Mãi trưa ngày hôm sau, Xtas mới đi thăm ông Linđe được, vì còn phải ngủ bù cho một đêm thức trắng. Dọc đường em bắn hạ hai con chim pentácca vì nghĩ rằng hẳn người ốm đang cần thịt tươi, và quả thật món quà này được nhậ n với lòng biết ơn.Ông Linđe yế u lắm rồi nhưng hoàn toàn tỉnh táo. Ngay sau khi chào hỏi, ông hỏi ngay về Nen, rồi ông dặn Xtas chớ nên xem kí ninh là phương thuốc đủ hiệu nghiệm để chống lại bệnh sốt rét, mà cần phải tránh cho Nen khỏi bị nắng, bị ướt, ban đêm không được ở những chỗ ẩm thấp và không được dùng nước độc. Sau đó Xtas thuật lại cho ông nghe - theo yêu cầu của ông - toàn bộ câu chuyện của em và Nen, từ đầu cho tới khi đến được Kháctum, cuộc tiếp kiến Mahơđi, rồi sau đó, từ Phasôđa tới lúc tự giải thoát khỏi tay Ghebơrơ cùng chuyến đi tiếp tục. Trong khi em kể, người đàn ông Thuỵ Sĩ nhìn em với sự thích thú ngày càng tăng, với sự ngạc nhiên, và khi câu chuyện kết thúc, ông đốt một tẩu thuốc lá, nhìn Xtas một lần nữa từ đầu tới chân rồi nói với vẻ trầm ngâm:- Nếu như đất nước của cháu có nhiều thiếu niên như cháu thì chắc hẳn ngoại bang khó lòng khuất phục nổi.Rồi sau một giây im lặng, ông nói tiếp:- Bằng chứng tốt nhất chứng tỏ những lời cháu nói là thật, là sự kiện cháu đang đứng trước mặt ta. Cháu biết ta muốn nói gì với cháu không? Hoàn cảnh của các cháu quả là kinh khủng, đường đi về ngả nào cũng ghê gớm ngang nhau, nhưng ai biết đâu đấy, một cậu bé như cháu có thể cứu mình cùng đứa trẻ ấy thoát khỏi cái vực thẳm này cũng nên...- Chỉ cần em Nen khỏe thôi, cháu sẽ làm tất cả những gì cháu có thể làm được, - Xtas thốt lên.- Nhưng cũng phải biết giữ sức cháu ạ, vì nhiệm vụ đang ở trước mặt cháu thật quá sức ngay cả đối với người lớn nữa kia.Cháu có biết hiện nay cháu đang ở chỗ nào không đã?- Không ạ. Cháu chỉ nhớ rằng, sau khi rời Phasôđa, chúng cháu đi ngang qua một làng lớn, gọilà làng Đeng, rồi một con sông nhỏ nào đó.- Sông Xốpbat, - ông Linđe ngắt lời.- Ở Đeng có rất nhiều quân phiế n loạn và người da đen.Nhưng sau sông Xốpbat, chúng cháu đi vào vùng rừng, và đi suốt cả tuần cho đến khi gặp cái khe núi trong đó hẳn bác đã biết xảy ra chuyện gì...- Ta biết rồi. Rồi sau đó, các cháu đi theo cái khe nú i đó đến khi gặp con sông. Cháu hãy nghe ta nói đây: thế có nghĩa là, sau khi vượt qua sông Xốpbat, cùng với bọn Xuđan, các cháu đã quành về phíaĐông Nam, nhưng thiên nhiều về phía Nam hơn. Hiện nay các cháu đang ở trong vù ng mà các nhà thám hiểm cũng như các nhà địa lí hoàn toàn chưa biết tới. Con sông ở cạnh chúng ta đây chảy lên phía Tây Bắc và hình như sẽ đổ vào sông Nin. Ta nói hình như vì bản thân ta cũng không biết thật rõ, mà ta cũng không còn có thể tìm hiểu để khẳng định điều đó nữa, mặc dù chính ta rời khỏi dãy núi Caramôiô là để nghiên cứu ngọn nguồn con sông này. Sau trận đánh vừa rồi, ta được nghe bọn tù binh phiến loạn nói rằng sông này gọi tên là sông Ogêlôguen, nhưng chính bọn chúng cũng không biết chắc lắm, vì thự c ra chúng nhảy vào vùng này chỉ để săn bắt nô lệ mà thôi. Nói chung, trước đây bộ lạc Sinlúc chiếm cứ vùng đất thưa dân cư này, nhưng hiện nay ở đây hoàn toàn là vùng không người, vì một phần dân cư bị chết bởi dịch đậu mùa, một phần bị bọn quân Mahơđi quét sạch, còn mộtphần chạy trốn vào dãy núi Caramôiô. Ở châu Phi, nhiều khi một vùng đất hôm nay còn đang dầy đặc cư dân, ngày mai đã trở thành vùng đất trắng, không một bóng người. Theo nhữ ng tính toán của ta, các cháu đang ở cách Lađô chừng ba trăm kilômét.Các cháu có thể chạy trốn về phía Namđến với ông Êmin, nhưng chính ông Êmin cũng đang bị quân phiến loạn vây hãm, nên chuyện này chẳng nên bàn tới làm gì...- Thế còn tới Abixinia thì sao ạ? - Xtas hỏi.- Cũ ng vào khoảng ba trăm cây số. Tuy vậy cũng cần nhớ rằng, Mahơđi đánh nhau với toàn thế giới, nghĩa là đánh nhau cả với Abixinia nữa. Ta biết được qua bọn tù binh, rằng biên giới phía Tây và phía Nam hiện đang có những bộ tộc lớn nhỏ của quân phiến loạn tuần phòng có nghĩa là các cháu dễ dàng bị lọt vào tay chúng. Abixinia là quốc gia theo đạo Thiên Chúa, nhưng ở vùng phía Nam lại là những bộ lạc dã man, hoặc là ngoại đạo hoặc theo đạo Ixlam - và cũng vì vậy họ ngấm ngầm ủ ng hộ Mahơđi...Không, đường đó các cháu không qua được đâu!- Thế thì cháu biết làm gì, biết đi đâu với Nenbây giờ? - Xtas hỏi.- Ta đã nói rằng tình thế thật gay go mà, - ông Linđe đáp.Nói thế xong, ông đặt hai tay lên đầu và nằm im lặng một hồi lâu.- Từ đây tới biển, - ông nói, - cách chừng chín trăm kilômét, qua núi, qua những vùng thổ dân hoang dã, thậm chí vượt qua cả sa mạc nữa, vì hình như ở đấy có những vùng rộng lớn hoàn toàn không có nước. Nhưng vùng đất này về danh nghĩa đang thuộc về Anh quố c. Rất có thể sẽ gặp những đoàn vận tải ngà voi đi Kixmai, đi Lamu hay đi Monbaxa, cũng có thể sẽ gặp một đoàn truyền giáo chẳng hạn... Biết rằng do có bọn phiến loạn nên không thể nào nghiên cứu hết con sông này, vì nó quành ra sông Nin, chính ta cũng đã muốn đi vềphía Đông, về phía đại dương...- Thế thì chúng ta hãy cùng nhau trở về đi bác!- Xtas kêu lên.- Ta không về được nữa rồi. Con lợn nơriđi làm nát cả thịt lẫn gân chân ta, chắc ta bị nhiễm trùng máu. Chỉ một nhà phẫu thuật mới có thể cứu được ta bây giờ bằng cách cắt bỏ cái chân đi.Bây giờ thì nó đã cứng lại và tê bại đi rồi, chứ hôm đầu thì đau ghê gớm...- Chắc chắn là bác sẽ khỏe lại thôi mà.- Không đâu, cậu bé can trường của ta, chắc chắn là ta sẽ chết, còn cháu, cháu sẽ lấy đá đắp mồ ta thật kín để lũ linh cẩu khỏi moi xác ta ra. Người chết thì thế nào cũng xong, nhưng lúc đang còn sống mà nghĩ về chuyện đó thì chẳng dễ chịu chút nào...Thật nặng nề khi phải chết xa những người thân thuộc...Nói tới đây, mắt ông mờ đi như bị một làn sương bao phủ, rồi ông nói tiếp: - Nhưng ta đã thanh toán với ý nghĩ đó rồi, nên tốt nhất chúng ta đừng nói về ta nữa mà về các cháu thì hơn. Ta khuyên cháu một điều: chỉ còn lại một con đường sang phía Đông, đến đại dương. Nhưng các cháu hãy nghỉ ngơi cho khỏe trước khi lên đường, lấy thêm sức lực. Nếu không cô bạn đường nhỏ bé của cháu sẽ chết trong vòng vài tuần mất. Hãy lùi chuyến đi lại tới cuối mùa mưa hay hơn nữa. Những tháng hè đầu tiên, khi mưa ngừng rơi, và nước hãy còn bao phủ các đầm lầy là những tháng lành nhấ t. Nơi chúng ta đang ở đã là vùng cao nguyên, nằm bên trên mựcnước biển chừng bảy trăm mét. Ở độ cao một nghìn ba trăm mét thì hoàn toàn không còn bệnh sốt rét nữa, còn những người bị bệnh này được mang từ vùng thấp lên thì cơn bệnh cũng dịu đi nhiều. Cháu hãy mang cô bạn người Anh lên núi...Rõ ràng việc nói chuyện làm ông rất mệt, nên ông dừng lời, và suốt một hồi lâu ông kiên nhẫn đuổi đám nhặng xanh giống hệt như lũ nhặng mà Xtas đã trông thấy trên những vùng đầy tro xám của Phasôđa.Sau đó, ông nói tiếp:- Cháu hãy chú ý thật kĩ những điều ta nói đây. Cách đây một ngày đường về phía Nam có một ngọn núi riêng lẻ nhô cao lên, nhưng không cao quá tám trăm mét. Trông nó như một cái xoong lật ngược vậy. Sườn núi rất dốc, chỉ có một gờ đá lên được, hẹ p tới nỗi nhiều chỗ chỉ đủ cho hai con ngựa đi kề nhau mà thôi. Trên đỉnh núi bằng phẳng rộng chừng một kilômét hay hơn, vốn có một cái làng dân da đen, nhưng bọn Mabơđi đã giết và bắt sạch dân làng đi rồi. Cũng có thể chính tên Xmainơ bị ta đánh tan đã làm chuyện đó, nhưng ta không lấy lại được số nô lệ của hắn, vì trước đó hắn đã gửi họ đi theo một đoàn lính hộ tống tới vùng sông Nin mất rồi. Các cháu hãyở lại đỉnh núi ấy. Ở đó có một suối nước rất lành; mấy cánh đồng sắn và nhiều chuối lắm. Trong các lều các cháu sẽ tìm thấy nhiều xương người, nhưng đừng sợ bệnh dịch gì lây từ những hà i cốt ấy, vì sau khi bọn phiến loạn đi rồi thì ở đó chỉ còn lũ kiến, chính lũ kiến này đã khiế n đoàn của ta phải rời đó mà đi. Ngoài ra không còn ma nào nữa. Các cháuhãy ở lại làng ấy một hay hai tháng. Ở độ cao ấy không còn sốt rét nữa đâu. Ban đêm thường lạnh. Ở đó cô bạn nhỏ của cháu sẽ lấy được sức khỏe, còn cháu thì cũng sẽ khỏe thêm lên.- Nhưng sau đó thì làm gì và đi đâu nữa ạ?- Sau đó thì tuỳ ý Chúa. Các cháu hãy cố sức vượt sang Abixinia tới những vùng xa hơn, nơi quânphiến loạn chưa đến được, hoặc đi về phía Đông. Tanghe nói rằng người Ả Rập từ vùng bờ biển lần tới được một cái hồ nào đấy để tìm ngà voi, họ thường mua ngà voi của các bộ tộc Xamburu và Vahima.- Vahima à? Cali là người Vahima đấy.Và Xtas bắt đầu kể cho ông Linđe nghe nó đã được thừa hưởng Cali sau cái chết của gã Ghebơrơ ra sao, rằng Cali đã nói cho em biết rằng nó là con trai của vị đầu lĩnh của toàn thể những người Vahima. Song ông Linđe đón nhận cái tin này hờ hững hơn nhiều so Xtas nghĩ.- Thế càng hay, - ông nói, - vì thằng bé có thể giúp ích được cho chá u. Trong số dân da đen cũng có những tâm hồn trung thực, mặc dù nói chung không nên chờ đợi ở lòng biết ơn của bọn họ, đó là những đứa trẻ con dễ dàng quên đi những gì diễn ra ngày hôm qua.- Nhưng Cali sẽ không quên là cháu đã cứu nó thoát nó khỏi tay Ghebơrơ, cháu tin chắc điều đó.- Có thể, - ông Linđe đáp và trỏ tay sang Nasibuông nói thêm, - đây cũng là một đứa trẻ tốt bụng. Sau khi ta chết, cháu hãy cưu mang nó.- Xin bác đừng nói và cũng đừng nghĩ tới cái chết nữa.- Anh bạn thân mến của ta ơi, - người Thuỵ Sĩ đáp. - Ta đang mong nó tới đây, cốt sao đừng đau đớn quá là được. Hãy nghĩ xem, bây giờ đây ta không chút sức tự vệ, và giá như có một trong những tên Mahơđi nào đó đã bị đánh tan, trong khi lang thang tình cờ tới cái khe núi này, thì một mình hắn cũng có thể thịt ta như thịt một con cừu non vậy.Nói tới đây ông trỏ sang những người da đen đang ngủ:- Những kẻ kia không bao giờ tỉnh dậy nữa, mà ta nói không đúng lắm - mỗi người chỉ tỉnh dậy một lúc ngay trước khi chết, chạy quá ng quàng vào rừng, rồi không quay lại nữa... Từ hai trăm người chỉ còn lại có sáu mươi. Nhiều kẻ bỏ trốn, nhiều kẻ bị chế t vì bệnh đậu mùa, một số thiếp đi mãi mãi trong những khe núi khác.Xtas thương cảm và kinh hoàng nhìn kĩ những người đang ngủ. Da họ có màu tro xám, mà đối với người da đen có nghĩa là xanh xao. Một số người mắt nhắm nghiền, kẻ khác mắt mở he hé, nhưng ngay cả những kẻ này cũng ngủ say, vì đồng tử của họ không hề có phản ứng gì đối với ánh sáng. Một số người đầu gối sưng phù. Tất cả đều gầy guộc một cách kinh khủng, đến nỗi qua làn da có thể đếm trọn số xương sườn của họ. Tay chân họ co giật liên tục và rất nhanh. Những con nhặng xanh bâu dầy đặc lên mắt lên môi họ.- Không có cách nào cứu họ nữa ư? - Xtas hỏi.- Không có! Ở vùng hồ Vichtoria Nianda bệnh này quét sạch cả làng. Đôi khi nó lan tràn ghê gớm, đôi khi ít hơn. Người ở những vùng bờ sông nhiều lau lách dễ bị bệnh này.Mặt trời đã ngả về Tây, nhưng trước khi chiều tới, ông Linđe còn kể cho Xtas nghe câu chuyện đờiông. Ông là con một thương gia ở Duyrích. Bố mẹ ông xuất thân từ vùng Cáclơxruhơ, nhưng từ năm 1848 sang sinh sống ở Thụỵ Sĩ. Cha ông phát tài vì buôn tơ lụa. Cha ông đào tạo ông thành một kĩ sư, nhưng chàng thanh niên Henrich ngay từ thuở thiếu thời đã say mê du lịch. Sau khi tốt nghiệp trường bách nghệ và được thừa hưởng toàn bộ gia sản của cha, ông lên đường làm chuyến thám hiểm đầu tiên đi Ai Cập.Đó là từ trước thời kì Mahơđi, nên ông đến được tận Kháctum và đi săn cùng với dân Dangan ở Xuđan. Sau đó, ông dành thì giờ nghiên cứu địa lí châu Phi và trở thành một người rất thông thạo lĩnh vực này, đến nỗi nhiều hội địa lí công nhận ông làm thành viên danh dự của mình.Ông bắt đầu cuộc thám hiểm cuối cùng - cuộc thám hiểm kết thúc thê thảm như thế đối với ông - từ Dandiba, ông đến được vùng Hồ Lớn và định đi dọc theo dãy nú i chưa được nghiên cứu tới là dãy Caramôiô đến tận Abixinia, rồi từ đó, đến bờ đại dương. May thay - hoặc không may thay - là lúc đóđang có chiến tranh giữa Uganđa và Uniôrô. Ông Linđe đã lập được nhiều công trạng đối với nhà vua Uganđa, để thưởng công, nhà vua bèn cho ông hơnhai trăm phu khuân vác đồ đạc. Điều đó khiến cho chuyến đi và việc thám hiểm núi Caramôiô trở nên nhẹ nhàng, nhưng rồi bệnh đậu mùa bắt đầu xuất hiện trong đoàn người, tiếp đó lại đến cái bệnh ngủ khủng khiếp này - và thế là cả đoàn bị tan vỡ.Ông Linđe còn có rất nhiều thức ăn dự trữ bằng đồ hộp, nhưng vì lo ngại bệnh scôbút(1) ngày nào ông cũng đi săn để kiếm thịt tươi. Ông là một tay súng thiện xạ nhưng lại là một nhà đi săn không mấy thận trọng. Và thế là xảy ra tai họa, khi mấy ngày trước đây, ông nhẹ dạ đến quá gần một con lợn lòi nơriđi bị thương, con vật chồm dậy và cắn nát chân ông, rồi sau đó lại xéo lên lưng. Chuyện đó xảy ra ngay gần trại ngay trước mắt thằng bé Nasibu, thằng bé xé toạc cái áo của nó làm băng cầm máu cho ông và đưa ông vào lều. Nhưng trong cái chân bị thương có thể có chứng xuất huyế t nội và người bị thương bị bệnh hoại huyết đe dọa.Xtas nhất thiết muốn được băng bó cho ông và em nói rằng hằng ngày em sẽ đến với ông, hoặc để khỏi phải để Nen lại một mình dưới sự chăm sóc của hai người bạn da đen - sẽ mang ông trên tấm chăn căng giữa hai con ngựa về mũi đất, về “Cracốp”.Ông Linđe đồng ý để em thay băng giúp, nhưng không đồng ý di chuyển.- Ta biết - ông nói và chỉ những người da đen của mình, - rằng những người này nhất định sẽ chết, nhưng khi nào họ còn chưa chết, ta không đành lòng để họ bị lũ linh cẩu xé xác lú c đang sống, bọn này hiện đang bị lửa giữ cho phải ở xa xa về ban đêm.Rồi ông nóng nảy lặp đi lặp lại:- Ta không thể, không thể, không thể!Nhưng lát sau ông bình tĩnh lại và nói bằng giọng vô cùng xúc động:- Sáng mai, cháu hãy đến đây... Bác có một yêu cầu đối với cháu. Nếu như cháu hoàn thành được cho bác thì biết đâu Chúa sẽ đưa các cháu thoát khỏi cái vực thẳm Phi châu này, còn bác thì sẽ được chết thanh thản hơn. Bác muốn để đến mai hãy nói điều này, nhưng vì có thể sáng mai bác không tỉnh, nên bác nói hôm nay:hãy múc nước vào một cái bình nào đấy, rồi cháu hãy dừng lại bên từng người đáng thương đang ngủ kia, vẩy nước và nói những lời này: “Ta rửa tội cho người, nhân danh Cha, vàCon, và Đức Chúa Thánh thần!...” Nói đến đây, sự xúc động khiến ông nghẹn ngào, ông ngừng lời.- Bác cứ tự trách mình, - một lát sau ông nói tiếp, - rằng đã không vĩnh biệt được như thế với những kẻ đã thiếp đi vĩnh viễn trước đây. Nhưng giờ đây cái chết đang ở trước mặt bác... Bác muốn rằng... ít nhất thì những người còn lại trong đoàn của bác sẽ được cùng đi vào chuyến đi vĩnh hằng cuối cùng kia...Và ông chỉ tay lên bầu trời rực nắ ng - hai giọt lệ to lớn chầm chậm lăn trên gò má ông. Xtas òa lên khóc nức nở.-----------------1 Bệnh hoại thư do thiếu vitamin.