Bốn mươi phút sau khi Bét-xô-nốp hạ lệnh phát tín hiệu cho các quân đoàn xe tăng và cơ giới tiến công, trận đánh ở bờ sông phía Bắc khu làng đạt tới mức độ ác liệt nhất. Từ đài quan sát thấy rõ cuộc chiến đấu bằng xe tăng đang diễn ra ở gần đó nên từ trên cao nhìn xuống, trận đánh trong bóng tối dường như hết sức quái dị, náo loạn, dai dẳng vô cùng và sở dĩ như vậy vì chẳng thấy rõ người ở đâu cả. Những phát đạn đại bác bắn thẳng lóe sáng khắp rìa làng, đạn “Ca-chiu-sa” dày đặc ầm ầm nổ tung như những cơn lốc giữa các ngôi nhà; những chiếc xe tăng xông thẳng vào nhau, quyện chặt, bốc cháy trên các ngã tư; dọc bờ sông giữa đám cháy bắt đầu bùng lên, những khối thép ánh hồng, bóng nhẫy như đổ mồ hôi bò lổm ngổm, ngổn ngang, chúng nổ súng bắn thẳng ở cự ly quá ngắn, hầu như nòng súng đâm vào nhau, xích sắt của chúng chà nát nhà cửa, chúng xoáy mình ở trong các sân, bò đi rồi lại xông vào tiến công, luôn luôn ép chặt và vây hãm khu vực bàn đạp ở đầu cầu. Bọn Đức chống cự, bám chặt lấy bờ sông phía Bắc nhưng trận đánh đã lan ra tới bờ sông, đã bắt đầu có chuyển biến, trong giây phút khắc nghiệt đó, tiếng gào rú ầm ĩ của động cơ tan vụn thành những dư âm tràn ngập dòng sông, có chỗ bọn Đức đã bắt đầu rút lui về phía đầu cầu. Bét-xô-nốp bất chợt nhìn về bờ sông phía Nam chứ không phải phía Bắc, vẫn còn sợ nhầm, không vội vã rút ra kết luận. Ở phía đó, phía bên kia sông, nơi xe tăng Đức chậm chạp lùi về và nơi tưởng như trong suốt ngày đêm hôm qua đã bị các trận ném bom, các cuộc tiến công của xe tăng, các cuộc nã pháo chà sát, đè bẹp, nghiền nát, đào xới, nơi thảo nguyên cháy rụi chết lặng, hoàn toàn hoang văng, không còn một hơi thở của sự sống, giờ đây tại khắp các phía bật lên những chùm đạn tiểu liên, những luồng đạn hồng rực, tóe rộng của mấy khẩu pháo bay là là và những lưỡi lửa nhọn hoắt của súng chống tăng vun vút lao đi. Tiếp đó, tại những nơi hôm qua chiến hào của bộ binh chạy ngang qua, ba khẩu súng máy cùng lên tiếng một lúc, những đốm lửa tóe trên thảo nguyên như những con bướm đỏ sà xuống phía dưới, trên các chiến hào. Vùng đất tưởng đã chết lặng, bị tiêu diệt, bắt đầu cựa quậy một cách yếu ớt, cho thấy là vẫn còn sự sống và không thể tưởng tượng được sự sống ấy đã được duy trì, đã được sưởi ấm từ đầu đến cuối như thế nào, nơi xe tăng địch đã xông thẳng hoặc vòng qua, chia cắt, kẹp bờ sông phía Nam trong gọng kìm vào chập tối hôm qua. Lúc mờ sáng, những ngọn gió nhọn sắc vẫn còn quất vào bờ công sự trên đài quan sát, quạt vào mắt Bét-xô-nốp khiến ông ứa nước mắt, khó nhìn. Ông rút khăn mùi soa lau mặt rồi dán mắt vào ống kính. Ông muốn dứt khoát tin chắc vào cái điều thật khó tin nhưng không còn có gì hồ nghi được đó. Ở đó, trên bờ sông phía Nam, trong các chiến hào bị xe tăng địch nghiền nát, trên những trận địa pháo bị tan vụn, những người bị bao vây, bị chia cắt khỏi sư đoàn, những người mà theo mọi tính toán thì không thể nào còn nguyên vẹn được và không thể coi là còn sống, những người đó đã bắt đầu nổ súng. -Các chiến sĩ của tôi, các chiến sĩ của tôi đấy! Đồng chí hãy nhìn xem, thưa đồng chí tư lệnh! Hóa ra họ vẫn còn sống! Những chàng trai vô cùng kỳ diệu của tôi! Những tay cừ quá! Rất cừ-Giọng nói trẻ trung chắc nịch của Đê-ép xúc động vang lên ở đâu đó bên cạnh, giữa tiếng hú trên đài quan sát, quất vào các lũy công sự; giữa tiếng gào của các chiến sĩ thông tin và sự sôi động ở xung quanh. Những lời nói dịu dàng âu yếm do Đê-ép bất chợt thốt ra đó cùng với vẻ kiêu hãnh trẻ trung của anh về việc bộ đội của anh ở trong các chiến hào đầu tiên, những người tưởng chừng như đã chết từ lâu nay bỗng nhiên lại tiếp tục chiến đấu, thái độ dịu dàng công khai đó, sự yếu đuối đó của anh đã không làm cho Bét-xô-nốp tức giận mà ngược lại khi nghe tiếng la thét của Đê-ép ông không quay người lại, cổ họng nghèn nghẹn, nghĩ rằng dẫu sao số phận cũng đã cho ông cái may mắn có được một người chỉ huy sư đoàn như thế này. Những luồng đạn đỏ lừ của xe tăng rạch toang bóng tối của tinh mơ tháng Chạp, những đợt sấm rền đinh tai nhức óc trên thảo nguyên, tiếng động cơ rồ lên ngày càng dày đặc, ánh sáng đạn tên lửa của Đức hỗn độn, vun vút lao lên, rạch nát bầu trời. Xe tăng Đức như những con thú bị kích động đang bị bủa vây, hằn học chúi xuống đơn độc hoặc quây lại thành từng đàn, bò cách xa bờ sông dưới sức ép của xe tăng T.34 của ta-theo báo cáo Bét-xô-nốp mới nhận được cách đây năm phút thì xe tăng ta đã chiếm được cả hai đầu cầu. Xông sang bờ phía Nam, xe tăng T.34 tăng tốc độ, trườn lên đâm xiên vào, bao vây cả từ phía trái cũng như từ phía phải đám xe tăng Đức hở sườn, co cụm lại bên nhau. Đám xe tăng địch như một bầy thú bị săn đuổi, gào rú khủng khiếp, dừng lại trước bờ khe nơi sáng qua chúng xuất phát tiến công, chốc chốc chúng lại bắn về phía bờ sông phía Bắc và phía nam đằng sau. Không dừng lại được, mấy chiếc xe tăng đơn độc bò ngổn ngang khắp các phía. Lập tức ngay phía trên đám xe tăng co cụm lại đó, một quả pháo hiệu vun vút lao lên cao, làm sáng rực bầu trời rồi lả tả rơi xuống như một cơn mưa xanh trên thảo nguyên. Vừa lúc ấy, ở xế một bên sườn cái gò nhỏ trước lòng khe, ngay trước mặt xe tăng Đức, một đám lửa nhấp nháy bùng to dày dặc, những loạt đạn súng máy thấp thoáng ở lưng trời, những chấm sáng đỏ lừ giữa thảo nguyên tối om, bay về phía sau lưng quân Đức. Nhưng trên cái gò đó không thể có quân ta được. Căn cứ vào đường đạn có thể cho rằng đó là lửa tóe ra từ một khẩu đại liên của Đức. -Chúng nó làm gì thế nhỉ, thưa đồng chí tư lệnh? Chúng điên hay sao mà lại bắn vào nhau?-Bô-gi-scô nói, duỗi chân gần Bét-xô-nốp, anh đang ở trong tâm trạng kích động say sưa, sung sướng vì cuộc chiến, vì thấy quân Đức rút lui, vì cuộc tiến quân thắng lợi của xe tăng ta và thậm chí anh cất tiếng cười vang.-Kìa, bọn chúng đang diễn trò đấy, thưa đồng chí trung tướng! Bét-xô-nốp rời mắt khỏi kính ngắm, chăm chú nhìn những loạt đạn súng máy phát ra từ chiếc gò trên lòng khe đang đan quyện vào nhau ở chân trời. Thoạt đầu ông cũng băn khoăn về chuyện này không kém gì Bô-gi-scô nhưng sau khi phân biệt kỹ khối xe tăng địch đang chuyển dịch dọc bờ sông về phía những làn đạn liên tục đó, ông hiểu ra rằng trong đêm tối, khẩu súng máy Đức có lẽ đã bắn định hướng để chỉ đường rút lui cho đám xe tăng chạy về con đường lớn ở sau lòng khe. Ông không giải thích cho Bô-gi-scô biết rõ điều đó vì bất kỳ lời giải thích nào cũng đều là thừa, làm ông sao lãng điều chủ yếu, có thể hủy hoại mất cái gì đó ở trong chính bản thân ông, giờ đây nó giống như một cảm xúc sắc nhọn, bị nén chặt nóng bỏng về thắng lợi giòn giã, về việc đoán ra được bí mật của kẻ thù, về sự mãn nguyện vì thấy dự định của mình đã được thực hiện, việc đưa các quân đoàn xe tăng và cơ giới ra trận, được sự hỗ trợ của hỏa lực pháo binh ngay từ đầu cuộc tiến công, đã giáng một đòn bất ngờ, đẩy lùi quân Đức khỏi các khu vực bàn đạp, chiếm lấy các bến vượt sông, tiến sang bờ phía Nam và gìơ đây đang tiến công ở phía đó, bao vây bọc sườn quân Đức khiến chúng phải bỏ chạy về phía Nam, theo hướng bắn chỉ dẫn của những loạt đạn súng máy. Bao giờ ông cũng sợ sự may mắn dễ dãi trong chiến tranh, hạnh phúc mù quáng của thành đạt, sự chỏ che có tính chất định mệnh của số phận cũng như ông luôn phủ nhận chủ nghĩa tối đa hão huyền của một vài bạn đồng ngũ, phủ nhận những ước mơ dịu ngọt trong các hành lang của ban tham mưu về các trận đánh ở Ca-xi-an-kin-nơ trong mỗi một chiến dịch. Bét-xô-nốp xa lánh những ảo tưởng đầy sức cám dỗ đó bởi vì trong chiến tranh phải trả giá tất cả bằng máu, cho thất bại cũng như cho thành công, không có một cách thanh toán nào khác thay thế được. “Phải chờ đợi!-ông nghĩ,-Chờ đợi những tin tức tiếp theo từ các quân đoàn! Và chớ vội báo cáo tỉ mỉ về ban tham mưu phương diện quân…”. Sau suốt ngày đêm hôm qua sức ép tiến công của quân Đức đã đẩy toàn bộ trận địa phòng ngự của ta vào tình trạng ngàn cân treo sợi tóc, sau khi quân Đức đã đột phá được sang bờ phía Bắc, sau khi sư đoàn Đê-ép lâm vào tình trạng căng thẳng, bị chia cắt, chịu tổn thất, giờ đây khi Bét-xô-nốp đã trông thấy những chiếc xe ô-pen của bộ binh Đức bị cháy rụi trên đường trong thảo nguyên, khi ông trông thấy ở bờ phía Nam mới đây còn bị cắt đứt khỏi sư đoàn, những làn đạn bắn ra từ trong các trận địa pháo và những ngọn lửa nhọn hoắt như lưỡi dao của súng chống tăng bắn theo đám xe tăng địch đang bò về phía bờ khe thì ông bỗng thấy người nóng rừng rực, mồ hôi vã ra khắp sống lưng, nhưng ông vẫn cố kìm mình, lắng nghe với vẻ mặt điềm tĩnh những báo cáo mới qua máy phát vô tuyến, nắm những ngón tay ẩm trong găng tay lót lông ấn sâu chiếc gậy xuống đất. “Phải đợi, phải đợi thêm chút nữa”,-đồng thời ông có ngăn chặn cái ý muốn háo hức giục giã ông đi xuống hầm ngầm ngay để vui mừng, khoan khoái báo cáo với tư lệnh phương diện quân là người mà ông đã thông báo cho biết trước đây nửa giờ về việc bắt đầu cuộc phản công. Báo cáo rằng quân Đức đã rút khỏi bờ sông, các quân đoàn xe tăng và cơ giới của ta đang triển khai thắng lợi và họ đã nhận được lệnh phải chiếm lĩnh hoàn toàn khu vực bờ sông phía Nam ngôi làng, tiến quân về phía trước cắt đứt con đường chạy từ làng về phía Nam.Ở bờ sông phía Nam, các đám cháy bùng lên khắp nơi, những cụm lửa bay lả tả trên nóc các ngôi nhà, những vụ nổ, những đám khói cuồn cuộn bốc lên trên các đường làng nơi giờ đây đang diễn ra trận đấu xe tăng. Vẻ ngoài vẫn bình tĩnh, ông chờ đợi một lát nữa, lắng nghe báo cáo của các quân đoàn, giữa những tiếng truyền đạt mệnh lệnh hối hả và không khí náo nức chung của mọi người tại đài quan sát, giữa những giọng nói oang oang, đắc thắng, cùng chung tiếng cười vang hể hả. Thậm chí có chỗ mọi người công nhiên, khoan khoái hút thuốc lá, đây đó có tiếng rút tẩu thuốc loạt xoạt, khói thuốc mịt mù trong bóng tối hào giao thông, tựa hồ như mặt trận đã chuyển xa hàng chục cây số và mọi người hít thở cùng với khói thuốc lá hương vị của chiến thắng rốt cuộc đã đạt tới được. Trên đài quan sát, nghe và trông thấy cảnh tượng náo nức đó, Bét-xô-nốp vẫn miễn cưỡng cưỡng lại mình, nói khẽ và khô khan: -Tôi yêu cầu không hút thuốc tại đài quan sát. Mọi người hãy lo hoàn thành nhiệm vụ của mình. Cuộc chiến đấu chưa kết thúc. Còn lâu mới kết thúc. Nói rồi ông mới cảm thấy lời nhận xét càu nhàu đó của mình là lạnh lùng, vô nghĩa, không cần thiết. Ông chau mày, thầm nguyền rủa cái lối dè dặt lịch lãm, tỉnh khô theo kiểu ông già của mình, ông vội vã bước vào căn hầm ngầm thông tin, đi ngang qua các sĩ quan tham mưu đang giấu vội những mẩu thuốc lá vào ống tay áo. Mươi phút sau, sau khi đã báo cáo chi tiết với tư lệnh phương diện quân về cuộc tiến quân của các quân đoàn và sau khi đã nói chuyện với tham mưu trưởng iae, Bét-xô-nốp lại bước khỏi ánh đèn bình thản của căn hầm ngầm, ra hào giao thông lạnh lẽo, lộng gió, xám xịt và bỗng nhiên ông nhận thấy trong những giây phút đó trời đất thay đổi rõ rệt, đã chuyển sang một trang thái mới. Bị khói lửa trận đánh, tiếng gào rú của động cơ xe tăng và tiếng nổ đủ các loại đẹn làm nát vụn, bầu không khí sáng bệch, loãng ra, chuyển sang màu tím phơn phớt của ban mai, màu xanh lạnh lẽo trong suốt quanh điểm cao và bị cắt đứt bởi những đám lửa chói sáng từ những chiếc xe tăng đang bốc cháy ở bên kia sông, những đám lửa vui tươi và tinh nghịch dưới ánh sáng của một ngày đang tới. Ánh lửa lan rộng khiến khu làng phía Nam bờ sông trông như gần lại, giờ đây bằng mắt thường cũng có thể nhìn thấy xe tăng T.34 bò từ phía thảo nguyên vào rìa làng, chúng lúc lắc, làm bốc lên những cụm tuyết trắng xóa, đi sau chúng là những chiếc xe tải ZIX ngụy trang màu tuyết trắng chở các đơn vị bộ binh. Ở tít đằng xa, cách biệt toàn bộ cảnh tượng náo động đó một dải trời sáng nhẹ đã ánh lên lặng lẽ và êm dịu đến lạ lùng ở phương Đông, rọi ánh hồng trắng xuống vạt tuyết chạy dài đến chân trời và theo những quy luật vĩnh cửu, gợi nhớ tới những tình cảm khác của con người mà Bét-xô-nốp cũng như tất cả những người đứng trong hào giao thông trên đài quan sát lãng quên từ lâu. “Trời sáng rồi”. Bét-xô-nốp bước ra ngoài trước cơn gió đang quất rào rào trên đỉnh điểm cao và cảm thấy rõ ràng trời đã sáng, buổi sáng lạnh lẽo trong trẻo của tháng Chạp với bầu trời quang đãng, hứa hẹn một ngày rực nắng. Ông nghĩ tới cảnh xe tăng ta phơi mình trên thảo nguyên trần trụi, nghĩ tới không quân Đức và không quân ta, chắc chắn đó cũng là ý nghĩ của vị đại diện không quân đã tới đài quan sát này vào lúc nửa đêm. Đó là một đại tá có khuôn mặt hẹp, đeo chiếc túi to tướng, đi đôi ủng lót lông của không quân, vẻ xởi lởi dễ gần, miệng ngậm chặt chiếc tẩu thuốc và luôn luôn mỉm cười. Bắt gặp cái nhìn của Bét-xô-nốp như có ý hỏi: “Thế máy bay cường kích của ta đâu?”. Ông bèn trả lời ngay rằng rồi đâu sẽ vào đấy cả, nhờ trời không có sương mù, chỉ độ mười lăm phút nữa máy bay tiêm kích của ta sẽ bay ngang qua đài quan sát. Sau khi trả lời xong, ông nhấm nhấm chiếc tẩu, nở nụ cười đầy hứa hẹn. -Nếu thế thì hay quá,-Bét-xô-nốp nói, cố nén không đưa ra nhận xét rằng đối với không quân Đức, trời hôm nay cũng không có mây mù. -Đồng chí hãy nhìn xem kìa, đồng chí tư lệnh, quân ta làm ăn cừ chưa kìa, sôi động quá! Hình như có cả bếp nữa!-Bô-gi-scô nói với niềm vui ủ ê và đưa ống tay áo chỉ về phía cây cầu đã bị phá hủy một nửa ở phía bên trái điểm cao. -Cái gì?-Bét-xô-nốp hỏi, trong giây phút đó ông đang nghĩ tới không quân và lơ đãng nhấc ống nhòm lên, điều chỉnh cho rõ những chiếc ống nhòm cứ trơn truội đi vì sương giá. Ở phía trước điểm cao, trên bờ sông phía Nam, phía bên trái khu làng, trên khoảng không gian trước lòng khe hôm qua đã bị quân Đức cắt rời, vừa mới dậy vang lên mất loạt đạn pháo, đạn chống tăng và đạn ở ba khẩu súng máy, chiếc xe nhà bếp lúc lắc giữa những hố bom, phóng vọt qua cầu, bay dọc theo các đường hào giao thông, tỏa khói mù mịt giữa buổi sớm tinh sương còn tranh tối tranh sáng, ném lại sau lưng hàng vốc tàn lửa bay lả tả trên tuyết. Chiếc xe nhà bếp phóng như điên, len lách giữa các hố đạn trông như những bông hoa mào gà nở rộ trên điểm cao. Chắc là một vị chuẩn uý hậu cần táo tợn đã băng sang bờ bên kia, vội vã đuổi theo xe tăng ra hỏa tuyến. Trông thấy rõ từ các chiến hào bộ binh ở cánh trái có năm sáu người nhổm dậy, huơ súng vẫy gọi, nhưng chiếc xe nhà bếp phóng ngang qua họ, nảy tung lên giữa các hố bom đạn, lao vùn vụt về phía các trận địa pháo ở bên trái chiếc cầu. Và tới đó chiếc xe dừng lại như bị chôn chặt. Trong nháy mắt một người nhảy từ trên xe xuống, chạy lại chỗ khẩu pháo vừa bắn, tà áo choàng dài phất phới bay trước gió. -Đúng là vẫn cái trận địa pháo ấy. Cái trận địa pháo mà chúng ta đã tới thăm,-Bô-gi-scô quả quyết nói, tì khuỷu tay vào bờ công sự.-Đồng chí có nhớ anh em ở chỗ họ không, thưa đồng chí tư lệnh? Tiểu đoàn của họ… là một anh chàng trẻ con… hình như là trung úy Đrô-dơ-đốp thì phải? -Tôi không nhớ,-Bét-xô-nốp càu nhau.-Đrô-dơ-đốp à?... Anh hãy nhớ thật đúng xem nào, Bô-gi-scô. Bô-gi-scô gợi nhắc: -Nơi mà các đồng chí chờ đợi đội trinh sát quay trở về ấy mà. Anh em trinh sát đã bắt sống được tên Đức. Hai chiến sĩ pháo binh ở đó đã lôi cổ tên ấy về đây. Tiểu đoàn pháo 76 mi-li-mét. -Tiểu đoàn pháo à? Tôi nhớ ra rồi. Chỉ có điều không phải là Đrô-dơ-đốp… gần giống như thế nhưng là họ khác cơ… hình như là Đrô-dơ-đốp-xki. Đúng rồi Đrô-dơ-đốp-xki!... Bét-xô-nốp bỏ phắt ống nhòm xuống, ông nghĩ tới tiểu đoàn pháo 76 mi-li-mét này đã cầm cự ngay từ đầu cuộc chiến đấu, người chỉ huy tiểu đoàn đã khiến ông ngạc nhiên vào buổi sáng hôm qua, đó là một anh chàng bé con mắt xanh, được rèn luyện theo đúng kiểu trường pháo binh, ăn vận tươm tất như đi duyệt binh, anh ta sẵn sàng chết không nghĩ ngợi gì, anh ta mang họ của một vị tướng nổi tiếng, ngay trong khoảnh khắc anh ta đã hình dung ngay anh em trong đơn vị mình sẽ phải chịu đựng những gì trên hướng tiến công chủ yếu của xe tăng địch. Rồi ông thong thả một cách cố ý dùng khăn mùi soa lau khuôn mặt bị những mảnh tuyết xói nhoi ngói, cảm thấy xúc động, sau cùng ông cố gắng thốt ra: -Tôi muốn đi tới các trận địa pháo đó ngay bây giờ, Bô-gi-scô ạ, ngay bây giờ… Tôi muốn nhìn xem còn gì ở đó… Anh hãy đem theo phần thưởng cho tất cả những anh em ở đó. Tất cả mọi người ở đó,-ông lặp lại.-Và anh hãy truyền đạt cho Đê-ép biết để anh ấy đi theo tôi. Bô-gi-scô có phần ngạc nhiên nhìn bàn tay nhỏ nhắn của Bét-xô-nốp vò nát, siết chặt, vo viên chiếc khăn mùi soa, không nhét nó vào túi áo choàng ngắn, anh gật đầu, chạy đi tìm đại tá Đê-ép. Bét-xô-nốp cho rằng ông không có quyền đắm mình theo những tình cảm cá nhân, nhìn tại chỗ những chi tiết nhỏ nhặt của trận đánh, ông muốn thấy bằng chính cặp mắt của mình những đau khổ, máu me, chết chóc, sự hy sinh trên mặt trận của những người đang hoàn thành mệnh lệnh của ông; ông tin chắc rằng những ấn tượng chủ quan, tức thời làm mềm yếu lòng người gây ra sự thương hại, hoài nghi ở trong ông là người phải chịu trách nhiệm đầy đủ, ở những quy mô khác, về số phận của chiến dịch. Nỗi đau khổ, lòng dũng cảm, sự hy sinh của một số người trong một chiến hào, trong một hào giao thông, trong một khẩu pháo có thể trở nên bi đát không thể chịu đựng được đến nỗi sau đó chừng như ông không còn đủ sức để kiên quyết phát ra những mệnh lệnh mới, điều khiển những con người, buọc họ phải thực hiện các mệnh lệnh và ý chí của ông. Ông đã tin chắc như vậy không phải mới từ hôm qua hay hôm nay mà từ cái năm bốn mốt rắc rối không sao quên được đó, khi tại mặt trận miền Tây chính bản thân ông giữa máu me, giữa những lời kêu gào của các nhân viên quân y, giữa tiếng rên la của anh em thương binh phải thúc mọi người từ các chiến hào xông lên đánh phá vây, nén chặt trong lòng mình niềm thông cảm với sự bất lực của họ trước những đợt bao vây lớn nhỏ của xe tăng địch trên tuyến biên giới, trước máy bay địch quần đảo trên đầu họ. Nhưng trong buổi sáng băng giá của cuộc phản công đó, ở cách Xta-lin-grát ba mươi lăm ki-lô-mét về phía Tây Nam, trước thắng lợi rõ ràng của tập đoàn quân mình, Bét-xô-nốp đã làm trái quy tắc đó của mình. … Khi họ đã băng qua mặt sông đóng băng và trèo lên bờ sông, toàn thân bị gió lạnh quất buốt thấu xương, rồi đi qua một đường hào giao thông không sâu lắm và bước vào một chiến hào đã bị phá hủy đến một nửa. Lúc ấy Bét-xô-nốp mới sực nhớ ra rằng trước mặt ông là những chiến hào đầu tiên của bộ binh, ông bước chậm lại, tim đập thình thịch tưởng đến đứt hơi. Ở đây, trên bờ sông phía Nam, nơi xe tăng địch tiến công liên tục trong nhiều giờ và chúng đã đi qua đi lại nhiều lần theo các hướng khác nhau, dùng xích sắt xới nát, cày lên, làm bật tung các chiến hào lúc đó đã bị các hố bom làm cho vẹo vọ. Bét-xô-nốp vẫn chưa nhìn rõ ngay được những khẩu súng máy bị cong queo trong ụ, những mảnh áo bông, những túm áo lót hải quân trộn lẫn với đất, những chiếc báng súng trường gãy vụn, những mảnh mặt nạ phòng dộc và cặp lồng, những thân người bị vùi dưới những đống vỏ đạn đen ngòm, hoặc bị vùi dưới tuyết. Tất cả những cái đó, những mảnh vũ khí và những mảnh thân người giờ đây dường như đã bị một lưỡi cày khổng lồ xới lên, vùi lấp dưới những hố bom đạn và vết xích xe tăng nặng nhiều tấn. Thận trọng len mình giữa các đống đất trong chiến hào, bước qua những mô tuyết tròn nhẵn ở dưới chân, Bét-xô-nốp bước đi cố gắng không đụng gậy vào những mô đất đó, ông đoán rằng ở dưới các mô đất này là xác của những người mới bị chết sáng nay. Và chẳng còn hy vọng tìm được người sống sót ở đây, với một niềm ân hận cay đắng, ông nghĩ rằng mình đã lầm khi đứng trên đài quan sát ông tưởng như đã nhận ra dấu hiệu yếu ớt của sự sống ở đây, trong các chiến hào này. “Không, ở đây chẳng còn ai cả, chẳng còn một người nào cả.-Bét-xô-nốp tự nhủ. Súng máy và súng chống tăng đã bắn ra từ các chiến hào kia, xế về mé trái các trận địa pháo. Đúng rồi, phải đi đến đó, đến đó ngay!...”. Nhưng lập tức từ khúc gấp chiến hào vang lên tiếng sắt thép. Và dường như cả tiếng người nói nữa. Tim Bét-xô-nốp đập thình thịch, căng thẳng, ông bước về phía có tiếng động. Thấy ông đến, từ ổ súng máy vươn lên hai bóng người kỳ quái, từ đầu tới chân đều lấm lem những tuyết. Khuôn mặt lạnh cóng của họ bị ép chặt trong lần mũ lót đã đóng băng cứng như thủy tinh và dưới lần mũ lót là đôi mắt sưng phồng vì băng giá và gió lạnh, chằm chằm nhìn Bét-xô-nốp và đều tỏ vẻ sững sờ như nhau. Có lẽ họ không ngờ lại gặp vị tướng với một đoàn sĩ quan tuỳ tùng ở đây, giữa cái chiến hào đã chết lặng này. Những chiếc khóa dây lưng hình vuông của lính thủy lóe lên mờ mờ. Trên tấm vải bạt bị cháy nham nhở và được trải ra đến sát bờ chiến hào là một đống băng đạn súng máy hình trong được thu nhặt từ khắp trận địa: bên cạnh khẩu súng máy là khẩu súng chống tăng đặt trên giá. Những chiếc vỏ đạn mới bắn vung vãi khắp nơi, trên bờ công sự, dưới lòng chiến hào. Có lẽ, anh xạ thủ súng máy và xạ thủ súng chống tăng còn lại ở đây đã nổ súng cùng một lúc từ hỏa điểm này, họ sát cánh bên nhau, vai kề vai trong cố gắng cuối cùng. Căn cứ vào những ổ khóa dây lưng hải quân của họ có thể đoán ra rằng đây là hai chiến sĩ hải quân ở Viễn Đông và họ đã trở thành bộ binh từ hai tháng trước đây, khi thành lập tập đoàn quân.-Họ đã giữ lại chiếc áo lót và chiếc dây lưng hải quân như một kỷ niệm. Cả hai người đều sững sờ đứng trước mặt Bét-xô-nốp, hầu như họ không tách khỏi nhau, mình khoác áo choàng dày cộm và nặng trĩu vì tuyết và sương giá; những chiếc bao tay cứng đơ của họ lóng ngóng chạm vào vành mũ. Họ thở hổn hển, không nói nên lời, y như thể họ không tin rằng trước mặt mình là vị tướng và các sĩ quan tuỳ tùng. Lúc ấy Đê-ép to như một ông hộ pháp đã phá bỏ điều lệnh đòi hỏi phải dè dặt khi có mặt tư lệnh, anh là người đầu tiên bước vào chỗ để súng máy của bộ binh, ôm chặt từng chiến sĩ một. Giọng nói cố làm ra cứng rắn của anh tuy vang lên cảm động nhưng vẫn bộc lộc sự mềm yếu: -Anh em đã giữ vững phải không? Anh em vẫn sống? Thưa đồng chí tư lệnh, đây là đại đội hai…-Và không nói hết câu, anh nhìn vào mắt vet với vẻ bàng hoàng và xúc động mãnh liệt. Tất cả những lời Bét-xô-nốp thấy cần phải nói lúc đó lướt qua trong đầu ông như những cái bóng, không sao diễn tả được và ông thấy những lời lẽ đó thật vô nghĩa, nhỏ nhặt, trống rỗng, không phù hợp với toàn bộ cảnh tượng bất tử mà ông nhìn thấy lúc này, vởi vậy ông chỉ chật vật thốt lên mấy tiếng: -Có còn ai sống sót nữa không? Có sĩ quan nào còn sống không?... -Không có ai cả… Không có ai cả, thưa đồng chí trung tướng. -Anh em thương binh đâu? -Thưa trung tướng, người ta đã chuyển khoảng hai chục thương binh sang bờ bên kia. Đại đội chúng tôi chỉ còn có… -Cám ơn các đồng chí!... Tôi xin cám ơn các đồng chí… Tôi muốn biết tên của các đồng chí!-Ông chỉ thoáng nghe thấy tên của họ, quay người về phía Bô-gi-scô, anh ta đang im lặng, ngắm nhìn hai con người hạnh phúc với vẻ thỏa mãn xen lẫn chút ghen tị và day dứt của một con người hiểu rõ ràng, các chiến sĩ thuộc đại đội cảnh giới chiến đấu này, sau trận chiến đấu ngày hôm qua mà còn sống sót thì thật là điều kỳ diệu biết chừng nào; bởi vậy khi Bét-xô-nốp cố nén xúc động nói giọng khàn khàn: “Anh hãy trao cho các đồng chí đó hai huân chương Cờ Đỏ. Đại tá Đê-ép, hôm nay đồng chí sẽ bổ sung danh sách những người được khen thưởng” thì Bô-gi-scô phấn khởi rút từ trong ba lô và đưa cho Bét-xô-nốp hai chiếc hộp nhỏ. Bét-xô-nốp tựa chiếc gậy vào vách hào, bước về phía hai chiến sĩ cứng đơ như hóa đá, không thốt nên lời, đặt tấm huân chương vào những bàn tay đeo găng không co duỗi được rồi ông quay người lại: ông chau mày cố giấu nỗi đau khổ ngọt ngào và cay đắng đang thắt lấy ngực ông, mặt ông nhăn lại, ông tập tễnh bước trên chiến hào, không ngoái nhìn trở lại. Ngọn gió thổi từ phương Bắc tới đưa âm thanh của cuộc chiến đấu ra khỏi ngôi làng đang bốc cháy ở bên phải, sau lòng khe, làm tung những bụi tuyết sắc nhọn trên bờ sông và khiến cho khóe mắt Bét-xô-nốp ứa lệ; ông rảo bước để ở phía sau người ta không trông rõ mặt ông. Ông không phải là người dễ xúc cảm và không biết khóc, nhưng ngọn gió đã giúp ông, đã khiến cho dòng lệ phấn khởi đau buồn và biết ơn tuôn trào vì những người còn sống ở đây, trong các chiến hào này; họ đã thực hiện mệnh lệnh của ông là chiến đấu trong bất kỳ tình huống nào, cho tới viên đạn cuối cùng, và họ đã không kịp sống thêm vài giờ nữa cho tới khi bắt đầu cuộc phản công. “Đó là tất cả những gì mình có thể làm được,-ông thầm nhắc lại.-Vậy mà mình có thể làm được gì cho họ ngoài lời cám ơn này?”. -Xe nhà bếp!... Anh em pháo binh, thưa đồng chí tư lệnh. Tiểu đoàn pháo. Chính tiểu đoàn pháo ấy đấy!...-Bô-gi-scô réo to khi đuổi kịp ông và anh chững người lại, ngạc nhiên. Chẳng hiểu sao anh lại nhô người lên phía trước để nhìn khuôn mặt đẫm nước mắt khó nhận ra được của Bét-xô-nốp mà anh chưa từng thấy bao giờ rồi lập tức anh quay gót, bước về phía bờ sông dốc đứng, nơi chiếc xe nhà bếp dã chiến đứng đơn độc, tỏa ra làn khói yếu ớt.