Phần III

Chuyện kể về một bài thơ…
 
Hồi đó, đầu thập niên 60, phải đến năm thứ ba y khoa, chúng tôi mới được thực tập đỡ đẻ trên người. Mỗi sinh viên phải đỡ ít nhất 20 ca sinh thường, không có bệnh lý, trong đợt thực tập tại bệnh viện Từ Dũ. Tối tối, chúng tôi túc trực ở phòng nhận bệnh để “bắt ca” với sự giúp đở của các cô nữ hộ sinh có nhiều kinh nghiệm. Một hôm, đợi đã khuya, chưa bắt được ca nào, tôi đã hơi nản thì một cô nữ hộ sinh bỗng kêu: “Có ca 4cm, ông thầy có nhận không này?”. Thời đó các cô gọi chúng tôi là “ông thầy” thân mật dù chúng tôi chỉ là sinh viên y khoa. “Ca 4cm” là ca mà cổ tử cung đã nở gần trọn, sắp sanh. Tôi mừng quá, nhận lời ngay. Tôi đưa sản phụ lên phòng sanh, thăm khám, làm vệ sinh các thứ, theo dõi cơn co tử cung, ghi chép cẩn thận vào bệnh án rồi còn ngồi bên trò chuyện cho sản phụ quên đau. Tôi nghĩ đến mẹ mình, đến những giọt mồ hôi của biết bao bà mẹ chờ sanh khác. Đến gần sáng thì cơn đau đã rột. “Lúng túng” một cách lành nghề, tôi cũng đã đỡ được ca đầu tiên mẹ tròn con vuông! Lòng lâng lâng tôi đẩy xe cho hai mẹ con về phòng, rồi viết bản phúc trình. Trời đã hửng sáng. Bên ngoài khung kính cửa phòng sanh, Sài Gòn vẫn tấp nập và hừng hực không khí ngột ngạt những ngày tháng của năm 1965. Đột nhiên, một cảm xúc dâng trào trong lòng, tôi viết liền một mạch ngay sau phần bệnh án một bài thơ nhỏ:
THƯ CHO BÉ SƠ SINH
 
Khi em cất tiếng khóc chào đời
Anh đại diện đời chào em bằng nụ cười
Lớn lên nhớ đừng hỏi tại sao có kẻ cười người khóc
Trong cùng một cảnh ngộ nghe em!
 
Anh nhỏ vào mắt em thứ thuốc màu nâu
Nói là để ngừa đau mắt
Ngay lúc đó em đã không nhìn đời qua mắt thực
Nhớ đừng hỏi vì sao đời tối đen
 
Khi anh cắt rún cho em
Anh đã xin lỗi chân thành rồi đó nhé
Vì từ nay em đã phải cô đơn
Em đã phải xa địa đàng lòng Mẹ
 
Em là gái là trai anh chẳng quan tâm
Nhưng khi biết em thẹn thùng
Sẽ biết thế nào là nước mắt trong đêm
Khi tình yêu tìm đến!
 
Anh đã không quên buộc étiquette vào tay em
Em được dán nhãn hiệu từ giây phút ấy
Nhớ đừng tự hỏi tôi là ai khi lớn khôn
Cũng đừng ngạc nhiên sao đời nhiều nhãn hiệu!
 
Khi em mở mắt ngỡ ngàng nhìn anh
Anh cũng ngỡ ngàng nhìn em qua khung kính cửa
Một ngày đã thức giấc vội vàng với hoang mang
Với những danh từ đao to búa lớn
Để bịp lừa để đổ máu đó em...
 
Thôi trân trọng chào em
Mời em nhập cuộc
Chúng mình cùng chung
Số phận
Con người...
 
(BV Từ Dũ, Saigon 1965)
 
Sáng hôm sau, Giáo sư Minh đọc bản tường trình của tôi, gọi tôi vào rầy: “Đỡ đẻ không lo đỡ đẻ, lo làm thơ!”. Tôi biết thầy không giận vì tuy rầy mà giọng thầy lại ấm áp. Mấy ngày sau, chẳng ngờ bài thơ viết vội trong đêm trực đó đã được phổ biến nhanh chóng trong giới sinh viên và nữ hộ sinh. Ai đó đã viết bài thơ lên bảng. Bài thơ được đăng trên báo Tình thương – một tờ báo của sinh viên y khoa và in lại trong tập thơ “Tình người” của tôi năm 1967, do Thân Trọng Minh, người bạn cùng khoá, sau này là một bác sĩ tim mạch có tiếng kiêm hoạ sĩ trình bày bìa, với tranh của Cocteau. Bác sĩ Lương Phán cũng chọn đăng “Thư cho bé sơ sinh” vào một tạp chí y khoa do ông phụ trách thời đó, khoảng 1973. Điều thú vị là sau ngày Giải phóng, nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu đến thăm tôi, chỉ để tăng cho tác giả thơ bài hát “Thư cho bé sơ sinh” do anh phổ nhạc từ trong nhà tù nhờ đọc được cuốn tạp chí y học của Bác sĩ Lương Phán. Trước đó, chúng tôi chưa hề quen nhau. Tôi chỉ biết anh với những bài nỗi tiếng Trường làng tôi và Muà thu không trở lại…
 
Chuyện chẳng có gì đáng kể nếu mới đây tôi không có dịp làm việc với ba vị bác sĩ, là giáo viên của Trường trung học y tế tỉnh Phú Thọ lần đầu tiên vào Tp. Hồ Chí Minh và miền Nam. Trong lúc chuyện trò, bác sĩ Phạm Hữu Trí, Phó giám đốc Sở y tế Bà Rịa – Vũng Tàu tình cờ nhắc đến bài thơ “Thư cho bé sơ sinh” của tôi 35 năm về trước mà anh còn nhớ thì thầy Nguyễn Hồng Hải, một trong ba bác sĩ của Phú Thọ bỗng chồm lên, ôm lấy tôi, mừng rỡ: “Thế ra anh chính là tác giả bài thơ đó ư?”. Rồi thầy đọc liền một mạch bài thơ. Thầy nói năm nào dạy lớp nữ hộ sinh ở Trường nữ trung học y tế Phú Thọ, thầy đều đọc cho họ nghe bài thơ mà thầy không biết tác giả là ai, chỉ nói khuyết danh mà thôi. Thầy cho biết đã thuộc bài thơ qua một người bạn từ 18 năm về trước ở miền Bắc.
 
Chú bé sơ sinh của tôi lúc đó thì nay đã 35 tuồi rồi còn gì! Mới thôi!
 
9 – 2000
 
 
 
Đọc thơ Phan Như
 
Làm sao mà người ta lớn lên bên một dòng sông ngát xanh màu áo tím đó, với những tiếng chuông chùa lung linh trên mặt nước lờ lững đó, mà có thể không làm thơ? Cho nên như những chàng trai xứ Huế khác, Phan Như đã làm thơ. Mà có lẽ anh cũng đã làm thơ từ lâu lắm rồi, nhưng mãi đến bây giờ mới chia sẻ cùng chúng ta.
 
Xin một lần giữa dòng Hương ngát
Tắm trần truồng giỡn với nước mây
(Cùng với nước mây)
 
Hiển nhiên là anh đã tắm trần truồng nhiều lần trên dòng sông đó, những ngày còn thơ. Nhưng đến bây giờ ở tuổi “gió heo may đã về”, anh vẫn còn thèm tắm một lần hay nhiều lần nữa cũng trần truồng như thế giữa một đêm sáng trăng hoặc một chiều nhạt nắng. Người Huế yêu Huế không cần phải nói nhiều hơn.
Rồi cũng như bao chàng trai xứ Huế khác, Phan Như đa tình. Không đa tình sao được khi mà anh chỉ nhớ ở trong lòng con đường trước cổng trường của ai kia với tiếng guốc vông dịu dàng gõ vào lòng ngực trẻ, để rồi:
 
Ước chi đời anh là đôi guốc vông
Nằm dưới chân em
….
Ước chi lòng anh là quai guốc xinh
Buộc ngón chân em…
(Guốc vông)
 
Bổng nhớ “Tôi xin làm đá cuội mà lăn theo gót hài” của người nhạc sĩ họ Trịnh. Phan Như không chỉ lăn theo, anh còn muốn dính vào, muốn buộc chặt vì chỉ có thế mới không sợ lìa xa.
 
Và không đa tình sao được khi mà một cọng sen trong hồ tĩnh cũng làm người ta nhớ quay nhớ quắt:
 
Tôi cầm một cọng liên xanh
Nhớ em bàn tay công chúa
Đã dịu dàng gõ vào trái tim
Cho đến khi máu ứa
(Sen tịnh)
 
Tịnh, mà không tịnh, bởi vì người ta quá đa tình, đa tình với cả vạt áo ni.
 
Áo ni mấy bận theo vào hạ
Nắng vàng còn gợn thoáng lưng ong
….
Kinh thư có ấm bàn tay ngọc
Dốc núi xin đừng đau gót chân…
(Năm năm mắt vẫn xanh màu biếc)
 
Cho nên cũng dễ hiểu thôi, một chiều nào đó, nhìn tiếng chuông chùa lăn tăn trên mặt nước, người ta không khỏi chạnh lòng mà ao ước:
 
Mai kia xuống tóc tìm sơn khê
Liếp cỏ một gian gió đi về
Nhớ em niệm A Di Đà Phật
Vách núi nhìn trăng lạnh dưới khe
(Bỏ vợ đi tu)
 
A Di Đà Phật! Nói vậy mà không phải vậy. Rồi anh lại lẳng lặng quay về bên người yêu dấu, một sợi tóc mai, một mùi hương cũ không thể nào quên :
 
Thôi tôi phải trở về
Không hiểu vì sao tôi phải trở về
....
Một sợi tóc mai
Một mùi hương cũ...
(Nịnh vợ ca)
 
Như vậy, Phan Như không chỉ là một chàng trai đa tình, anh còn đôn hậu, thuỷ chung. Anh có một triết lý sống rất đáng yêu, chấp nhận thua thiệt trong cuộc xoay vần hôm nay :
 
Ta nằm ngó con thuyền lui tới
Sợi tình chùng rồi sợi tình căng
Thuyền bằng giấy đâu cần bánh lái
Quả đất tròn ta cũng đi quanh
(Sóng vỗ mạn đời)
 
Tôi yêu cái hồn nhiên mà cũng lạc quan trong thơ Phan Như :
 
Nào có can chi đời hữu hạn
Sống mà gặp nhau đã đẹp vô cùng
Nào có can chi đời lận đận
Giữa trái tim ta có nụ cười hồng…
(Sống mà gặp nhau đã đẹp vô cùng)
 
Có lẽ chính vì thế mà Phan Như đã làm thơ. Làm thơ cho tình, làm thơ cho mình và làm thơ cho bạn bè anh em. Thơ như một giải thoát.
 
Thơ Phan Như chân thật, không làm dáng, kiểu cách. Thơ anh như rót tự đáy lòng mình. Không có kỹ thuật cầu kỳ, hình ảnh chải chuốt mà đôi khi âm điệu như có cái gì quen thuộc nhưng vẫn làm ta mãi bâng khuâng:
 
Thôi xin chào đôi mắt màu rêu
Đã ngậm ngùi xa dấu nhìn theo
Tôi đâu dám phụ phàng chi mấy
Nhưng ra đi là chuyện đã liều
(Giã biệt tinh châu)
 
Tôi là người thầy thuốc bạn anh, không phải là người làm thơ thứ thiệt, vậy mà anh đã tin cậy gửi Sóng vỗ mạn đời, tập thơ bản thảo đầu tay nhờ tôi viết đôi dòng cảm nghĩ, cho nên “Tôi đâu dám phụ phàng chi mấy…” bèn có đôi lời.
 
1999
 
Đời thường Giáo sư Trần Văn Khê…
 
Theo lời chỉ dẫn của ông qua điện thoại, tôi lên métro tới trạm cuối Villejuif-Louis Aragon, chuyển sang xe bus đi về phía ngoại ô thêm chừng bốn năm trạm nữa, rồi đi bộ thêm một quãng thì đến một chung cư nhỏ nơi ông ở. Đã gần tám giờ tối rồi nhưng Paris đang là mùa hè nên nắng vẫn còn chói sáng. Thấy tên ông nằm ở tầng thứ chín của chúng cư, sau một hồi đi đủ thứ loại xe rồi cuốc bộ tôi đã thấy hoải. May mà có thang máy. Cái thang máy nhỏ xíu, hai người đi thì vừa. Ở Paris, ăn thì không bao nhiêu chứ ở thì rất đắt, người càng nghèo thì càng phải ở từng cao và phải ra ngoại ô cho đỡ tốn kém.
 
Cửa thang máy vừa mở, đã thấy ông tươi cười đứng đợi. Chưa gặp ông lần nào nhưng tôi và ông cũng đã quen biết nhau qua thư từ vì ông vốn là bạn thiếu thời của cậu tôi, ông Ngu Í Nguiễn Hữu Ngư, nên nhân dịp đến Paris công tác tôi ghé thăm ông, cũng là để xem ông đau yếu ra sao mà nghe ông than trong một bài thơ mới đây là “vào ra bệnh viện biết bao lần”. Có lần nghe nói ông sắp phải mổ cột sống vì đi lại khó khăn nữa.
 
Trước mặt tôi là một Trần Văn Khê vui vẻ, tươi cười, vạm vỡ trong chiếc áo pull vàng, tóc đen nhánh, chải bồng lên phái trước… trông rất trẻ, nhưng nhìn kỹ thì lông mày bạc trắng đằng sau đôi kiếng cận dày cộm, các nếp nhăn ở đuôi mắt… không giấu được tuổi tác của một lão nhạc sư tuổi sắp tám mươi, tiên phong đạo cốt. Thì ra ông mới từ Canada về, tôi nghĩ tóc nhuộm còn đen nhánh, nhưng lông mày không nhuộm nên cứ trắng phau, còn nhánh tóc bồng bềnh phía trước kia chắc là để che bớt chỗ hói (Sau này tôi mới biết ông không hề nhuộm tóc!). Hai chú cháu ôm chằm nhau mừng rỡ. Tôi cười: chú ở chót vót trên này à? Ông cũng cười: trên đầu chú không còn ai nữa, chỉ có người hàng xóm bên cạnh, mà cũng đã đi nghỉ hè rồi!
 
Ông đưa tôi vào căn hộ bốn phòng nhỏ tràn ngập sách báo, băng từ ngổn ngang bừa bãi và đờn, ôi đủ thứ đờn, trên sàn, trên vách, giăng mắc khắp nơi. Ông sống đơn độc một mình, thỉnh thoảng con cái, bạn bè đến thăm. Ông nói: chú vừa ở Canada về, bắt tay ngay vào việc. Đang viết bài trả lời cho một nữ sĩ về cuốn Tiểu phẩm của chú đây. Rồi ông dẫn tôi xuống bếp. – Chú đoán là cháu chưa ăn cơm, nên chuẩn bị cơm mời cháu luôn đây rồi! Tôi gật đầu rồi xuống bếp phụ làm. Ông không cho: cháu cứ ngồi vào bàn, để chú làm vì chú quen rồi – ông nói. Từ mấy chục năm nay, hình như ông đã quen sống một mình rồi. Nắng vẫn còn rực sáng qua khung cửa kính nhà bếp. Nóng quá. Ông mở quạt vù vù. Ở đây mùa này phải có quạt mới chịu nổi, ông nói vậy. Rồi ông mở tủ lạnh, lấy ra hai vắt cơm gói kín trong bịch ni-lông, mỗi người một vắt, cỡ bằng một chén. – Đủ không? – Dạ đủ. Tôi nói đủ vì đã quen cách ăn rất ít tinh bột của Tây rồi, không như mình “lấy cơm làm gốc”, vả lại tôi còn cả thùng mì gói ở nhà. Ông cho hai gói cơm vào micro-onde, hấp lại. Xong lấy ra một tô khổ qua nhồi thịt. May quá, ông nói: chị Tường Vân mới cho chú món này. Lại cho vào nồi hấp. Tôi nghĩ chắc phải hấp năm phút mới đủ, nhưng ông vội, chỉ hấp chừng hai ba phút nên vẫn còn nguội và cứng ngắc. Rồi món gà xào sả, gà công nghiệp chặt to xào mặn. Bình thường dĩ nhiên ông ăn uống còn đơn giản hơn nhiều. Nhưng ông rất sảng khoái, tự nhiên và hết sức thoải mái. Ông nói cơm ở đây họ gói sẳn như vậy, ăn mấy phần thì mua; đồ ăn cũng vậy. Rác thì cho vào cái ống này, chảy luôn xuống hầm rác, không phải đi đổ. – Chú ở một mình quen rồi, thấy dễ chịu lắm. À mà cháu có ăn dưa chuột không? – Ông khoe vì còn món dưa chuột trong tủ lạnh. – Cháu có muốn gọt vỏ không? Không gọt vỏ thì phải rữa cho kỹ vì sợ thuốc trừ sâu. Rồi ông đi rửa thiệt kỹ vì tôi nói ăn cả vỏ thì tốt hơn. Tôi hỏi ớt, không có. – Chỉ có chai tương ớt Singapore, coi đẹp chớ không cay – ông nói. Rồi ông giải thích thêm: chú bị trĩ, không dám ăn ớt. Tôi không khám cũng biết ông bị trĩ, bị bón nặng rồi, vì khi vào toa-lét, thấy ông bày nào tranh tàu, nào sách báo tây ta cả chồng trong đó! Ngồi ăn với tôi, chốc chốc thấy ông uống thuốc, uống như một phản xạ. Thuốc đã bày sẵn trên bàn lúc nào mà không hay. Tôi giật mình: chú uống thuốc gì mà đủ thứ vậy? – Chú bị đau thần kinh toạ, lại bị tiểu đường, trĩ… hôm trước phải chích, nay đổi qua uống. Mỗi ngày uống … 22 viên! Tôi sợ là sống một mình như ông, uống thuốc tùm lum có hôm bị trúng thuốc hoặc sặc thuốc thì rất nguy hiễm. Ăn uống xong, ông đưa tôi đến bàn vi tính: chú đang viết dở bài này. Chờ chú viết mấy dòng nữa cho xong rồi cháu góp ý cho chú nhé. Ông ngồi vào máy, gò lưng… gõ. Trông mái tóc đen nhánh bồng lên phiá trước, lông mày bạc trắng, các nếp nhăn trễ xuống ở cổ… mắt lim dim gần như nhắm sau cặp kiếng cận nặng chình chịch, môi thừ ra phía trước, tập trung vào bài viết, tôi không sao dằn được ý muốn ghi lại cái nét ngộ nghĩnh của nhà học giả lừng danh này trong nếp sống đời thường – bên ngoài những buổi trình diễn trịnh trọng veston cà vạt trên sân khấu, bên ngoài những bó hoa trao tặng với các nụ cười xã giao rôm rả. Tôi thích ông trong dáng vẻ tự nhiên, trong nếp sông đời thường, mộc mạc, chân tình, có những nét rất rõ của một người đứng tuổi độc thân, cũng tiết kiệm, cũng cẩn thận, cũng ham uống thuốc… và có thể cũng hay giận hờn, hay quên, dễ xúc động… và hay nói về những kỷ niệm xưa cũ. Tôi quan sát ông theo một thói quen nghề nghiệp. Tôi lay quay tìm mãnh giấy để vẽ mà không thấy. Tôi lấy cái bì thư trên bàn, nguệch ngoạc mấy nét, tạm được, nhưng chưa vừa ý. Chợt nhớ ra, tôi trở lại bàn ăn lấy mãnh khăn giấy mềm, phác nhanh mấy nét một Trần Văn Khê mặc áo thun, đang… hì hục trước máy vi tính, đánh bài trả lời một nữ sĩ. Đây rồi, đúng là chú Khê, hết chối cãi nhé! Tôi khoái lắm, cất kỹ. Ông hoàn toàn không biết tôi đã vẽ cho ông một bức chân dung ngộ nghĩnh trên mãnh giấy khăn ăn như thế.
 
Rồi ông mở cho tôi coi cuộn băng vidéo chuyến đi Canada của ông, thu buổi trả lời phỏng vấn của Đài phát thanh Canada gần hai tiếng đồng hồ về nhạc Việt. Nhân ngày “Người cha”, Đài phát thanh Canada có sáng kiến phỏng vấn Nhạc sĩ Trần Quang Khải, con trai ông, cũng là một nhà nhạc học nỗi tiếng, đang ở Paris, những cảm nghĩ về cha của mình, đồng thời phỏng vấn người em ruột của ông, bà Ngọc Sương đang sống ở Canada, về người anh ruột của mình. Cuộc phỏng vấn thật cảm động, cả hai anh em ông đều khóc, những người dự thính cũng rơm rớm nước mắt. Bà Ngọc Sương nói, vì cha mẹ mất sớm, ông là anh cả, đã như vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là anh trai của tất cả các em, hết lòng lo cho các em để họ được như ngày hôm nay. Những người dự thính vừa được nghe nói về nhạc Việt, vừa được nghe ông hoà tấu cùng học trò mình, lại được biết thêm về một nét văn hoá phương Đông, về tình gia tộc của một đất nước giàu truyền thống hiếu đễ. Ông trả lời họ là đã rất vui mừng thấy nếp nhà được “cha truyền con nối”, rất tự hào về những người học trò mà ông có dịp cùng họ hoà tấu, nối kết nhiều thế hệ… Ngồi xem lại băng hình mà tôi thấy ông hãy còn xúc động, nghẹn ngào.
 
Rồi ông nói với tôi: cháu đừng lo, cứ ở chơi, khuya quá thì chú đưa cháu về. Tôi biết métro còn chạy đến quá nữa đêm, nhưng cũng ngại quãng đường xe buýt, nghe ông hứa vậy nhưng nghĩ chuyện lái xe bây giờ của ông chắc là không đơn giản vì chân ông chưa hết đau. Tôi phone cho người em họ đến đón. Đã gần nữa đêm.
 
Thấy tôi có vẻ chần chừ, ông hỏi: cháu có việc gì đó? Tôi cười, chìa cho ông cái hình vẽ chân dung ông trên mãnh giấy đặc biệt, bấy giờ đã hơi loang ra, ông cầm lên coi rồi khoái chá cười ha hả - Đẹp lắm, giống lắm, ông nói… Cám ơm, cám ơn cháu lắm! Rồi tôi lại thấy ông có vẻ chần chừ: chú có việc gì đó nữa? Ông không nói gì cả, bước vào trong phòng ngủ, ôm ra một quyển album to, lật cho tôi coi. Thì ra ông có một điều gì đó không định tỏ bày, nhưng bây giờ ông đột ngột thấy đã đến lúc cần chia sẻ, ông nói: này cháu xem, đây là cô Đ… Năm ngoái cô từ Mỹ qua đây ở chơi với chú, đi khắp nơi với chú, chụp bao nhiêu là hình đẹp thế này… Vậy mà cô mới chết vì ung thư, cháu có biết không? Mắt ông rướm lệ. Tôi lặng im, từ từ lật từng trang album: một thiếu phụ khoảng năm mươi tuổi, còn rất đẹp, trông hiền lành, thuỳ mị, đang âu yếm và hạnh phúc bên ông… Thấy tôi như muốn hỏi điều gì, ông trả lời ngay: cô ấy 67 tuổi! Tôi hỏi, khi cô ấy ở đây, cô có biết mình đã bị ung thư chưa… - Chưa cháu à, nên cô ấy mới đồng ý đến với chú. Tôi đã đoán sai tuổi cô, nhưng điều này chắc tôi không sai, tôi tin là cô đã biết mình bệnh, những ngày còn lại, cô đã đến với chú, đi dạo khắp Paris với chú như một cặp tình nhân son trẻ, còn hơn son trẻ, vì mỗi người mang nặng mối u hoài của cả một kiếp người, muốn chan hoà, chia sẻ cho nhau những ngày cuối. Những tấm ảnh đã thực sự nói lên điều đó. Một đôi uyên ương có tuổi rõ ràng là có cái gì đó đằm thắm mà nồng nàn, thiết tha hơn hẳn những cặp uyên ương trẻ, nhất là khi cô biết chẳng còn sống được bao lâu. Thế rồi hai chú cháu ôm lấy nhau. Tôi từ giã ra về, lòng còn lâng lâng. Nếu không có người em đợi dưới đường thì có lẽ tôi sẽ ở lại với ông thêm ít lâu nữa.
 
Bây giờ ngồi viết lại những dòng này tôi còn nhớ rõ con người mộc mạc, chân tình và rất nhạy cảm của ông, một Trần Văn Khê đời thường mà tôi có dịp gặp ở Paris nhân chuyến công tác vừa qua. Nói chung, ông là một… ông già Nam Bộ rất dễ thương!
 
(Kiến thức ngày nay, 1997)
 
 
Nguyễn Hiến Lê, một tấm gương kiên nhẫn
 
Tháng 12 năm nay là lần giỗ thứ tư ngày ông mất (1912- 1984), ông Nguyển Hiến Lê sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, học trường Yên Phụ rồi trường Bưởi, tốt nghiệp Công chánh, khăn gói vào Nam ở lứa tuổi 22-23, và được bổ vào làm việc ở Sở thuỷ lợi Nam Việt, rồi sống tại miềm Nam cho tới ngày mất để lại một sự nghiệp trước tác, biên khảo, dịch thuật đồ sộ với khoảng 120 tác phẩm có giá trị cho hậu thế.
 
Công việc ở Sở thuỷ lợi của ông lúc đó thực nhàn nhã: đo đạt mực nước sông để làm kế hoạch thuỷ lợi. Nhờ vậy trong nhiểu năm, ông lênh đênh trên các sông rạch miền Nam từ Châu Đốc đến Long Xuyên, Rạch Giá, rồi từ Sóc Trăng, Sa Đéc đến Bạc Liêu, Cần Thơ… ông yêu mến và thuộc lòng cả những câu hò trên sông nước miền Nam và được sống những đêm trăng sáng vằng vặc của quê hương mà ông cho là còn đẹp hơn những đêm trăng mờ ảo ở Hàng Châu của các thi nhân đời Đường.
 
Gần đây, nhà xuất bản Long an đã cho in lại tập Gương Kiên nhẫn trong tủ sách Gương danh nhân của ông là một việc đáng mừng. Đọc Gương Kiên nhẫn, tôi thấy đời ông quả thực cũng là một tấm gương kiên nhẫn cho thanh niên. Thật vậy, có thể nói đời ông gồm trong hai chữ: Học và Viết. Ông học để viết và viết để học. Sống giản dị, nghiêm cẩn, ẩn dật, ông âm thầm làm việc trong suốt 40 năm cho đến ngày mất. Không bài bạc, rượu chè, không ham “nhảy đầm” như đa số thanh niên thời đó, ông gần như chỉ có một thú vui duy nhất: đọc sách và tự học thêm. Điều đáng quý là ông đem sở học ra để giúp đời với 120 tác phẩm trong mọi lãnh vực – đặt biệt trong lãnh vực giáo dục thanh niên – như chúng ta đã biết.
 
Hai môn tự học quan trọng của ông là Hán tự và Anh ngữ. Nhờ Hán tự và Anh ngữ, ông có chìa khoá để mở rộng cánh cửa kiến thức, tiếp xúc cả hai nền học thuật: Cổ học Trung Hoa và Khoa học kỹ thuật Tây phương. Thấm nhuần nho học, giữ được tinh thần nho học, lại có tinh thần khoa học, chuộng tính hiệu quả, năng suất như ông thì thật là hiếm. “Nho học” dễ thủ cựu mà “khoa học” dễ rơi vào thực dụng. Ông giữ được cái trung dung, làm được cái gạch nối giữa cựu học và tân học. Thế hệ trước ông bơ vơ và kêu lên “Cái học ngày nay đã lỡ rồi!” hoặc mai mỉa “Vứt bút long đi vác bút chì!” (Tú Xương). Ông thì sử dụng được cả bút lông lẫn bút chì, mà còn mài sắc cả hai. Cổ văn Trung Quốc, Đại cương triết học Trung Quốc, Chiến quốc sách, Sử ký Tư Mã Thiên… đến Nhà giáo họ Khổng, Tô Đông Pha, Mạnh Tử… rồi Hiệu năng, Tổ chức công việc theo khoa học, Tự học để thành công, Kim chỉ nam của học sinh, Tương lai trong tay ta v.v… là những minh chứng.
 
Cách tự học của ông cũng lạ: Hán tự chỉ cần học để nhớ mặt chữ, không cần học đọc – vì không cần để nói mà chỉ để nghiên cứu. Ông nói học như vậy, 6 tháng đã đọc được Tam Quốc Chí nguyên bản không khó. Anh ngữ thì ông chủ trương “muốn hiểu rõ một ngoại ngữ thì phải dịch”. Dịch sao cho không thấy dấu vết dịch, dịch sao cho không thấy phản ý tác giả mà người đọc không ngờ là sách dịch là được!
 
Còn viết, ngay từ hồi còn lênh đênh trên sông nước miền Nam, ông viết hồi ký, nhựt ký để tự luyện văn. Đi đâu ông cũng ghi lại cảnh tình, phong tục tạp quán, từ đó, có Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, Đế Thiên Đế Thích, Trên con đường thiên lý… Khi ông học một khoá hàm thụ ở Pháp về tổ chức học, ông thấy đa số người mình thường mơ mộng hơn thực tế, làm việc thường tuỳ hứng hơn là có kế hoạch, ông viết hàng loạt những cuốn Tổ chức công việc theo khoa học, Tổ chức công việc làm ăn, Kim chỉ nam cho học sinh v.v… Ông chủ trương một tủ sách loại “Học làm người” như tủ sách La Bibliothèque de l’Honnête Homme của Bỉ, Culture Humaine của Pháp, Self-improvement của Anh Mỹ để giúp thanh niên tự rèn luyện, bổ sung cho cái học của nhà trường. Vì theo ông, nhà trường chỉ dạy cho ta cách học, còn mỗi người thì phải tự học suốt đời và học là để hành và hành là để học. Ông viết cũng là để tự học tốt hơn. Muốn viết thì phải đọc, phải nghiên cứu và nhờ đó hiểu sâu hơn. Ông làm việc đều đều mỗi ngày với một nghị lực phi thường, bền bỉ có giờ giấc nhứt định. Ngày đọc sách 5-6 giờ, viết 5-6 giờ. Cứ ngồi vào bàn viết đúng giờ, không cần đợi hứng. “Viết khoảng nữa trang thì hứng đến”. Nhờ vậy, mỗi năm trung bình ông viết 3 cuốn sách, trong 40 năm được 120 tác phẫm, có cuốn hàng ngàn trang, có cuốn hàng trăm trang. Ông viết tự nhiên, thành thực, bình dị, không cần hoa mỹ. Về danh nhân, ông chọn những nhà có tâm hồn cao đẹp, có công với nhân loại để giới thiệu cho thanh niên. Đặt biệt, ông yêu tiếng Việt: ngoài Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam, Tìm hiểu văm phạm, ông còn viết lúc về già Tôi tập viết tiếng Việt, Để tôi đọc lại, nhằm giúp các bạn trẻ tránh những sai lầm trong lúc viết.
 
Yêu tiếng mẹ thì yêu quê hương. Năm 1973, khi tôi gởi cho ông một bài thơ – Đi cho đở nhớ - viết về nổi ước mơ được đi lại trên con tàu thống nhất Bắc Nam, ông trả lời: “Tôi cũng thèm đi quá. Mong cho mau tới ngày hoà bình để được đi thăm lại quê hương, để được uống nước dừa Tam Quan, ăn cam xã Đoài, nhãn Hưng Yên, hồng Bạch Hạc, cốm làng Vồng… Ông luôn nhớ đất Bắc: cảnh núi Tản hùng vĩ, cảnh ngã ba Bạch Hạc mênh mông vào mùa nước lớn, cảnh đồng ruộng văng vẳng tiếng sáo diều và thoang thoảng hương lúa, cảnh chợ quê lèo tèo mấy gian cột tre mái rạ với những quán chè tươi…
 
Dĩ nhiên, đó là quê hương trong trí nhớ. Năm 1979, ông được mời dự Hội nghị khoa học toàn quốc về vấn đề Giữ gìn sự trong sáng trong tiếng Việt ở Hà Nội, nhưng lần đó ông bệnh không đi được, rồi không có dịp đi nữa.
 
Ông thường về Long Xuyên, quê hương thứ hai của ông, bùi ngùi nghe lại câu hò ngày xưa:
 
“... chèo vô Núi Sập lựa con cá khô sặt cho thiệt ngon,
 lựa trái xoài cho thiệt giòn,
đem ra Long Xuyên lựa gạo cho thiệt trắng, thiệt thơm,
em về em dọn một bữa cơm
để cho người quân tử
hò ơ... để cho người quân tử ăn còn nhớ quê...”
[1]
 
Với tấm lòng như vậy, dễ hiểu tại sao mặc dù ông có điều kiện để đi xa – vợ con ông ở Pháp từ nhiều năm – nhưng ông chọn ở quê nhà, chết ở quê nhà (ngày 22/12/1984), và được hoả thiêu tại Thủ Đức. Ông Nguyễn Hiến Lê là một tấm gương kiên nhẫn, đáng quý.
 
(Báo Thanh Niên, 1988)
------------
[1] Nguyên văn trong “Hồi Kí Nguyễn Hiến Lê” như thế này:
“Chèo vô Núi Sập lựa con khô cá sặt cho thiệt ngon, lựa trái xoài cho thiệt dòn, đem ra Long Xuyên lựa gạo cho thiệt trắng, thiệt thơm.
Em về em dọn một bữa cơm, để người quân tử, hò ơ... để người quân tử ăn còn nhớ quê...”