1. Lúc bấy giờ, ngài Văn Thù Sư Lợi đại Bồ tát bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Các vị Bồ tát nầy rất là ít có, vì kính thuận Phật nên phát thệ nguyện lớn: Ở nơi đời ác sau, hộ trì đọc nói kinh Pháp Hoa này. Thế Tôn! Các vị đại Bồ tát ở đời ác sau, thế nào mà có thể nói kinh này?" Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi: "Nếu vị Bồ tát ở đời ác sau muốn nói kinh này, phải an trụ trong bốn pháp: 2. Một, an trụ nơi "hành xứ" và nơi "thân cận xứ" của Bồ tát, thì có thể vì chúng sanh mà diễn nói kinh nầy. Văn Thù Sư Lợi! Thế nào gọi là chỗ "hành xứ" của đại Bồ tát? Nếu vị đại Bồ tát an trụ trong nhẫn nhục hòa dịu khéo thuận mà không vụt chạc, lòng cũng chẳng kinh sợ, lại ở nơi pháp không phân biệt mà quán tướng như thật của các pháp, cũng chẳng vịn theo, chẳng phân biệt, đó gọi là chỗ "hành xứ" của Bồ tát. Thế nào gọi là chỗ "thân cận xứ" của đại Bồ tát? Vị đại Bồ tát chẳng gần gũi Quốc vương, vương tử, đại thần, quan trưởng, chẳng gần gũi ngoại đạo Phạm chí, Ni kiền tử, v.v... và chẳng gần những kẻ viết sách thế tục ca ngâm; sách ngoại đạo cùng với phái "Lộ già da đà" phái "Nghịch lộ già da đà", cũng chẳng gần gũi những kẻ chơi hung hiểm đâm nhau, đánh nhau, và bọn na la v.v... bày các cuộc chơi biến hiện. Lại chẳng gần gũi bọn hàng thịt và kẻ nuôi heo, dê, gà, chó, săn bắn chài lưới, hạng người sống với nghề ác, những người như thế hoặc có lúc lại đến thời Bồ tát vì nói pháp không có lòng mong cầu. Lại chẳng gần gũi những Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, hạng người cầu quả Thanh văn, hoặc ở trong phòng, hoặc chỗ kinh hành, hoặc ở trong giảng đường chẳng cùng ở chung, hoặc có lúc những người đó lại đến, Bồ tát theo cơ nghi nói pháp không lòng mong cầu. Văn Thù Sư Lợi! Lại vị đại Bồ tát chẳng nên ở nơi thân người nữ cho là tướng có thể sanh tư tưởng dục nhiễm mà vì nói pháp, cũng chẳng ưa thấy. Nếu vào nhà người chẳng cùng với gái nhỏ, gái trinh, gái góa, v.v... chung nói chuyện, cũng lại chẳng gần năm giống người bất nam để làm thân hậu. Chẳng riêng mình vào nhà người, nếu lúc có nhân duyên cần riêng mình vào thì chuyên một lòng niệm Phật. Nếu vì người nữ nói pháp thì chẳng hở răng cười, chẳng bày hông, ngực, nhẫn đến vì pháp mà còn chẳng thân hậu, huống lại là việc khác. Chẳng ưa nuôi đệ tử Sa di ít tuổi và các trẻ nhỏ, cũng chẳng ưa cùng chúng nó đồng một thầy. Thường ưa ngồi thiền ở chỗ vắng tu nhiếp tâm mình. Văn Thù Sư Lợi! Đó gọi là "chỗ thân cận" ban đầu. 3. Lại nữa, vị đại Bồ tát quán sát "nhất thiết pháp không như thật tướng" chẳng điên đảo, chẳng động, chẳng thối, chẳng chuyển, như hư không, không có thật tánh, tất cả lời nói phô dứt, chẳng sanh, chẳng xuất, chẳng khởi, không danh, không tướng, thực không chỗ có, không lường, không ngằn, không ngại, không chướng, chỉ do nhân duyên mà có, từ điên đảo mà sanh cho nên nói, thường ưa quán sát pháp tướng như thế đó gọi là "chỗ thân cận" thứ hai của vị đại Bồ tát." Lúc đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 4. Nếu có vị Bồ tát Ở trong đời ác sau Lòng không hề sợ sệt Muốn nói kinh pháp này Nên trụ vào "hành xứ" Và trụ "thân cận xứ". Thường xa rời Quốc vương Và con của quốc vương Quan đại thần, quan lớn Kẻ chơi việc hung hiểm Cùng bọn chiên đà la Hàng ngoại đạo Phạm chí Cùng chẳng ưa gần gũi Hạng người tăng thượng mạn Hàng học giả tham chấp Kinh, luật, luận tiểu thừa Những Tỳ kheo phá giới Danh tự A la hán Và những Tỳ kheo ni Ưa thích chơi giỡn cười Các vị Ưu bà di Tham mê năm món dục Cầu hiện tại diệt độ Đều chớ có gần gũi. Nếu những hạng người đó Dùng tâm tốt mà đến Tại chỗ của Bồ tát Để vì nghe Phật đạo. Bồ tát thời nên dùng Lòng không chút sợ sệt Chẳng có niệm mong cầu Mà vì chúng nói pháp. Những gái góa, gái trinh Và các kẻ bất nam Đều chớ có gần gũi Để cùng làm thân hậu. Cũng chớ nên gần gũi Kẻ đồ tể cắt thái Săn bắn và chài lưới Vì lợi mà giết hại Bán thịt để tự sống Buôn bán sắc gái đẹp Những người như thế đó Đều chớ có gần gũi. Các cuộc chơi giỡn dữ Hung hiểm đâm đánh nhau Và những dâm nữ thảy Trọn chớ có gần gũi. Chớ nên riêng chỗ khuất Vì người nữ nói pháp Nếu lúc vì nói pháp Chẳng được chơi giỡn cười Khi vào xóm khất thực Phải dắt một Tỳ kheo Nếu không có Tỳ kheo Phải một lòng niệm Phật Đây thời gọi tên là "Hành xứ", "thân cận xứ". Dùng hai xứ trên đây Có thể an lạc nói. Lại cũng chẳng vịn theo Pháp thượng, trung và hạ Hữu vi hay vô vi Thực cùng pháp chẳng thực Cũng chẳng có phân biệt Là nam là nữ thảy Lại chẳng được các pháp Chẳng biết cũng chẳng thấy Đây thời gọi tên là "Hành xứ" của Bồ tát. Tất cả các món pháp Đều không, chẳng chỗ có Không có chút thường trụ Vẫn cũng không khởi diệt Đây gọi là "thân cận" Chỗ người trí hằng nương. Chớ đảo điên phân biệt Các pháp có hoặc không Là thực, chẳng phải thực Là sanh chẳng phải sanh Ở an nơi vắng vẻ Sửa trau nhiếp tâm mình An trụ chẳng lay động Như thể núi Tu di Quán sát tất cả pháp Thảy đều không thực có Dường như khoảng hư không Không có chút bền chắc. Chẳng sanh cũng chẳng xuất Chẳng động cũng chẳng thối Thường trụ một tướng thể Đó gọi là "cận xứ". Nếu có vị Tỳ kheo Sau khi ta diệt độ Vào được "hành xứ" này Và "thân cận xứ" đó Thời lúc nói kinh này Không có lòng e sợ. Vị Bồ tát có lúc Vào nơi nhà tịnh thất Lòng nghĩ nhớ chơn chánh Theo đúng nghĩa quán pháp. Từ trong thiền định dậy Vì các bậc Quốc vương Vương tử và quan, dân Hàng Bà la môn thảy Mà khai hóa diễn bày Rộng nói kinh điển này Tâm vị đó an ổn Không có chút khiếp nhược. Văn Thù Sư Lợi này! Đó gọi là Bồ tát An trụ trong sơ pháp Có thể ở đời sau Diễn nói kinh Pháp Hoa. 5. Văn Thù Sư Lợi! Sau khi đức Như Lai diệt độ, ở trong đời mạt pháp muốn nói kinh này, phải trụ nơi hạnh an lạc, hoặc miệng tuyên nói hoặc lúc đọc kinh đều chẳng ưa nói lỗi của người và của kinh điển; chẳng khinh mạn các Pháp sư khác, chẳng nói việc hay dở, tốt xấu của người khác. Ở nơi hàng Thanh văn cũng chẳng kêu tên nói lỗi quấy của người đó, cũng chẳng kêu tên khen ngợi điều tốt của người đó. Lại cũng chẳng sanh lòng oán hiềm vì khéo tu lòng an lạc như thế, nên những người nghe pháp không trái ý. Có chỗ gạn hỏi, chẳng dùng pháp tiểu thừa đáp, chỉ dùng pháp Đại thừa mà vì đó giải nói làm cho được bậc Nhất thiết chủng trí." Khi ấy, Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 6. Vị Bồ tát thường ưa An ổn nói kinh pháp Ở nơi chỗ thanh tịnh Mà sắp đặt sàng toà Dùng hương dầu xoa thân Tắm gội các bụi dơ Mặc y mới sạch sẽ Trong ngoài đều sạch thơm Ngồi an nơi pháp tòa Theo chỗ hỏi vì nói. Nếu có vị Tỳ kheo Cùng với Tỳ kheo ni Các hàng Ưu bà tắc Và hàng Ưu bà di Quốc vương và vương tử, Các quan cùng sĩ dân Dùng pháp nghĩa nhiệm mầu Vui vẻ vì họ nói Nếu có người gạn hỏi Theo đúng nghĩa mà đáp Nhân duyên hoặc thí dụ Giải bày phân biệt nói Dùng trí phương tiện này Đều khiến kia phá tâm Lần lần thêm đông nhiều Vào ở trong Phật đạo. Trừ lòng lười biếng trễ Cùng với tưởng giải đãi Xa rời các ưu não Tâm từ lành nói pháp Ngày đêm thường tuyên nói Giáo pháp vô thượng đạo Dùng các việc nhân duyên Vô lượng món thí dụ Mở bày dạy chúng sanh Đều khiến chúng vui mừng Y phục cùng đồ nằm Đồ ăn uống thuốc thang Mà ở nơi trong đó Không có chỗ mong cầu Chỉ chuyên một lòng nhớ Nhân duyên nói kinh pháp Nguyện ta thành Phật đạo Khiến mọi người cũng vậy Đó là lợi lành lớn Là an vui cúng dường. Sau khi ta diệt độ Nếu có vị Tỳ kheo Có thể diễn nói được Kinh Diệu Pháp Hoa này Lòng không chút ghen hờn Không các não chướng ngại Cũng lại không ưu sầu Và cùng mắng nhiếc thảy Lại cũng không sợ sệt Không dao gậy đánh đập Cũng không xua đuổi ra Vì an trụ nhẫn vậy. Người trí khéo tu tập Tâm mình được dường ấy Thời hay trụ an lạc Như ta nói ở trên Công đức của người đó Trong nghìn muôn ức kiếp Tính kể hay thí dụ Nói chẳng thể hết được. 7. Lại Văn Thù Sư Lợi! Vị đại Bồ tát ở đời rốt sau lúc pháp gần diệt mà thọ trì đọc tụng kinh điển này, chớ ôm lòng ghen ghét dua dối, cũng chớ khinh mắng người học Phật đạo, vạch tìm chỗ hay dở của kia. Nếu hàng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, hoặc cầu Thanh văn, hoặc cầu Duyên giác, hoặc cầu Bồ tát đạo, đều không được làm não đó, khiến cho kia sanh lòng nghi hối mà nói với người đó rằng: "Các người cách đạo rất xa, trọn không thể được bậc Nhất thiết chủng trí." Vì sao? "Vì các người là kẻ buông lung, biếng trễ đối với đạo." Lại cũng chẳng nên hý luận các pháp có chỗ tranh cãi. Phải ở nơi tất cả chúng sanh, khởi tưởng đại bi, đối với các đức Như Lai sanh tưởng như cha lành, đối với các Bồ tát, tưởng là bậc Đại sư, với các đại Bồ tát ở mười phương phải thâm tâm lễ lạy, với tất cả chúng sanh đều bình đẳng nói pháp. Vì thuận theo pháp nên chẳng nói nhiều, chẳng nói ít, nhẫn đến người rất ưa pháp cũng chẳng vì nói nhiều. Văn Thù Sư Lợi! Vị đại Bồ tát ở đời rốt sau lúc pháp muốn diệt, nếu thành tựu được hạnh an lạc thứ ba đây, thì lúc nói pháp nầy không ai có thể não loạn, được bạn đồng học tốt chung cùng đọc tụng kinh này, cũng được đại chúng thường đến nghe thọ. Nghe rồi hay nhớ, nhớ rồi hay tụng, tụng rồi hay nói, nói rồi hay chép, hoặc bảo người chép, cúng dường kinh quyển cung kính tôn trọng ngợi khen." Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 8. Nếu muốn nói kinh này Phải bỏ lòng ghen hờn Ngạo dua dối tà nguỵ Thường tu hạnh chất trực Chẳng nên khinh miệt người Cũng chẳng hý luận pháp Chẳng khiến kia nghi hối Rằng ngươi chẳng thành Phật. Phật tử đó nói pháp Thường nhu hòa hay nhẫn Từ bi với tất cả Chúng sanh lòng biếng trễ Bồ tát lớn mười phương Thương chúng nên hành đạo Phải sanh lòng cung kính Đó là Đại sư ta, Với các Phật Thế Tôn Tưởng là cha vô thượng, Phá nơi lòng kiêu mạn Nói pháp không chướng ngại Pháp thứ ba như thế Người trí phải giữ gìn Một lòng an lạc hạnh Vô lượng chúng cung kính. 9. Lại Văn Thù Sư Lợi! Các vị đại Bồ tát ở đời rốt sau lúc pháp gần diệt có vị nào trì kinh Pháp Hoa này ở trong hàng người tại gia, xuất gia sanh lòng từ lớn, ở trong hạng người chẳng phải Bồ tát sanh lòng bi lớn, phải nghĩ thế này: Những người như thế thì là mất lợi lớn. Đức Như Lai phương tiện tuỳ nghi nói pháp chẳng nghe, chẳng biết, chẳng hay, chẳng hiểu, chẳng tin, chẳng hỏi. Người đó dầu chẳng hỏi, chẳng tin, chẳng hiểu kinh này, lúc ta được vô thượng chánh đẳng chánh giác, người đó tùy ở chỗ nào, ta dùng sức thần thông, sức trí huệ dẫn dắt đó khiến được trụ trong pháp này. Văn Thù Sư Lợi! Vị đại Bồ tát đó ở sau lúc Như Lai diệt độ, nếu thành tựu được pháp thứ tư này thời lúc nói pháp này không có lầm lỗi, thường được hàng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, Quốc vương, vương tử, đại thần, nhân dân Bà la môn, cư sĩ thảy cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen, hàng chư Thiên ở trên hư không vì nghe pháp cũng thường theo hầu. Nếu ở trong xóm làng thành ấp, rừng cây vắng vẻ, có người đến muốn gạn hỏi, hàng chư thiên ngày đêm thường vì pháp mà hộ vệ đó, có thể khiến người nghe đều được vui mừng. Vì sao? Vì kinh này được sức thần của tất cả đức Phật thuở quá khứ, vị lai, hiện tại giữ gìn vậy. Văn Thù Sư Lợi! Kinh Pháp Hoa nầy ở trong vô lượng cõi nước, nhẫn đến danh tự còn chẳng được nghe, hà huống là được thấy thọ trì, đọc tụng. Văn Thù Sư Lợi! Thí như vua Chuyển luân thánh vương sức lực mạnh mẽ muốn dùng uy thế hàng phục các nước, mà các vua nhỏ chẳng thuận mệnh lệnh, bấy giờ Chuyển luân thánh vương đem các đạo binh ra đánh dẹp, vua thấy binh chúng những người đánh giặc có công, liền rất vui mừng theo công mà thưởng ban. Hoặc ban cho ruộng, nhà, xóm, làng, thành, ấp, hoặc ban cho đồ y phục trang nghiêm nơi thân, hoặc cho các món trân bảo, vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, voi, ngựa, xe, cộ, tôi tớ, nhân dân, chỉ viên minh châu trong búi tóc chẳng đem cho đó. Vì sao? Vì riêng trên đỉnh vua có một viên châu này, nếu đem cho đó thời các quyến thuộc của vua ắt rất kinh lạ. Văn Thù Sư Lợi! Như Lai cũng như thế, dùng sức thiền định trí huệ được cõi nước pháp, giáo hóa trong ba cõi mà ma vương chẳng khứng thuận phục, các tướng hiền thánh của Như Lai cùng ma đánh nhau. Những người có công lòng cũng vui mừng, ở trong hàng chúng vì nói các kinh khiến tâm kia vui thích, ban cho các pháp thiền định, giải thoát, vô lậu căn lực. Và lại ban cho thành Niết bàn, bảo rằng được diệt độ để dẫn dắt lòng chúng làm cho đều được vui mừng, mà chẳng vì đó nói kinh Pháp Hoa này. Văn Thù Sư Lợi! Như vua Chuyển luân thấy các binh chúng những người có công lớn, đem viên minh châu khó tin từ lâu ở trong búi tóc chẳng vọng cho người, mà nay cho đó. Đức Như Lai cũng lại như thế, làm vị đại Pháp vương trong ba cõi, đem pháp mầu giáo hoá tất cả chúng sanh. Thấy quân hiền thánh cùng ma ngũ ấm, ma phiền não, ma chết, đánh nhau có công lao lớn, diệt ba độc, khỏi ba cõi, phá lưới ma. Lúc ấy Như Lai cũng rất vui mừng, kinh Pháp Hoa này có thể khiến chúng sanh đến bậc Nhất thiết trí là pháp mà tất cả thế gian nhiều oán ghét, khó tin, trước chưa từng nói mà nay nói đó. Văn Thù Sư Lợi! Kinh Pháp Hoa nầy là lời nói bậc nhất của Như Lai, ở trong các lời nói thời là rất sâu, rốt sau mới ban cho, như vua sức mạnh kia lâu giữ gìn viên minh châu mà nay mới cho đó. Văn Thù Sư Lợi! Kinh Pháp Hoa này là tạng bí mật của các đức Phật Như Lai, ở trong các kinh thời là bậc trên hết, lâu ngày giữ gìn chẳng vọng tuyên nói, mới ở ngày nay cùng với các ông mà bày nói đó." Lúc đó, đứ Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 10. Thường tu hành nhẫn nhục Thương xót tất cả chúng Mới có thể diễn nói Kinh của Phật khen ngợi. Đời mạt thế về sau Người thọ trì kinh này Với tại gia, xuất gia Và chẳng phải Bồ tát, Nên sanh lòng từ bi Những người đó chẳng nghe Chẳng tin kinh pháp này Thời là mất lợi lớn Khi ta chứng Phật đạo Dùng các sức phương tiện Vì nói kinh pháp này Làm cho trụ trong đó. Thí như vua Chuyển luân Thánh vương có sức mạnh Binh tướng đánh có công Thưởng ban những đồ vật Voi, ngựa và xe cộ Đồ trang nghiêm nơi thân, Và những ruộng cùng nhà Xóm làng thành ấp thảy Hoặc ban cho y phục Các món trân báu lạ Tôi tớ cùng của cải Đều vui mừng ban cho, Nếu có người mạnh mẽ Hay làm được việc khó Vua mới mở búi tóc Lấy minh châu cho đó. Đức Như Lai cũng thế Là vua trong các pháp Nhẫn nhục sức rất lớn Tạng báu trí huệ sáng Dùng lòng từ bi lớn Đúng như pháp độ đời Thấy tất cả mọi người Chịu các điều khổ não Muốn cầu được giải thoát Cùng các ma đánh nhau Phật vì chúng sanh đó Nói các món kinh pháp Dùng sức phương tiện lớn Nói các kinh điển đó, Đã biết loài chúng sanh Được sức mạnh kia rồi Rốt sau mới vì chúng Nói kinh Pháp Hoa này Như vua thánh mở tóc Lấy minh châu cho đó. Kinh này là bậc tôn Trên hết trong các kinh Ta thường giữ gìn luôn Chẳng vọng vì mở bày Nay chính đã phải lúc Vì các ông mà nói. Sau khi ta diệt độ Người mong cầu Phật đạo Muốn được trụ an ổn Diễn nói kinh pháp này Phải nên thường gần gũi Bốn pháp trên như thế. Người đọc tụng kinh này Thường không bị ưu não Lại không có bệnh đau Nhan sắc được trắng sạch Chẳng sanh nhà bần cùng Dòng ti tiện xấu xa Chúng sanh thường ưa thấy. Như ham mộ hiền thánh Các đồng tử cõi trời Dùng làm kẻ sai khiến Dao gậy chẳng đến được Độc dữ chẳng hại được Nếu người muốn mắng nhiếc Miệng thì liền ngậm bít Dạo đi không sợ sệt Dường như sư tử vương Trí huệ rất sáng suốt Như mặt trời chói sáng. Nếu ở trong chiêm bao Chỉ thấy những việc tốt Thấy các đức Như Lai Ngồi trên tòa sư tử Các hàng chúng Tỳ kheo Vây quanh nghe nói pháp. Lại thấy các long thần Cùng A tu la thảy Số như các sông Hằng Đều cung kính chấp tay Tự ngó thấy thân mình Mà vì chúng nói pháp. Lại thấy các đức Phật Thân tướng thuần sắc vàng Phóng vô lượng hào quang Soi khắp đến tất cả Dùng giọng tiếng Phạm âm Mà diễn nói các pháp Phật vì hàng tứ chúng Nói kinh pháp vô thượng Thấy thân mình ở trong Chấp tay khen ngợi Phật Nghe pháp lòng vui mừng Mà vì cúng dường Phật Được pháp Đà la ni Chứng bậc bất thối trí Phật biết tâm người đó Đã sâu vào Phật đạo Liền vì thọ ký cho Sẽ thành tối chánh giác. Thiện nam tử người này! Sẽ ở đời vị lai Chứng được vô lượng trí Nên đạo lớn của Phật, Cõi nước rất nghiêm tịnh Rộng lớn không đâu bằng Cũng có hàng tứ chúng Chấp tay nghe nói pháp. Lại thấy thân của mình Ở trong rừng núi vắng Tu tập các pháp lành Chứng thực tướng các pháp Sâu vào trong thiền định Thấy các Phật mười phương Các Phật thân sắc vàng Trăm phước tướng trang nghiêm Nghe pháp vì người nói Thường có mộng tốt đó. Lại mộng làm Quốc vương Bỏ cung điện quyến thuộc Và ngũ dục thượng diệu Đi đến nơi đạo tràng Ở dưới gốc bồ đề Mà ngồi tòa sư tử Cầu đạo quá bảy ngày Được trí của các Phật Thành đạo vô thượng rồi Dậy mà Chuyển pháp luân Vì bốn chúng nói pháp Trải nghìn muôn ức kiếp Nói pháp mầu vô lậu Độ vô lượng chúng sanh Sau sẽ vào Niết bàn Như khói hết đèn tắt. Nếu trong đời ác sau Nói pháp bậc nhất này Người đó được lợi lớn Các công đức như trên.