người Mường nghĩ sao nói vậy, nàng thấy Vũ Chu dáng điệu hiên ngang, hùng vĩ thì dịch sang tiếng Hán là đẹp đẽ.
 Người Trung-nguyên vào thế kỷ thứ nhất bị ảnh hưởng sâu đậm của đạo lý Khổng Mạnh, nam ra ngoài xã hội, nữ ở trong nhà: Nam tại ngoại, nữ tại nội. Đàn bà con gái khi đi đường gặp đàn ông lạ nhìn vào mặt một cái, đã phải che mặt xấu hổ. Thế nhưng nay họ thấy các nữ tướng Lĩnh-nam nhu mì xinh đẹp, trang phục tươi như hoa, giống như những đóa hoa xuân, ra trước trận đã là một điều hiếm thấy. Họ còn thấy Hồ Đề bắt sống Công-tôn Đoàn dễ dàng, bây giờ nàng lại khen Vũ Chu đẹp đẽ, thì không thể nào hiểu nổi.
Công-tôn Thiệu ngẫm nghĩ:
– Ta chỉ cần đánh một hiệp là bắt được con nhỏ, đem về làm tỳ thiếp cũng sướng một đời. Đất Ích-châu làm gì có đàn bà thế này?
Nghĩ vậy y chỉ mặt Hồ Đề:
– Ngươi dùng chim ưng làm người ta dơ bẩn, được ta sẽ bắt ngươi, đem về lột trần truồng cho quân sĩ coi.
Đối với người Hán thời bấy giờ, con gái bị người ta nắm lấy tay, phải chặt tay đi để bảo toàn danh tiết. Con gái bị lột trần truồng ra thà giết đi còn sướng hơn. Hồ Đề là người Mường, nàng thường cùng các bạn gái đêm đêm ra suối, cởi trần truồng tắm với nhau, đùa vui ca hát, đó là điều thích thú. Bây giờ nghe Công-tôn Thiệu nói, nàng cười:
– Ta không cần ngươi lột đâu. Ta biết tự cởi lấy để tắm mà!
Trưng Nhị nói nhỏ với Hồ Đề:
– Y nói lột quần áo sư muội ra là nhục lắm đấy. Sư muội trả đũa đi.
Con ngựa của Hồ Đề đã bị Công-tôn Đoàn chém chết, nàng mượn con ngựa ô của Phương-Dung. Nàng huýt sáo một tiếng, con ngựa lao thẳng vào Công-tôn Thiệu. Các tướng sĩ cũng ngạc nhiên khi thấy con ngựa đen nhỏ, không cương, phóng nhanh như lao. Thiệu vung đao chém vào đầu ngựa ô, định giết ngựa, bắt tướng. Nhưng ngựa ô là linh vật của rừng Tây-vu, nó thấy kình lực đao chém vào đầu thì khuỵu vó trước xuống, uốn cong lưng, dựng vó sau lên đá vào ngực Công-tôn Thiệu. Thiệu vội thu đao về đưa ngang cắt hai chân sau ngựa Ô. Ngựa Ô chui dưới bụng ngựa Thiệu, luồn qua phía sau. Trong khi đó Hồ Đề nhảy xuống đất vung tay một cái, cả trăm quả mắt mèo chụp xuống đầu Công-tôn Thiệu. Thiệu vội trở đao lên lia đứt những sợi dây nhưng không kịp nữa, mấy cái móc câu đã trúng người y, đau đớn thấu xương, máu chảy đầm đìa. Con ngựa Ô chui qua bụng ngựa Thiệu, há mồm đớp một cái đứt nghiến hai trứng ngựa Thiệu, rồi vọt ra sau. Ngựa Thiệu bị đứt nghiến hai trứng đau quá hí lên một tiếng ngã lăn ra. Nói chậm chứ diễn tiến ngựa Ô lao tới chui qua bụng, đớp trứng liên hợp với hai đao của Thiệu và một roi của Hồ Đề thật mau. Công-tôn Thiệu là võ học danh gia, y thấy ngựa đổ xuống vội vọt mình lên cao để khỏi ngã. Hồ Đề ném vào người y một nắm ám khí, y vung chưởng lên gạt, thì ra là một đám phấn gì đó, chứ không phải ám khí.
Y rơi xuống đất, nhìn ngựa mình bị đứt hạ bộ, máu đầm đìa, trong khi đó Hồ Đề đã lên lưng ngựa Ô ngồi, tay nàng cầm hai cái cật ngựa máu còn nhỏ giọt, đưa ra trước ba quân nói:
– Cật ngựa mà xào rau ăn thì chắc là ngon lắm. Cám ơn vương-gia ban cật ngựa.
Tướng sĩ bên Hán cười đến phun bọt miệng ra. Quân lính bên Thục không nhịn được cũng phì cười. Họ vội bụm miệng lại vì thấy chủ soái mình bị nhục mạ, cười có khác gì cổ võ bên địch.
Con ngựa của Công-tôn Thiệu giẫy mấy cái thì chết. Hồ Đề rú lên một tiếng dài, một đàn chim ưng từ trên trời lao xuống xúm nhau rỉa thịt con ngựa Thiệu. Phút chốc con ngựa chỉ còn bộ xương.
Người nghiêm trang nhất là Nghiêm Sơn với Lại Thế-Cường cũng phải cười đến sùi bọt mép ra. Nghiêm Sơn đã biết Hồ Đề ngỗ nghịch, nhưng không ngờ nàng còn dạy con ngựa Ô ngỗ nghịch theo nàng đến thế. Phương-Dung là một thiếu nữ tinh nghịch, thấy Hồ Đề nghịch quá, phải gật đầu nhận rằng mình còn thua nàng quá xa.
Trưng Nhị bảo sẽ Đặng Vũ:
– Hồ Đề tinh nghịch qúa sợ Công-tôn Thiệu nổi giận, xin tướng quân chuẩn bị đánh với y.
Quả nhiên Công-tôn Thiệu nổi giận, vung đao nhảy đến tấn công Hồ Đề. Con ngựa Ô vọt chạy ngược về phía trận Thiệu. Thiệu mừng quá đuổi theo. Phía trận Thục, ba tướng đứng đầu thấy ngựa Hồ Đề chạy đến định dùng vũ khí đánh, nhưng ngựa Ô lạng một cái trở đầu chạy ngược về. Nó vung cước đá ngược ra sau, trúng đầu hai con ngựa tướng Thục. Hai con ngựa đau quá hí lên, quật chủ rơi xuống đất. Khinh công Công-tôn Thiệu tuy cao nhưng không đuổi kịp ngựa Ô. Không cương, Hồ Đề huýt sáo chỉ huy, nó cứ chạy vòng vòng quanh trận, làm Thiệu đuổi một lúc mệt quá ngừng lại, thì ngựa Ô cũng ngừng lại. Công-tôn Thiệu cảm thấy vết thương do roi Hồ Đề đánh vào ngứa ngáy, y đưa tay lên gãi, thấy ở cổ cũng ngứa. Y không chịu được, cởi giáp quăng xuống đất mà gãi. Y càng gãi, càng ngứa.
Trưng Nhị hỏi Hồ Đề:
– Sư muội, em làm gì hắn vậy?
Hồ Đề cười:
– Em tung vào người hắn một ít bột móc mèo. Bột này trúng da thì ngứa lắm, nhưng không làm chết người. Thông thường trúng da thì không đáng ngại, nếu người ta chạy nhiều, mồ hôi đổ ra, phấn móc mèo lọt vào lỗ chân lông, thì ngứa đến điên lên được.
Công-tôn Thiệu nhảy lên ngựa của một tướng Thục, giật quần áo ra mà gãi. Y ngứa quá, râu tóc dựng đứng lên. Hồ Đề cười ha hả nói:
– Công-tôn vương gia! Vương-gia đòi lột quần áo tôi. Tại sao vương gia lại tự lột quần áo mình vậy?
Vũ Chu thấy chủ tướng bị làm nhục, vọt ngựa ra trước trận định đánh với Hồ Đề, Trưng Nhị vẫy tay cho Hồ Đề lùi lại, Phật-Nguyệt tiến ra.
Phật-Nguyệt phi ngựa ra tới trước Vũ Chu nói:
– Ta là Phật-Nguyệt, gái Việt đất Lĩnh-nam, muốn cùng anh hùng Ích-châu qua lại mấy chiêu;
Vũ Chu thấy một thiếu nữ mảnh mai, mặc quần áo lụa xanh, không mặc giáp trụ, lưng đeo bảo kiếm, nói năng nhu nhã, y coi thường:
– Được, vậy cô nương muốn cùng ta đấu quyền hay đấu kiếm?
Phật-Nguyệt gật đầu:
– Tôi muốn lĩnh giáo tướng quân mấy chiêu kiếm.
Công-tôn Thiệu đã được y sĩ thoa thuốc, hết ngứa, mặc giáp trụ lại. Y rút kiếm sau lưng đưa cho Vũ Chu:
– Vũ tướng quân, nếu ngươi bắt được cô gái này, ta gả cho tướng quân làm vợ đấy.
Binh Thục cười ầm lên. Vũ Chu cầm kiếm, cởi giáp trụ bỏ lại trận, nhảy xuống ngựa đứng đối diện với Phật-Nguyệt. Trống trận hai bên khua vang lừng. Vũ Chu cầm kiếm vòng một chiêu khoanh tay như chào. Phật-Nguyệt cũng cầm kiếm nhảy lên cao quay một vòng, giải khăn lụa bay phấp phới trông thật đẹp. Nàng đáp xuống khoanh tay chào. Tướng sĩ hai bên thấy chiêu này, biết khinh công của nàng không tầm thường. Vũ Chu tấn công trước, kiếm chiêu kình lực mạnh kêu lên những tiếng vo vo. Bên này trận Lại Thế-Cường nói với Trưng Nhị:
– Trưng cô nương! Cô nương bảo Phật-Nguyệt đừng giết Vũ Chu vội, để y diễn hết kiếm thuật Thục, hầu chúng ta hiểu rõ địch hơn đã.
Đặng Vũ nhăn mặt nhìn Trưng Nhị, Lại Thế-Cường tự nói thầm: Chúng mày thật hỗn láo! Võ công Vũ Chu vô địch đến Sầm Bành còn không địch lại, mà chúng mày dám bảo Phật-Nguyệt đừng giết y, cứ làm như là giết y dễ dàng lắm. Ta sợ Vũ Chu chỉ chém vài kiếm là con nhỏ kia mất mạng ngay.
Đặng Vũ xuất thân từ một danh gia đệ tử, năm 25 tuổi theo Quang-Vũ với Nghiêm Sơn khởi binh, các tướng của Vương Mãng không ai địch lại y. Mãi tới trận đánh Hoài-dương gặp Sầm Bành về hàng Hán, từ đó bên Thục không còn một tướng nào là đối thủ của y. Sầm Bành, Đặng Vũ, Phùng Dị là ba đệ nhất cao thủ Đông-Hán. Ngày nọ y đến đầu quân theo Quang-Vũ. Nghiêm Sơn đã đấu thử với y, chỉ chịu được có 7 chưởng rồi chịu thua. Sở dĩ y phải ở dưới quyền Nghiêm, vì một là y không có công trạng bằng Nghiêm với hai mươi lần cứu giá. Hai là Quang-Vũ với Nghiêm Sơn có tình kết nghĩa huynh đệ. Ba là Nghiêm xuất thân nghĩa hiệp, có tài dùng người, khiến anh hùng quy phục. Bốn là tài dụng binh của Nghiêm vô địch thiên hạ.
Từ khi cầm quân đánh Thục, Đặng Vũ đấu ngang tay với Thiên-sơn thất hùng của Tây-xuyên, mới đây y lại bị bại dưới tay Vũ Chu. Thế mà hôm nay nghe Lại Thế-Cường dặn Phật-Nguyệt rằng đừng giết Vũ Chu, có nghĩa là nàng thừa khả năng giết Vũ Chu, đời nào y tin.
Còn Lại Thế-Cường, ông biết Phật-Nguyệt là đệ tử yêu của Nguyễn Phan, được Nguyễn Phan dốc túi truyền nghề, kiếm thuật của nàng đến chỗ siêu việt như Phương-Dung. Hơn nữa, cách nay mấy trăm năm, Vạn-tín hầu Lý Thân sang Hàm-dương đấu với anh hùng đời Tần. Ông tổng hợp kiếm thuật Trung-nguyên thành những nguyên lý chính, rồi tìm ra phá cách đó là kiếm thuật Lĩnh-nam, lưu truyền đến nay là Long-biên kiếm pháp. Đối với các võ công khác Long-biên kiếm pháp chưa chắc là vô địch, vì phải đợi đối phương ra chiêu, rồi mới thuận thế đưa ra những thức khắc chế chống lại. Nhưng kiếm pháp Long-biên chế ra để khắc chế kiếm pháp Trung-nguyên, mỗi chiêu, mỗi thức đã hàm khắc tinh. Cho nên Lại Thế-Cường biết rõ Phật-Nguyệt thắng Vũ Chu.
Kiếm của Vũ Chu phát ra kình lực vo vo, mỗi chiêu thức bổ xuống mạnh đến long trời lở đất, mạnh đến không thể tưởng tượng được. Y đánh đã mười chiêu, chiêu nào cũng biến ảo phi thường, người ngoài những tưởng Phật-Nguyệt sẽ lâm nguy. Nhưng nàng cứ trơn tuột như con chạch, mấy lần kiếm Vũ Chu chỉ nhích một chút nữa là đả thương được nàng.
Các tướng Hán, Thục đều nín lặng hồi hộp theo dõi, mỗi chiêu Vũ Chu đánh ra, có tiếng kêu lên:
– Ái chà!
– Úi! Quá!
– Chết!
Sau khi tránh mười chiêu của Vũ Chu. Phật-Nguyệt nhận ra nội công của nàng khắc chế nội công của y đã đành. Còn kiếm pháp của nàng dường như thức nào cũng dùng để phá kiếm pháp của y.
Các tướng Hán như Sầm Bành, Đặng Vũ, Cảnh Yểm, Mã Vũ đều nhận thấy kiếm pháp Phật-Nguyệt nhẹ nhàng, phiêu hốt, chiêu nào cũng bao hàm sát thủ, biến hóa quái dị không biết đâu mà lường. Bất giác họ đưa mắt nhìn Nghiêm Sơn:
– Lĩnh-nam vương tài như Y Doãn, Chu Công có khác. Một mình, một ngựa kinh lược Lĩnh-nam, mấy năm sau, đem về hơn ba mươi vạn hùng binh, vơi hơn một trăm anh hùng. Một cô gái đơn sơ, mộc mạc, võ công tầm thường như Hồ Đề, mà điều khiển được chim ưng, ngựa ô, làm cho bên Thục kinh hoàng. Bây giờ một thiếu nữ ẻo lả, cả ngày không nói một câu, xuất trận với kiếm thuật kinh thiên động địa, mỗi chiêu nàng phóng ra, mọi người đều rùng mình tự hỏi kiếm pháp này là kiếm pháp gì, mà mỗi chiêu, mỗi thức đều khắc chế với võ công của mình?
Bất thình lình, Phật-Nguyệt lộn liền ba vòng ra xa, bóng trắng lấp loáng với giải khăn hồng ngang lưng, như một bông hồng bay lượn trong gió. Vũ Chu vọt người lên theo, xả liền ba nhát. Đến nhát thứ ba, y vừa chém xuống thì Phật-Nguyệt vọt người lên cao như chiếc pháo thăng thiên. Vũ Chu chém một chiêu bao trùm dưới chân nàng. Tướng sĩ hai bên đều nhắm mắt lại, không muốn nhìn một thiếu nữ xinh đẹp như nàng bị đứt làm hai. Phật-Nguyệt tà tà đáp xuống làn kiếm quang của Vũ Chu. Nàng xỉa một chiêu vào giữa trung tâm. Nàng lại bay vọt lên cao. Vũ Chu vọt người lên. Ở trên không hai người chiết với nhau trên mười chiêu, rồi cùng đáp xuống một lúc.
Thình lình Vũ Chu đổi kiếm pháp. Kiếm của y chậm hẳn lại, chiêu nào kình lực cũng veo véo. Phật-Nguyệt nhảy lui liền mười bước, rồi nàng quay tròn người như một con quay, người ta chỉ thấy bóng trắng ở giữa có sợi dây hồng. Nàng lăn vào làn kiếm quang của Vũ Chu. Bỗng choảng một tiếng, cả hai cũng nhảy lui lại.
Phật-Nguyệt đã tra kiếm vào vỏ. Còn Vũ Chu thì ôm tay, cườm tay ứa máu ra, mặt lộ vẻ vừa kinh hoàng, vừa khâm phục.
Phật-Nguyệt chắp tay nói:
– Vũ tướng quân! Đa tạ tướng quân nhẹ tay.
Vũ Chu nhăn nhó đáp:
– Cô nương Phật-Nguyệt, tiểu-tướng vẫn chưa phục, vì vừa rồi cô nương ra chiêu thế nào tiểu-tướng hoàn toàn không nhìn thấy.
Câu nói của Vũ Chu chính là ý nghĩ của tướng sĩ Hán, Thục. Tất cả không ai hiểu Phật-Nguyệt đã ra chiêu như thế nào. Chỉ có một mình Phương-Dung đứng lược trận phía sau biết mà thôi.
Phật-Nguyệt là một thiếu nữ nhu nhã, tính tình ôn hòa, nàng thấy Vũ Chu quả có bản lĩnh chân thực. Nàng thắng y là nhờ kiếm pháp Long-biên khắc chế kiếm pháp Thiên-sơn, chứ không phải kiếm pháp nàng cao hơn y. Nàng nói:
– Vũ tướng quân, trên thế gian này ngoài,ân sư của tiểu nữ ra, có lẽ chỉ có hai ngừơi là thắng được kiếm thuật của tướng quân mà thôi. Tiểu nữ cũng như họ, thắng tướng quân là nhờ kiếm pháp của bản môn khắc chế kiếm pháp Thiên-sơn, chứ không phải võ công tiểu nữ cao hơn tướng quân đâu.
Bên trận Thục Công-tôn Thiệu và các tướng nghe Phật-Nguyệt nói, họ cảm thấy cô gái Lĩnh-nam này hiệp nghĩa, thật thà đáng kính, không phải người tàn nhẫn độc ác. Công-tôn Thiệu là một người trí dũng tuyệt vời, y nghĩ rất mau:
– Hoàn cảnh đưa day, những người này ở vào thế đối nghịch với ta. Ta với Đặng Thi-Sách là chỗ thâm giao, vậy ta phải cho người khẩn sang Lĩnh-nam gặp y, nếu không kéo được những người này về với Thục, ít nhất họ cũng không giúp Hán.
Nghĩ vậy Công-tôn Thiệu nói:
– Cô nương! Cô nương có thể diễn lại cho Tiểu-vương được mở rộng tầm mắt không?
Phật-Nguyệt gật đầu. Nàng vọt người lên cao, tay rút kiếm đưa xuống dưới, nàng vận khí, thanh kiếm cong đi, rồi bật sang phải. Kình lực làm lưỡi kiếm kêu lên vo vo.
Bây giờ Vũ Chu mới biết rằng, y vung kiếm lên chém nàng, nàng đưa kiếm gạt, rồi vận khí lưỡi kiếm bật sang ngang, vì vậy y mới bị trúng cườm tay. Y ra nhặt kiếm, nhìn Phật-Nguyệt cẩn thận, rồi bay vọt lên tấn công. Lần này Phật-Nguyệt rút kiếm đâm ngược trở lại. Kiếm pháp của nàng nhanh quá, hư hư ảo ảo, không biết đâu mà lường. Người ta chỉ thấy bóng trắng nhấp nhô chập chờn khi trái, khi phải.
Đặng Vũ đứng lược trận nhìn tình cảnh của Vũ Chu, y nghĩ:
– May là Vũ Chu, nếu là mình có lẽ bị giết lâu rồi.
Đánh được hai trăm hiệp, Phật-Nguyệt thấy kiếm pháp của Vũ Chu có tới 36 chiêu khác nhau, mỗi chiêu đều biến hóa mãnh liệt vô cùng, nên nàng tránh không đỡ. Đợi khi Vũ Chu đánh hết một lượt, nàng đã hiểu rõ kiếm pháp của y. Y chém liền ba chiêu véo véo véo. Phật-Nguyệt nhảy vọt lên cao ánh kiếm quay thành những vòng tròn bao phủ khắp người Vũ Chu. Chỉ một chiêu đó nàng đã biến thành 72 chiêu khác nhau. Vũ Chu hoa mắt nhảy lui lại 7 bước, mà kiếm quang vẫn bao phủ lấy người. Phật-Nguyệt thu kiếm nhảy lui lại cười:
– Vũ tướng quân, người thấy rõ chưa?
Vũ Chu lắc đầu:
– Như thế không kể, cô nương dùng tà thuật, chứ có phải dùng kiếm thuật đâu, ta không phục.
Phật-Nguyệt cười:
– Vậy thì được, bây giờ ta cắt chỏm mũ của tướng quân đây.
Thân hình thấp thoáng một cái, ánh kiếm lóe lên, không ai nhìn rõ nàng ra chiêu như thế nào, đã nhìn thấy nàng tra kiếm vào vỏ đánh cách một tiếng, khoanh tay cười. Vũ Chu nhảy lui lại, mặt tái mét, vì chỏm mũ của y bị cắt đứt, y cúi xuống nhặt lên tay phát run.
Bên này Sầm Bành nhìn thấy kiếm chiêu của Phật-Nguyệt, y tỉnh ngộ:
– Trước đây có một người ở Lĩnh-nam tên Lý Thân sang Hàm-dương đánh thắng tất cả võ sĩ của Tần Thủy-Hoàng bằng chiêu kiếm thần tốc vô cùng, sau được phong là Vạn-tín hầu. Vậy con này tất là đệ tử đời sau của Vạn-tín hầu chứ không sai. Kiếm pháp của nó thần sầu quỷ khốc. Nếu ta là Vũ Chu, ta cũng không biết làm sao đỡ được. Ta nghe con nhỏ Phật-Nguyệt kiếm pháp còn thua Phương-Dung với Đào Kỳ, thế thì kiếm pháp của chúng còn cao siêu tới đâu?
Ngoài trận Phật-Nguyệt vung kiếm lên ánh bạc bao trùm người Vũ Chu. Y chỉ đỡ mà không kịp. Được mấy chục hiệp, mồ hôi vã ra. Lần này Trưng Nhị hô lớn:
– Giải quyết đi thôi.
Phật-Nguyệt vung kiếm lên, choảng một tiếng, Vũ Chu bị đâm trúng cườm tay. Kiếm rơi xuống đất. Tay trái Phật-Nguyệt bắt kiếm quyết, tay phải dí kiếm vào cổ y, giải khăn đỏ bay phấp phới trông như một nàng tiên. Vũ Chu bật ngửa người ra sau, lăn đi mấy vòng, rồi vọt người đứng dậy, tưởng đã thoát được kiếm Phật-Nguyệt, nhưng vừa đứng dậy, y đã thấy cổ đau nhói, kiếm Phật-Nguyệt dí vào. Y sợ quá biết khó thoát khỏi cái chết, hiên ngang nói:
– Ta giận vì học nghệ chưa tinh, bị bại dưới tay cô nương. Cô nương giết ta đi. Vũ Chu này không sợ chết đâu.
Phật-Nguyệt cười lớn:
– Vũ tướng quân, người có khí phách anh hùng thật hiếm thấy. Tiểu nữ trót mạo phạm mong tướng quân rộng lượng thứ lỗi. Trên đời tiểu nữ chưa bao giờ gặp một kiếm thuật danh gia như tướng quân. Tiểu nữ dám hỏi: Tướng quân với Thiên-sơn lão tiên là thế nào?
Vũ Chu đáp:
– Thiên-sơn lão tiên là Thái-sư phụ của tiểu tướng.
Phật-Nguyệt, Phương-Dung, Trưng Nhị đều à lên một tiếng kinh ngạc. Ngày nọ trên thuyền từ đảo về Bắc, Khất đại-phu kể chuyện rằng cách nay 20 năm ông cùng Nguyễn Phan sang Trung-nguyên chơi, đấu với khắp anh hùng thiên hạ, để tìm bạn đồng đạo. Sau hơn một năm, hai người chỉ tìm được Thiên-sơn lão tiên là người hiệp nghĩa, rồi kết bạn với nhau.
Công-tôn Thiệu hỏi:
– Chẳng hay cô nương có quen biết với Thái-sư phụ của chúng tôi chăng?
Phật-Nguyệt đáp:
– Tôi bằng này tuổi, làm sao quen được với một lão tiên như Thiên-sơn đại hiệp! Chẳng qua sư phụ tôi với lão tiên là bạn tri kỷ. Cách nay 20 năm sư phụ tôi với Khất đại-phu, cùng lão tiên đấu võ, uống rượu, rồi kết bạn. Khi rời Lĩnh-nam sang đây, sư phụ dạy rằng, nếu biết tin tức lão tiên ở đâu, cho người biết để người sang cùng đối ẩm.
Công-tôn Thiệu kêu lớn lên:
– Thì ra cô nương là đệ tử của Long-biên thần kiếm Nguyễn Phan tiên sinh. Chúng tôi thua là phải lắm.
Đặng Vũ thấy Phật-Nguyệt, Công-tôn Thiệu thân mật, sợ hai bên hòa hoãn thì khó khăn cho y. Y cầm roi ngựa chỉ một cái. Các tướng Hán xua quân tràn sang trận Thục.
Bỗng trận phía trái, phía phải đều xáo trộn, thì ra trong thành đã cho hai đạo quân đánh vào trận Hán.
Trưng Nhị sai đốt pháo lệnh, cho quân sĩ lui lại, một đàn voi trận xuất hiện. Lần đầu tiên binh tướng Thục thấy voi, thất kinh hồn vía bỏ chạy. Hai đội quân bên trái, phải không sợ vẫn đánh thúc vào mạn sườn quân Hán. Hán quân cương quyết xua voi trợ chiến. Chỉ được một lát hai đạo trái, phải dao động, thì ra hai đội của Lê Chân, Trần Năng xuất hiện. Binh Thục bị ba đội voi bao vây chạy hỗn loạn. Công-tôn Thiệu bỏ Phật-Nguyệt xông về phía Bắc gặp Trần Năng. Y không nói không rằng phóng chưởng đánh liền. Trần Năng vận khí, phát chiêu trong Phục-ngưu thần chưởng Ngưu tọa ư điền đánh lại. Bùng một tiếng, nàng thấy nảy đom đóm mắt, khí huyết đảo lộn. Vội nhảy vọt lên cao hít một hơi chân khí. Trong khi đó Công-tôn Thiệu cũng rung động toàn thân bởi y không ngờ nữ tướng có công lực mạnh như vậy. Y vung chưởng nữa đánh lên không. Trần Năng trên cao phát chiêu Ác ngưu nan độ đánh xuống. Bùng một tiếng người nàng lại bay lên. Nàng là người can đảm nhiều mưu trí, đá gió một cái đáp xuống đất. Công-tôn Thiệu bị tê cả tay. Y nói:
– Thiếu nữ kia, ngươi tên gì? Trên đời này chỉ có Đặng Vũ, Sầm Bành đỡ được chưởng của ta mà thôi. Ngươi đỡ được mấy chưởng của ta, thì công lực không phải tầm thường. Sư phụ của ngươi là ai?
Trần Năng đáp:
– Tôi họ Trần tên Năng, sư phụ tôi họ Trần húy Đại-Sinh.
Công-tôn Thiệu nghe đến tên Trần Đại-Sinh thì mặt y cau lại. Y nói:
– Trần cô nương, xin cô nương hãy kíp liên lạc với tôn sư, hỏi người xem việc cô nương đánh Thục có hợp đạo lý hay không? Trần lão tiên sinh với Thái sư-phụ tôi là chỗ giao hảo thâm tình. Sư huynh Đặng Thi-Sách với tôi vốn là chỗ cựu giao. Thôi tôi rút quân đây.
Trưng Nhị phất cờ, quân Hán chia làm ba, một đạo do Hồ Đề, Đặng Vũ với Trưng Nhị chỉ huy đuổi theo Công-tôn Thiệu. Một đạo do Lại Thế-Cường chỉ huy quẹo sang phải hợp với Trần Năng đánh đội quân cửa Bắc. Một đạo do Phật-Nguyệt quẹo sang trái đánh đạo quân cửa Nam.
Trưng Nhị cho đuổi tới chân thành, trên thành Xuyên-khẩu lăn gỗ đá bắn tên xuống, nàng phất tay cho quân lùi lại. Nghiêm Sơn thấy như vậy đã đủ, vương cho đánh chiêng thu quân. Các tướng binh đều trở về. Kiểm điểm bắt được hơn 3000 tù binh. Trần Năng cùng các y sĩ đang băng bó vết thương cho binh Hán lẫn tù binh bị thương.
Sầm Bành hướng vào Trần Năng:
– Trần phu nhân, không ngờ phu nhân mảnh mai như vậy mà chưởng lực mạnh đến thế. Phu nhân đối với Công-tôn Thiệu ba chưởng ngang tay, trên đời thật hiếm có.
Cảnh Yểm nói với Phật-Nguyệt:
– Thú thực tôi chỉ biết khâm phục cô nương mà không biết cô nương sử dụng chiêu thức như thế nào làm cho Vũ Chu dở sống, dở chết.
Các tướng Hán bây giờ mới kính phục Trưng Nhị và các tướng Lĩnh-nam.
Đặng Vũ nói với Nghiêm Sơn:
– Giặc không biết vương-gia ở đây. Hôm nay thấy chúng ta thắng trận, chúng cho rằng chúng ta không đề phòng, chắc thế nào cũng cướp trại. Vậy Trưng cô nương điều binh đề phòng.
Nghiêm Sơn lắc đầu:
– Công-tôn Thiệu là người cẩn thận, mưu trí tuyệt vời. Y vừa mới bại trận, lại bị trúng độc, nhuệ khí mất, chắc y không cướp trại đâu.
Trưng Nhị mỉm cười:
– Lĩnh-nam vương liệu địch không sai. Tôi có cách khiến y cướp trại. Nếu đêm nay y cướp trại, ta sẽ chiếm thành Xuyên-khẩu, đuổi giặc đến Bạch-đế thành. Sau đó chia quân ra làm ba, đánh Vũ-khê, Vũ-lăng và Bạch-đế.
Đặng Vũ ngẫm nghĩ một lát nói:
– Trưng quân sư, giáp sĩ của giặc ở Giang-tân, Bột-lãng có đến mấy vạn, giáp sĩ Thành-đô còn hơn 10 vạn. Nếu ta đánh mau quá, giặc dồn hết quân ra mà sĩ tốt của ta lại mệt mỏi thì nguy. Chúng ta nên đợi đạo quân của Ngô Hán, Đào Kỳ đánh cho giặc rúng động, giặc đem quân từ Thành-đô đi cứu các nơi kia, ta chỉ cần đánh một trận là lấy được Ích-châu dễ dàng.
Trưng Nhị nhìn Đặng Vũ cười:
– Lĩnh-nam vương đã là anh em kết nghĩa với Kiến-Vũ thiên tử. Tướng quân là một trong ba vị đại thần. Chúng ta cần hy sinh nhiều hơn các nơi kia mới phải chứ. Có phải tướng quân sợ mình đánh nhanh quá, giặc đưa quân ra tiếp viện, khó vào Thành-đô trước, trong khi các nơi kia rảnh tay, nhập Thành-đô, thì cái mộng làm chúa Ích-châu bị mất phải không?
Đặng Vũ bị nàng nói trúng tim đen, y chối quanh:
– Tôi sợ binh sĩ mệt mỏi mà thôi.
Trưng Nhị chỉ chờ y nói có thế, nhìn Phương-Dung như thông cảm:
– Ừ ta đang muốn cho mi tiến chậm để Ngô Hán bắt Công-tôn Thuật, nay mi tự nói ra thì sau này đừng trách ta.
Nàng làm bộ như hiểu ra:
– Tôi chưa kinh nghiệm, may nhờ tướng quân chỉ bảo, nếu không thì làm quân sĩ mệt mỏi. Thôi được, chúng ta khao thưởng sĩ tốt trước đã.
Đặng Vũ cho lệnh giết trâu, mổ dê khao thưởng quân sĩ. Những người chết cho chôn cất tử tế, làm mộ, trên đề tên, quê quán, sau này cho cải táng mang về quê.
Trưng Nhị tập hợp tù binh giữa bãi lớn, nàng để Đặng Vũ đứng lên đọc hịch của Nghiêm Sơn, rồi hỏi lớn:
– Ai chịu đầu hàng thì ta tha. Ai không chịu đầu hàng thì ta chém đầu. Nào ai đầu hàng thì đứng lên sang bên phải.
Quân sĩ cười oà. Có người cười ha hả đến sùi bọt mép. Có người nhổ nước miếng, có người hỉ mũi tỏ vẻ khinh bỉ.
Trưng Nhị ngạc nhiên hỏi:
– Các ngươi là tù binh bị bắt, đàng lẽ ta đem ra chém. Nhưng nghĩ các ngươi còn vợ con, nên không nỡ, mở rộng cửa cho các ngươi đầu hàng. Tại sao các ngươi lại vô lễ như vậy?
Một tiểu tướng nói:
– Trưng cô nương, trận đấu hôm nay thấy tư thái cô nương cùng các vị anh hùng Lĩnh-nam, tôi khâm phục các vị có võ công, võ đạo, trí dũng tuyệt vời. Nhưng có điều đáng tiếc.
Trần Năng đứng cạnh hỏi:
– Chúng tôi hành xử quang minh chính đại, có gì đáng tiếc đâu?
Viên tướng đó nói:
– Trước đây Hoàng-thượng và Trường-sa vương thường nói rằng: Trong thiên hạ nghĩa sĩ rất hiếm. Hiện chỉ đất Lĩnh-nam với Tây-xuyên là nhiều anh hùng. Tây-xuyên có Thiên-sơn thất hùng mà Hoàng-thượng là một. Vì vậy Tây-xuyên giám đứng lên chống lại triều đại thối nát của Lưu Tú. Tương lai chắc chỉ còn Lĩnh-nam mà thôi. Rồi trong lúc bàn về anh hùng Lĩnh-nam, Trường-sa vương có khoe rằng người là bạn thân với Đặng Thi-Sách, người muốn gửi sứ giả sang mời Đặng tiên sinh hợp tác phản Hán, phục lại đất Thục, đất Việt. Không ngờ hôm nay các anh hùng giúp Hán, tức là giúp kẻ ác diệt nhân nghĩa vậy. Cho nên chúng tôi mới tiếc.
Y thở dài tiếp:
– Cô nương xem, chúng tôi là dũng sĩ đất Thục, dù bị bắt, chúng tôi cam lòng chịu chết chứ không chịu hàng. Thôi cô nương đem chúng tôi ra chém quách đi, chúng tôi tuyệt không oán hận.
Trưng Nhị nhìn Trần Năng, Hồ Đề nàng thấy trong mắt mỗi người dường như có vẻ khâm phục tướng Thục. Nàng nói:
– Thôi ta đã hứa tha, thì sẽ tha các ngươi. Các ngươi về đi, thanh gươm ta chỉ có thể chém giặc, chứ không thể chém người có võ đạo cao.
Đám tướng binh Thục đứng dậy thủng thẳng ra về.
Đặng Vũ không hiểu, hỏi:
– Trưng quân sư, tại sao lại tha chúng dễ dàng vậy?
Trưng Nhị đưa tờ hịch của Nghiêm Sơn cho y:
– Phàm việc thiên hạ phải giữ chữ tín. Lĩnh-nam vương đã ban hịch tôn trọng hiền sĩ. Họ tuy là tướng sĩ Thục thật, nhưng họ là kẻ sĩ giết đi thật uổng.
Sáng hôm sau, một tham-tướng vào báo với Đặng Vũ:
– Thưa Đại-tư mã, không hiểu trong các cánh rừng quanh dinh Hán, có rất nhiều xác binh lính chết, quần áo xương còn nguyên mà thịt mất hết, máu me văng đầy chung quanh. Quân sĩ rúng động cho rằng những người đó bị yêu tinh ăn thịt.
Cảnh Yểm hỏi:
– Có bao nhiêu xác như vậy?
– Thưa gần 100 xác.
Đặng Vũ truyền lệnh cho quân sĩ không được vào rừng lẻ tẻ, và cho điều tra nguyên do.

– Trần huynh với ta giống nhau. Chúng ta lớn rồi, không thể ra tay đánh đám con cháu. Ta biết họ vào Thục đánh đồ tử, đồ tôn ta, mà ta cũng không nỡ ra tay. Họ là anh hùng giết đi thực uổng.
Ông nói tiếp:
– Thế rồi Công-tôn Khôi bị anh hùng Lĩnh-Nam bắt trên sông Trường-giang ta cũng biết hết. Đáng lẽ Vương Nguyên đem Công-tôn Khôi ra xẻo thịt tế vợ, nhưng may mắn có một anh thư Lĩnh-Nam tên Trưng Trắc, ban đêm lẻn vào nhà tù thả y ra.
Khất đại-phu, Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa đều kêu lên một tiếng ủa đầy vẻ kinh ngạc.
Ông tiếp:
– Hiện Vương Nguyên đang theo đạo Lĩnh-Nam cùng với ba đứa con vào Thành-đô diệt họ Công-tôn trả mối hận năm xưa. Các ngươi sắp sửa bị giết chết ba họ trong sớm tối.
Thiên-sơn ngũ hùng cùng Nhiệm Mãng quỳ gối xuống khóc:
– Thái sư thúc hãy cứu trăm họ Ích-châu. Sáu anh em đệ tử nguyện tự tử để đền tội. Bọn đệ tử đồng lòng tôn Lục sư-đệ lên làm Hoàng-đế.
Khất đại-phu hỏi Thiên-sơn lão tiên:
– Huynh tính sao? Họ cũng đáng thương.
Thiên-sơn lão tiên rót rượu mời Khất đại-phu rồi nói:
– Đệ xuống đây thì đã là câu trả lời cho Trần huynh vậy. Trần huynh ơi, huynh làm thuốc cứu hàng nghìn người, bây giờ xin huynh ban cho phương thuốc cứu trăm họ Ích-châu đi.
Khất đại-phu suy nghĩ một lúc rồi gật đầu:
– Thiên-sơn lão tiên, hai cái thân già chúng mình phải ra tay thôi. Bây giờ đệ phải trở về ngay mới kịp, hẹn dịp khác chúng ta sẽ gặp lại sau.
Ông cùng hai cháu lên đường trở về dinh Hán, đến nơi gần nửa đêm. Phùng Vĩnh-Hoa và các anh hùng Lĩnh-Nam ngồi chờ. Họ thấy ông về thì mừng lắm. Quế-Hoa tường thuật tỉ mỉ cuộc hội kiến trong thành Cẩm-dương cho mọi người nghe.
Phùng Vĩnh-Hoa nói:
– Sáng nay cháu được thư của sư tỷ Trưng Trắc. Sư-tỷ cũng có viết thư cho Trưng Nhị và anh hùng đạo Kinh-châu nói:
Hãy án binh bất động, chờ đến sau Tết mới có quyết định. Sư tỷ còn vào Thành-đô hội với Thiên-sơn thất hùng, quyết định ra sao, sẽ chúng ta biết.
Đoạn này thuật cuộc tiến quân của Anh Hùng Lĩnh Nam và Đào Kỳ
Tại bản doanh anh hùng Lĩnh-Nam, Trưng Trắc cho mời riêng anh hùng Lĩnh-Nam đến họp. Nàng hướng vào Nam-hải nữ hiệp, Hoàng Thiều-Hoa, Đào Kỳ:
– Sư bá, sư muội, sư đệ. Cháu xin tạ lỗi với các vị về vụ cháu tha Công-tôn Khôi. Trước khi sang đây, Đặng đại-ca đã tiếp sứ giả của Công-tôn Thiệu. Sứ giả thuật tất cả mọi việc, xin đại ca thực hành lời hứa chia ba thiên hạ trước đây. Đặng đại ca không dám chủ trương, bí mật mời Đào-hầu, Đinh-hầu ở Cửu-chân, tất cả bảy vị Thái bảo phái Sài-sơn, sư thúc Nguyễn Trát phái Long-biên, sư thúc Cao Cảnh-Sơn phái Hoa-lư để xin ý kiến. Tất cả đều đồng ý với Đặng đại ca và Công-tôn Thiệu. Đại hội cử cháu sang hội ý với anh hùng Lĩnh-Nam bên này. Cháu dũng Thần-ưng đưa thư cho Trưng Nhị, Vĩnh-Hoa cùng ngưng tiến quân, đợi sau Tết mới có quyết định.
Trưng Trắc hướng về Vương Nguyên:
– Vương tiên sinh, tiên sinh nên về đất Thục làm vua, chúng tôi có thể giúp tiên sinh giữ vững cơ nghiệp phái Thiên-sơn.
Hoàng Thiều-Hoa xen vào hỏi:
– Trưng sư muội, Nghiêm đại ca có biết chuyện này không?
Trưng Trắc lắc đầu:
– Chắc chắn là không.
Thiều-Hoa rưng rưng nước mắt hỏi Đào Kỳ:
– Sư đệ, vậy tất cả anh hùng Lĩnh Nam phản Nghiêm đại ca sao?
Đào Kỳ ôm lấy Thiều-Hoa:
– Sư tỷ! Em thương yêu sư tỷ còn hơn chính bản thân em nữa. Vì vậy chính em đã thuyết phục anh hùng Lĩnh-Nam tùng chinh giúp Nghiêm đại-ca. Bây giờ sự thể như thế này, chúng ta cần tiến quân vào Thành-đô, hội nhau bàn định. Nếu tất cả muốn diệt Thục phò Hán, thì ta đánh Thành-đô. Còn nếu có quyết định khác, chúng ta sẽ tùy cơ định liệu. Em nghĩ chúng ta chỉ phản Hán, chứ đâu có phải phản Nghiêm đại-ca. Anh hùng Lĩnh-Nam đều ghi nhớ ơn đức của Nghiêm đại-ca, muốn tôn người lên làm Hoàng-đế mà.
Đào Kỳ cho tập hợp tướng sĩ ra lệnh:
– Chúng ta là đạo quân đầu tiên tiến vào Thành-đô. Vậy tướng sĩ phải nghiêm cấm quân sĩ không được cướp của dân, không được phạm đến tù binh, hàng binh, không được đốt phá cung thất Thục-đế. Nếu tướng sĩ phạm thì cấp Lữ trưởng trở xuống bị xử trảm.
Chàng ra lệnh:
– Sư bá Triệu Anh-Vũ, Đinh Công-Thắng tiến quân theo hai đường, một chiếm Long-xương, rồi theo đường thủy vào uy hiếp Thành-đô. Một theo đường Đông-sơn đến Mi-sơn. Đạo này có hiền đệ Vương Lộc làm tiên phon g dẫn đường. Hiền đệ nhớ một điều: Thù nhà sau nợ nước, nếu người dòng họ Công-tôn đầu hàng thì không được giết.
Ngừng một lát chàng tiếp:
– Hiền-đệ Vương Thọ cùng sư muội Đinh Bạch-Nương, sư đệ Hiển-Hiệu và Quách Lãng đánh Hán-nguyên. Còn sư bá Nam-hải, sư thúc Đinh Đại, sư thúc Vương Nguyên, sư tỷ Thiều-Hoa, sư muội Vương Sa-Giang đánh thẳng vào Thành-đô.
Đinh Bạch-Nương hỏi:
– Trong bọn chúng tôi, ai là chúa tướng?
Đào Kỳ buồn cười về cô em bà Chằng, nói:
– Sư-đệ Hiển-Hiệu là Hổ-nha đại tướng quân dĩ nhiên sư đệ làm chúa tướng.
Vương Thọ hỏi:
– Đánh Hán-nguyên xong chúng tôi sẽ làm gì?
Đào Kỳ khen:
– Hiền đệ quả là người cầm quân kinh nghiệm. Sau khi hạ xong Hán-nguyên, hiền-đệ cho đối xử với tù binh, hàng binh như chúng ta đã làm. Hiền-đệ cử một tướng cũ của hiền-đệ trấn thủ. Hiền-đệ tức tốc mang quân đến trấn ở Tiểu-kim bắt Công-tôn Thuật. Vì có thể y sẽ chạy vô khu rừng núi này ẩn thân.
Hiển-Hiệu lĩnh mệnh, mời các tướng trẻ ra ngoài bàn định kế sách.
Đào Kỳ tiếp:
– Sư bá Nam-hải mang ba vạn quân tiến theo đường phía Nam đánh vào Thành-đô. Thế nào sư bá cũng vào thành trước. Xin sư bá chỉ huy việc tiếp thu thành trì, bảo quản kho tàng. Sư thúc Đinh Đại kinh nghiệm chiến đấu nhiều, xin lãnh ba vạn quân đánh vào cửa Bắc Thành-đô. Sư tỷ Trưng Trắc lĩnh một vạn quân đánh vào cửa Đông. Sở dĩ sư tỷ lĩnh ít quân, vì phía sau sẽ có đạo quân của sư bá Đinh Công-Thắng, Thiệu Anh-Vũ tiến lên, tổng số sẽ tới năm vạn là ít. Sư tỷ Thiều-Hoa đánh cửa Tây, chỉ cần phục quân ở ngoài thành, đợi cho giặc chạy qua một nửa thì đổ quân ra, cắt làm đôi mà bắt giặc. Số còn lại giặc chạy về Tiểu-kim, đã có Hiển-Hiệu bắt chúng. Thôi mời quý vị điểm quân, ngày mai giờ Dần sẽ xuất phát.
Vương Nguyên nước mắt đầm đìa hỏi:
– Đào nguyên soái, cha con tôi với Công-tôn Khôi thù sâu như biển. Tại sao nguyên soái không cho cha con tôi xuất lực?
Đào Kỳ ghé tai Vương Nguyên nói nhỏ:
– Vương sư thúc, sư muội và cháu sẽ đột nhập Thành-đô bắt giặc trước tất cả. Nhưng phải giữ bí mật hết sức mới được.
Vương Nguyên cả mừng chắp tay lạy Đào Kỳ. Đào Kỳ vội đỡ dậy. Hai người ra chỗ vắng bàn việc đột nhập Thành-đô.
Vương Nguyên móc trong túi ra tấm bản đồ:
– Đây là bản đồ Thành-đô, tôi ghi rất kỹ. Đào nguyên soái hãy coi.
Đào Kỳ thấy bản đồ ghi chi tiết từng chỗ đóng quân trong thành, sông, núi kinh, lạch, cùng các cung điện, không chỗ nào mà không có. Chàng ngạc nhiên hỏi:
– Tại sao sư thúc có bản đồ nầy?
Vương Nguyên đáp:
– Nguyên hai cha con tôi hóa trang, đổi hình làm nghề ca hát khắp Thành-đô, biết rõ mọi đường lối trong thành.
Đào Kỳ cho lấy thẻ bài cũ của Việt-tây để ba người dùng, rồi bí mật lên đường vào Thành-đô.
Vương Sa-Giang bàn:
– Bây giờ chúng ta phải giả dạng mới được. Cha làm nhạc công, con làm ca nhi còn Đào đại-ca làm gì bây giờ?
– Thành-đô ai cũng biết cha và con cả rồi, bây giờ Đào đại-ca nói tiếng Thành-đô không rõ thì dễ bị lộ lắm. Chi bằng cha tuyên bố con mới lấy chồng, Đào đại-ca là chồng của con. Đào đại-ca đóng vai người câm.
Vương Nguyên là văn sĩ lãng mạn, coi chuyện đó thường tình. Nhưng Vương Sa-Giang ngượng quá:
– Đào đại-ca có vợ rồi, cha không biết hay sao mà bảo con là vợ đại-ca?
Vương Nguyên phì cười:
– Cha có bảo con là vợ đại-ca thực đâu. Hai người là vợ chồng giả thôi mà. À! Được rồi, Đào đại-ca giả làm người câm, để cha muốn nói gì thì nói. Đại-ca làm người mãi võ kiếm tiền, như vậy chúng ta đột nhập Thành-đô dễ dàng hơn.
Vương Nguyên tính khoáng đạt, nghĩ sao nói vậy, nhưng Sa-Giang với Đào Kỳ tự nhiên thấy ngượng ngùng. Ba người lấy một ít vàng bạc làm lộ phí, rồi lên đường đến Thành-đô.
Chiều hôm đó ba người đến Nhã-an. Nhã-an là một quận gần Thành-đô, nằm trên giao điểm của năm con sông, thuyền bè đi lại tấp nập, dân cư đông đúc. Dù đất Thục đang loạn ly, mà hàng quán buôn bán vẫn sầm uất. Trai thanh gái lịch đi lại vui vẻ. Quân lính đầy trong quận lỵ nhưng không sách nhiễu dân chúng như quân Hán ở Giao-chỉ thường làm.
Vương Nguyên quen thuộc với trấn này, ông nói:
– Trấn có khoảng ba mươi ngàn nóc gia, nguồn thủy lợi như tôm cá không biết bao nhiêu mà kể, lại là nơi nuôi nhiều súc vật, rất giàu có. Chúng tôi qua lại ca hát nhiều lần, dân phố quen mặt chúng tôi. Đào huynh đệ mới đến đây lần đầu, lại không nói được giọng Ích-châu, vì vậy chúng ta tránh gặp gỡ nhiều người. Chúng ta tạm kiếm nhà quen nghỉ ngơi, rồi ngày mai lên đường, nhất thiết giấu kín hành tung, được bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Bây giờ chúng ta đến nhà Tạ viên ngoại, nghỉ ngơi ăn uống đã.
Ba người đi về phía bãi sông Thanh-y. Trên sông thuyền đậu san sát, cạnh sông, một khu vườn rộng, ngoài có hàng rào rất đẹp. Vương Nguyên giật chuông. Một lát, có người lão bộc mở cổng. Lão bộc trông thấy Vương tỏ vẻ sợ hãi, giật mình. Y chắp tay lắp bắp:
– Đại tiên sinh giá lâm, để tiểu nhân vào báo với trang chủ.
Nói rồi y chạy biến vào trong. Đào Kỳ hơi ngạc nhiên vì thân thủ y không phải tầm thường, mà tại sao lại đi làm nô bộc. Rồi nữa, khi y thấy Vương thì sợ hãi, tại sao?
Vương đối với dân chúng là ngươi hát dạo kiếm tiền, một nghề chỉ hơn ăn mày một chút thôi. Tuy vậy, chàng nghĩ:
– Có lẽ Vương là bạn của trang chủ, nên nô bộc trông thấy phải kính trọng là lẽ thường.
Tạ trang chủ quần áo chỉnh tề, chạy ra đón khách. Y chắp tay chào Vương Nguyên:
– Tiên sinh và cô nương giá lâm tệ trang, thật hân hạnh cho chúng tôi. A... còn vị thiếu niên nầy là ai?
Vương Nguyên chỉ Đào Kỳ:
– Y là con rể tôi. Tôi mới cho chúng cưới nhau mấy tháng trước. Y bị câm từ nhỏ, không biết nói nhưng nghe được, hiểu được và biết viết. Võ công y thuộc loại khá. Y theo chúng tôi đi mãi võ độ nhật.
Tạ viên ngoại mời khách vào trang. Qua hai lần cổng, đến một cái sân khá rộng, trong sân đầy cây kiểng, nào quất, nào thủy-tiên. Trong vườn đầy đào và mai, trên cây đào đã lấm tấm mấy nụ hoa nở. Vào tới nhà chủ nhân hỏi Vương Nguyên:
– Tiên sinh ở chơi mấy ngày, đợi qua Tết hãy về Thành-đô, để chúng tôi được thưởng thức khúc nhạc tiên trong ngày đầu xuân.
Vương Nguyên lắc đầu:
– Đa tạ viên ngoại, đợi khi khác. Chúng tôi có việc khẩn phải lên đường. Xin viên ngoại cho tá túc một đêm là đủ.
Tạ viên ngoại gọi người nhà dặn:
– Người nầy là hiền tế của Vương tiên sinh. Ngươi đưa họ ra căn phò22
Hồi 23 Hồi 24 Hồi 25 Hồi 26 Hồi 27 Hồi 28 Hồi 29 Hồi 30 Phụ Lục