ai người đi bộ dưới làn mưa thật mỏng như những sợi thủy tinh thả xuống từ một bầu trời xám thấp. Họ tránh để không dẫm chân lên mấy tấm bia nằm dưới cỏ. Người con gái nói: - Thật lạ. Người đàn ông bỏ tay khỏi vai người con gái, rút thuốc lá. Chàng nói: - Mưa đủ để chúng ta đi chơi, em không thích sao? Những hạt mưa nhỏ đã bắt đầu lấm tấm trên tấm áo khoác màu đỏ và trên cặp kính trắng. Những hạt nước cho cảm giác ấm áp hơn khí trời. Người con gái nói: - Lẽ ra mưa phải hết lâu rồi. - Trời đất mừng em trở về. - Anh thì không? Người đàn ông ngừng lại, châm thuốc hút. Đôi mắt người con gái tinh nghịch. Gió reo vui trong đôi mắt nàng. Người đàn ông thở ra hơi thuốc đầu, nói: - Ta qua bên kia ngọn đồi. Ở đó có một gốc cây mà nhiều buổi trưa, anh đã nằm đó. Người con gái nói: - Em không muốn là cái cớ để anh sống lại kỷ niệm cũ. Người đàn ông bước tới vòng tay vòng qua eo người con gái, tuy có vẻ hờ hững nhưng cũng đủ để không cho người con gái đứng lại. Chàng nói: - Đồ vật có thể thay thế - nhưng người này không bao giờ có thể thế chỗ người kia. Tất cả mọi ra đi của một người mang ý nghĩa để lại... - Em không hiểu. - Một khoảng trống. - Anh đã có bao nhiêu khoảng trống như thế? Tiếng nói của nàng dịu dàng và suốt trong hơn như những hạt mưa ở xa. - Khá nhiều. Người đàn ông đáp, giọng khôi hài. - Vậy còn khe hở nào cho em. Người đàn ông không trả lời. Người con gái cười ròn rã. Đôi môi nàng phớt hồng. Hơi lạnh làm máu dồn căng dưới làn da. Cô càng giống hơn nữa, miếng bánh bông lan. Cô bảo: - Khi có quá nhiều người ra đi thì ở trong anh giờ này chỉ còn là những khoảng trống. Người đàn ông thản nhiên: - Anh vẫn còn một chỗ cho em: đầu gối anh. Người con gái khựng lại. Nàng xoay người nhìn người đàn ông. Nét tinh nghịch biến mất trên khuôn mặt bầu bĩnh của nàng. Người đàn ông cũng cúi nhìn. Đôi mắt chàng phẳng lặng. Người con gái nói: - Không. Em không đi. Em muốn là tất cả những khoảng trống đó hợp lại. Người đàn ông gật đầu, nhưng cái gật đầu của anh lại không ăn nhằm gì tới câu anh nói: - Đôi khi anh tự hỏi không biết anh sống, để làm gì? Người con gái lắc đầu: - Nhiều người đã tự hỏi thế và cuối cùng vẫn sống. Người ta có thể sống chỉ vì sự cần thiết của một người nào đó. Một người thôi cũng đã là quá đủ. - Nếu không có một người nào cần đến anh? Người con gái nép vào người đàn ông, giọng khẳng quyết: -Thì em chính là người ấy. Người đàn ông ôm người con gái. Anh bỗng thấy mình nhẹ tênh, trôi trong nỗi buồn chưa rõ mặt. Anh hôn tóc nàng. Nắng liếm con đường ngăn chia ngọn đồi và đập nước.Mưa cũng theo nắng ăn tới chân đồi. Cho đến lúc lên đến đỉnh đồi, nơi có một gốc cây cổ thụ mà người đàn ông đã nói với người con gái, họ không nói với nhau một lời nào, mặc dù cả hai như cùng có khá điều riêng, để nói. Người đàn ông ngồi xuống gốc cây trong khi người con gái vẫn đứng nhìn về phía đập nước. Mưa trong nắng dưới chân đồi vàng óng như những giọt rượu được phun lên cao và rớt xuống một đài hoa lớn là khoảng trời được bao bọc bởi những ngọn đồi chụm đầu vào nhau theo hình tròn. Người con gái có dáng kiêu căng của một loài chim tự biết mình thuộc loại hiếm quí. Nàng mặc chiếc áo khoác màu đỏ trơn, sau lưng có thêu chìm một bông cúc đại đóa. Người đàn ông nói: - Kim. Suốt từ lúc rời xe, đây là lần đầu tiên người đàn ông gọi tên người con gái Hiểu ý người đàn ông, người con gái khép nép ngồkhỏi trại. Một người Mỹ bảo trợ. Tôi vẫn nhớ, như nhớ đến một vết thương chưa lành, một vết thương muôn đời không kéo nổi da non. Tôi nhớ, tôi đã điện thoại cho chú Lãng - điện thoại viễn liên - từ nhà sponsor - nhiều lần. Lần cuối, tôi nói: - Lãng chiều cháu một lần được không. - Điều gì? - Chép lại, một bài thơ. - Thơ chỉ là lời nói... dối. Quỳ tin làm gì? Tôi đáp: - Trong đời sống, có khi người ta phải bám vào lời nói dối để... sống. Để ngỡ mình cũng... có... Mình cũng được... Như mọi người. Chiều cháu đi. Mai kia Lãng có muốn chiều cháu thì cháu cũng không còn đâu để mà chú chiều... Tôi nói với nước mắt lặng lẽ chảy. Ở ở đầu dây bên kia, chú Lãng không thể biết tôi đang khóc. Ở đầu dây chú Lãng im lặng. Tôi biết tôi đã không che giấu được xúc động của mình như toan tính ban đầu. Một lát, chú Lãng nói: - Chú sẽ làm. Bất cứ điều gì cho Quỳ. Suốt đời tôi, nếu có điều gì đáng ân hận nhất, thì đó là sự tôi đã lỡ gọi chú Lãng là... chú. Bản chất tôi không phải là con nhỏ dễ dàng gọi bất cứ ai bằng chú, bác, trừ những người bạn thân của cha tôi. Vậy mà, không hiểu sao, khi nhận ra chú Lãng - tôi đã buộc miệng gọi chú Lãng bằng chú. Phải chăng sự nghiêm nghị? Phải chăng nỗi mừng rỡ “bắt gặp”, niềm mơ ước thầm kín, bất ngờ “tìm thấy”, đã khiến tôi không tự chủ? Khiến tôi cảm thấy mình quá bé nhỏ trước chú? Hay khi ấy có thể tôi đã nghĩ, nên cách xưng hô đó, để có thể đến được với người ông ta? - Quỳ có xin điều gì lớn lao đâu? Chỉ là một bài thơ đã cũ. Chỉ một miếng bánh vụn. Chỉ là chút hương... dư. Chú Lãng chặn ngang: - Quỳ. Không nói thế. Chú bảo, không nói nữa. - Cháu chẳng bao giờ còn có được cơ hội nói nữa sau lần này đâu chú ạ. Tôi thực sự bị những con sóng tủi thân, nghẹn ngào xé tan từng mảnh nhỏ. - Chuyện gì thế, Quỳ? Chú lãng hỏi. Tôi muốn nói “chú chẳng thể tưởng tượng được đâu, điều đang xẩy đến cho cháu”. Không ai có thể tưởng tượng được điều ấy. Cùng lắm chú Lãng chỉ có thể đoán rằng cha tôi đã cấm tôi liên lạc với chú vì vài hôm trước, sau khi bắt tôi đưa số điện thoại của chú cho ông, ông đã gọi chú. Tôi nói: - Chú đừng hỏi. Rồi chú sẽ biết. Điều đáng nói ngay lúc này là chú có nhận lời không? Tôi nghe được tiếng thở ra trong điện thoại của chú Lãng. - Quỳ nói đi. - Bài Sinh nhật, mười hai. - Bài ấy... Tại sao? Tại sao bài thơ ấy? Quỳ? - Chỉ vì một câu thôi. - Câu nào? - “Nến đau đớn thắp lên đầy cuộc vui”. Chú Lãng như la lên trong điện thoại: - Ồ. Quỳ. Quỳ còn quá nhỏ. Tôi chua chát: - Chú nghĩ rằng đau đớn biết buông tha tuổi trẻ hay sao? Chú Lãng ngập ngừng, chống chế một cách yếu ớt: - Dù sao thì Quỳ cũng còn quá nhỏ để nhớ một bài thơ như vậy. - Nếu chú nhớ lại Tháng Bảy, ở Pendleton... Lần này ở đầu dây là một sự im lặng hoàn toàn. Tôi nghe được tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ treo tường. Từ máy bay nhìn xuống, Camp Pendleton giống như chiếc chảo lớn với những dẫy lều vải san sát, ngay hàng, đâu mặt vào nhau như những chiếc xuồng lật úp, xếp bằng bìa cứng. Những tòa nhà xây một tầng vuông vứt hoặc hình chữ nhật trắng toát, thấp lè tè dưới những tàng cây cổ thụ, như những miếng đậu phụ chìm dưới đáy chảo mỡ đang sôi. Trừ trại Một, Hai, Ba và Năm, được cất trên gò cao, những trại còn lại nằm sâu dưới thấp. Tháng Bẩy nhưng khí hậu Pendleton là khí hậu của miền núi với những buổi sáng sương mù. Những đêm buốt lạnh, điểm xuyết những cơn mưa bất chợt, tầm tã. Chỉ có mỗi con đường tráng nhựa duy nhất nối liền từ trại Một đến trại Năm. Chỗ làm thủ tục xuất trại. Đó cũng là nơi có các trailer, “văn phòng” của những cơ quan thiện nguyện ở đoạn gần cuối con đường. Ra khỏi văn phòng của cơ quan Church World Services, tôi hỏi Văn: - Uống gì không? Văn gật đầu: - Tôi có năm đồng đây. Tôi cười, đứng bên đường nhìn con dốc đổ xuống trại tám. Đêm qua, tôi với Nguyễn mới đi với nhau trên con đường đất đỏ đó. Tôi quàng tay, kẹp cổ Nguyễn. Nguyễn đọc cho tôi nghe một bài Đầu tiên của chúng tôi. Đứa con trai mang tật nguyền trên bàn tay từ bố nó. Quyên kể tôi nghe mấy anh công chức nhà quê mê nàng, rất hoan hỉ, sung sướng mỗi khi được Quyên hỏi mượn tiền. Chúng tôi cười ngặt nghẽo khi Quyên đạp chiếc xe mi ni đến chờ tôi ở cuối dốc của trại lính. Một ly cà phê sữa cho tôi lúc đó giá trăm hai. Gói thuốc Bastos xanh, khi ấy một trăm đúng, và ly cà phê đen của Quyến (dù nàng chỉ nhấp một thìa, nhưng phải có) giá tám chục. Tôi cũng không còn nhớ dạo ấy, tại sao tôi lại có thể túng quẫn đến thế. Từ ngày Thược bỏ đi, tôi vẫn tiếp tục đi dạy thêm. Nhưng sự ra đi của Thược dường như đã đem theo cùng với nàng tất cả. Thược chỉ để lại cho tôi, những con đường, chỗ ngồi, và một Quyên tội nghiệp. Có lẽ Quyên cũng hiểu tôi muốn tìm gặp nàng chỉ để hỏi chuyện Thược. Chỉ để nhắc nhau về Thược. Cho riêng tôi cảm tưởng Thược vẫn đâu đó. Nàng chưa ra khỏi thành phố này. Mỗi lần gặp nhau, câu chuyện bao giờ cũng xoay quanh “bà Thược”, căn gác và, cuối cùng là tin chiến sự với con số cập nhật trong danh sách của chúng tôi, những người bạn, “đền nợ nước!” Suốt thời gian này, điều tôi nhớ rõ, chính xác nhất là chẳng bao giờ Quyên còn dùng ba chữ “Ông Mèo Rừng” để gọi tôi. Những lần Quyên tìm tôi ở trại, không gặp, để lại thư, Quyên cũng chỉ dùng cái tên thường nhật của tôi là “ông Nam” mà thôi. Thâm tâm tôi định thế nào cũng phải có một lần tôi hỏi Quyến cho ra lẽ: Tại sao Quyến lại cho tôi cái hình ảnh kia? Cái hình ảnh mà tôi biết Thược rất thích. Nàng rất thú vị với ví von này. Chẳng thế mà trong thư từ đôi khi ngay cả lúc nói chuyện với Quyên, Th. cũng đã dùng ba chữ “Ông Mèo Rừng” để nói về tôi. Một buổi chiều cuối năm, sau khi lãnh tiền dạy học, tôi đi tìm Quyên. Tôi nói: “Hôm nay tôi có tiền...” Quyên cười. Nụ cười luôn ứa ra một nỗi buồn rất lạ! (Dù chỉ cần hơi cười, người ta cũng có thể thấy cái xoáy đồng tiền nhỏ bên má trái của Quyên. Không lẽ khi Quyên cười, đôi mắt của nàng đã buồn hơn bất cứ lúc nào khác?) Quyến bảo: “Ta đi ăn đi!” Tôi gật đầu, “Chính thế”, và nhắc Quyên cất chiếc xe đạp của nàng ở sở. Rất tự nhiên, Quyến quàng tay ôm ngang bụng tôi. Tôi chở Quyến đến đền thờ Tây Hồ. Không phải vì bánh cuốn Tây Hồ nổi tiếng mà, còn vì đó cũng là một trong những chỗ tôi và Thược thường ngồi nhất. Dọc đường tôi nói, bàn tay của Quyến khiến tôi nhớ đến Thược. Chỉ khác, Th. thường mở một nút áo chemise tôi ra và, nàng nghịch chơi cái bụng hoặc ngực tôi. Không biết Quyên có nghe được câu chuyện tôi kể? Nhưng tôi nhớ, Quyên đã im lặng. Nặng im lặng gần như suốt buổi tối, cho đến lúc rời quán cà phê, hai đứa đứng cạnh nhau khá lâu, bên cây nhãn mới trông trên lề đường Đinh Tiên Hoàng. Khi tôi tra chiếc khóa vào ổ máy, ngước lên thấy mặt Quyên sát gần. Ánh mắt Quyên thảm đạm, đêm cuối năm! Tôi bỗng nhớ Thược. Nhớ thắt nghẹn. Nhớ điên cuồng. Nhớ cào xé... Tôi hôn Quyên. Tôi biết mọi người trong quán đang lõ mắt nhìn tôi. Tôi biết con bé bán thuốc lá lẻ, ngồi sau cái xạp bán thuốc cũng chết trân trước sự kiện đột ngột này. Tôi cũng biết có thể nó nghĩ về tôi không ra gì bởi vì suốt một thời gian dài, nó rất “bồ” với Thược. Chỉ Thược mới có thể mua chịu những gói Philip Morris cho tôi, trị giá cả năm trăm đồng, thời ấy. Trên đường chở Quyên về Nha Khảo Thí sở làm lấy xe, tôi định hỏi Quyên về ba chữ “Ông Mèo Rừng”. Nhưng ở phía sau, Quyến đã như cây nước đá đông cứng! Năm tháng sau, tôi ra đi. Quyên ở lại. Tôi nghĩ vĩnh viễn đến ngày chết, sẽ chẳng còn cơ hội hỏi Quyên về xước danh “Ông Mèo Rừng” Quyến đặt cho tôi, khi vì lá thư cuối cùng Thược nhận được từ quê nhà, Quyên viết: “Tôi sẽ ra đi một lần nữa. Lần thứ ba. Nếu lần này không thoát, bà và ông Mèo Rừng hãy coi như tôi đã chết. Tôi vắt kiệt chút sức tàn cho lần cuối cùng này. Hai người hãy cầu nguyện cho tôi! Một người bạn cũ”. Theo Thược thì đó là lần Quyên chấp nhận điều Quyến khinh bỉ nhất, lấy một cán bộ Cộng sản, để có được bảy lượng vàng, ra đi. 3. Qua điện thoại, người đàn ông nói giọng hốt hoảng: - Hãy đến ngay với Anh. - Chuyện gì thế? Có chuyện gì thế, anh? Người con gái hỏi lại. - Không. Không có gì. Kim đừng bắt anh phải giải thích. - Vâng. Kim đến ngay, Anh ạ. Chữ “ạ” sau cùng người con gái nói bằng một giọng rất dễ thương. Người đàn ông nghe được tiếng ống điện thoại đặt xuống ở đầu giây bên kia. Buổi chiều đã xẫm mầu bên ngoài khung cửa. Người đàn ông nhớ lại một buổi chiều, khi chiếc xe của hai người đừng lại ở một ngã tư, người con gái đột ngột nói: “Buổi chiều, muốn khóc. Anh ạ”. Người đàn ông hỏi: “Chiều vàng”. Người con gái đáp: “Không, chiều tà!” “Ừ, chiều tà!” Và trong đầu người đàn ông, khi ấy không phải chỉ có một phím dương cầm, mà cả triệu phím dương cầm cùng thánh thót một số nốt nhạc trong bản nhạc không phải là “Chiều tà” như đã trả lời mà là “Dạ khúc” - là Serenade của Schubert. Là “... Dù một ngày đời sẽ vỡ tan, rồi người về khuất chân trời - nhớ môi hương cho một chiều xanh cõi đời còn như tiếng cười. Buồn mãi mãi rồi... cuộc tình vĩnh viễn xa vời - chỉ còn thương nhớ mà thôi. Bóng tối buồn không... màu...” Buổi chiều. Buổi chiều. Buổi chiều... Người đàn ông như một con thú bị thương lồng lộn trong cũi lớn. Anh muốn gầm lên giữa lúc buổi chiều, buổi chiều, buổi chiều còn vang trong đầu anh một điệu nhạc dĩ vãng. Khi người con gái tới thì người đàn ông đã như một bầu trời chứa nặng một cơn mưa, hay một trái bóng bị bơm hơi quá căng, chỉ còn chờ để... vỡ. Người con gái dịu dàng ngồi lọt thỏm nơi chiếc ghế bành. Nàng như thủy tinh, trong vắt. Nàng như một cây cà lem xanh mướt và, mát lạnh. Mái tóc người con gái từng sợi như tơ chảy xuống, chấm ngang hai cục xương nhô lên trên đôi vai ốm. Ở nàng, không còn một dấu vết nhỏ nào để người ta có thể liên tưởng tới một cái bờm sư tử. Người con gái lúc đó, chính là một bình minh. Nàng là một sớm mai hồng trong khu vườn riêng thiếu máu của người đàn ông. Điều kỳ diệu nhất nơi một người đàn bà ở chỗ họ có thể là buổi chiều, sớm mai, hay bóng đêm giữa những khoảnh khắc ngắn. Lần đầu tiên người đàn ông đặt tay lên vai người con gái. Anh ngửi được mùi thơm từ những sợi tóc mới gội. Người đàn ông bảo: - Nói với anh một điều gì đi, Kim. Người con gái lắc đầu. Có dễ nàng còn bàng hoàng từ cú điện thoại trước đấy. Có dễ người con gái đã không chuẩn bị để chờ đợi một cơn mưa, như thế, rơi xuống, mặc dù thực tế thì cơn mưa đã rơi, và giòng sông đã cuộn chảy. Người đàn ông lắc đầu trong lúc tay anh cời từng lọn tóc của người con gái. - Anh điên mất. Kim. Người con gái gật đầu. (Nàng không quay lại nhưng vẫn gật đầu. Cái gật đầu thay cho câu trả lời quen thuộc: “Kim hiểu”) Căn nhà tối lạnh. Những tiếng động lạ phát ra từ căn phòng đóng kín tựa những tia chớp lóe lên từ một mặt biển chết, tiếp theo niềm im lặng ngột ngạt. Người đàn ông quờ quạng trong sự mù lòa của những bồng bột thơ ấu. Người con gái cũng quờ quạng trong sự mùa lòa của điều mà trái tim nàng muốn trốn chạy. Họ mù lòa trong họ và trong nhau. Họ quờ quạng trong rung động bản năng và, trong tiếng kêu cứu tuyệt vọng của ý thức. Những ngón tay người đàn ông run rẩy trên từng phần thịt da để trần của người con gái. Buổi chiều quằn quại, rẫy dụa trước khi tắt thở vĩnh viễn bởi những sợi giây xiết vô hình của bóng đêm. Giữa lúc đó, người đàn ông hôn nơi gáy nàng. Lúc dang khỏi người con gái, người đàn ông thấy tội nghiệp mình. Anh nói: “Anh xin lỗi Kim”. Tiếng nói dội lại anh. Anh bỗng thấy trong anh, tuồng một kẻ nào đã khóc. Người đàn ông nắm tay người con gái đứng dậy. Nàng nói: - Kim thật không phải. Người đàn ông lắc đầu, anh muốn nói: “Kẻ khác mới chính là nỗi tuyệt vọng của ta”. Nhưng anh biết không nên thắp thêm một ngọn nến nào nữa trong lúc này. Đôi khi con người cũng mắc phải cái lầm lẫn khá to lớn, đó là sự đinh ninh, ánh sáng tiểu trừ được bóng tối. Sự thực, ánh sáng hay bóng tối chỉ là một. Như ngày hay đêm cũng chẳng mang một ý nghĩa nào khác hơn một tên gọi. Cuối cùng, người đàn ông nói một câu chính anh không dự trù; - Ta ra vườn đi! Khởi từ đó, đêm thực sự mở ra, ngày thực sự bắt đầu. Thiên đường của họ là một bàn tay đưa ra cho một bàn tay khác nắm lấy. Địa ngục của họ là những đôi mắt cúi nhìn nỗi bi thương thảm đạm của những ngày tháng cũ. Trong đó có biển đông. Bờ bãi. Trại đảo. Sống chết. Có hạt gạo là hạnh phúc. Có ái ân là những phút giải sầu. Có những tưởng là... vô cùng ngây độn. Có những mơ ước thấp hèn ngang bản năng...
http://eTruyen.com
cười vì sự ngây ngô của mọi người trước lời phỉnh gạt của tôi. Tôi đã phỉnh gạt cả Văn. Sự thực trong đầu óc tôi lúc đó, chẳng có Thụy, chẳng có ai, ngoài hình ảnh “thằng lỏi đeo kính cận” mà tôi muốn châm mù mắt nó. Tôi bắt gặp tia nhìn tội nghiệp của người con gái lộ liễu gửi đến.Tôi rất dễ mủi lòng khi nhận được sự tội nghiệp từ những người đàn bà. Có lẽ một trong những tập quán mà mẹ tôi đã cho tôi là thói quen ấy. Thói quen này tôi có vào năm lên bảy, khi mẹ tôi bắt tôi ra tỉnh, ở trọ nhà người dì, em ruột của mẹ tôi. Bà muốn tôi đi học thêm vào mùa hè. Tôi nhớ hành trang duy nhất tôi mang theo cho chuyến đi đầu tiên (đúng ra là những ngày đầu tiên rời khỏi vú mẹ) là tấm áo cánh không giặt của mẹ tôi lót trong cái gối quen thuộc. Có lẽ tôi là một đứa trẻ kỳ cục. Suốt tuổi thơ cho đến năm mười một, mười hai tuổi, hình như tôi không sống bằng thực phẩm, bằng cơm gạo mà sống bằng mùi hơi của mẹ. Cho đến năm mười một tuổi tôi vẫn còn ngủ chung với bà. Và tôi chỉ có thể ngủ được sau khi đã vân vê hàng giờ cái đầu ti nhăn nheo của mẹ tôi. Bởi thế ba tháng hè ở Phủ Lý là ba tháng kinh hoàng nhất trong suốt ấu thơ tôi. Không phải mọi người không thương tôi. Chú dì tôi có rất nhiều con - và đa số là con gái. Theo vai vế họ là em, nhưng tuổi tác thì họ hơn tôi. Họ thương yêu tôi như thương yêu một đứa em út. Có thể hồi đó tại tôi mập tròn, trắng như một củ khoai. Hai má đồng tiền không cần cười cũng thấy. Mang tiếng là ra tỉnh, nhưng tôi biết tôi ăn mặc đẹp, sạch sẽ, chí ít cũng hơn hết tất cả những đứa nhỏ cùng dãy phố, hoặc những đứa học cùng lớp. Tôi nhớ tôi có hai chiếc quần yếm một mầu xanh nước biển, một mầu nâu đất, với hai sợi giây bắt chéo sau lưng. Nguyên ngực tôi là cái túi bự. Bên trong cái túi khổng lồ này, chả bao giờ có một cái gì khác hơn những cây tăm mẹ tôi đã dùng sau mỗi bữa cơm. (Sau mỗi bữa cơm khi người làm dọn dẹp, tôi thường được ngồi trong lòng bà. Bà hay kể chuyện đời xưa khi thì cho các anh và các chị tôi nghe. Cũng có khi bà kể chuyện ngày xưa của bà, với cả bà con, khách khứa). Chuyện đời xưa đây là những mẩu chuyện về cha tôi khi ông còn sống. Những buổi chiều ở nhà chú dì Giám, tôi thường đứng trước cửa thọc hai tay vào hai túi quần, nhìn qua bến xe đò, về phía rặng núi xa; tưởng tượng nhà tôi, nó ở phía sau rặng núi đó. Sau này tình cờ trong câu chuyện của anh Quảng nòi với ai đó, tôi mới biết quê tôi ở phía sau lưng căn nhà, nghĩa là ngược với hướng của rặng núi. Khi thấy tôi đứng một mình như vậy, mấy người con gái của dì tôi lại gần tôi, gợi chuyện. Họ thích nghịch tóc tôi cũng như hay sờ cái giải quần tây của tôi. Có khi họ bỏ những viên kẹo vừng hay những miếng chè lam vào cái túi yếm trước ngực. Họ cũng thường rủ tôi chơi nhảy giây, chơi ô ăn quan, rải banh, đánh đũa... Tôi rất thạo những trò chơi con gái này vì suốt bao nhiêu năm, tôi chỉ có một người bạn duy nhất để chơi với là chị Băng. Nhưng tất nhiên tôi không chơi những trò chơi... con gái như thế với mấy người con gái của dì tôi. Họ đã chẳng từng kháo nhau rằng, tôi giống con gái đó sao. Tôi muốn chứng tỏ ngược lại. Tôi muốn nhắc nhở họ, tôi là con giai. Con giai chứ không phải con gái. Nhưng càng muốn chứng tỏ bao nhiêu, tôi càng thất bại bấy nhiêu! Bởi vì trước sự hỏi han săn sóc của họ, tôi luôn thấy tủi thân! Lúc nào tôi cũng chỉ muốn khóc. Dì Giám bảo: “Thằng Lãng thế mà mau nước mắt gớm. Chắc là dì cũng chả dám giữ mày ở đây lâu đâu. Hết hè dì trả mày về cho mẹ mày”. Đêm đó tôi cầu xin trời phật bắt dì phải giữ lời... Người con gái ngượng nghịu đưa cho tôi mấy bịch đường và nói: - Đường này, ông. Tôi cám ơn. Chập ba bịch đường lại xé một lần. Dốc hết vào ly cà phê. Tôi muốn bảo cô ta “đừng nhìn tôi nữa!” Tôi sợ những tia nhìn ân cần, thăm hỏi. Tôi sợ chỉ vì tôi thiếu thốn. Chỉ vì, lúc nào tôi cũng thèm khát những điều đó. Văn hỏi: - Anh hút thuốc gì? Tôi đáp “gì cũng được” và đưa ly cà phê lên miệng. Những ngày ở Guam, những ngày lênh đênh trên tầu biển của Mỹ tôi đã quen với vị lạt lẽo của cà phê bột. Nhưng bao giờ thì ngụm cà phê đầu tiên cũng làm tôi nhăn mặt. Văn đi mua thuốc lá, lúc này tôi mới nhìn rõ mặt người con gái. Nàng có một cái thẹo nhỏ nằm dưới khóe mắt một bên trái. - Nãy giờ hình như ông không nói tên ông? Câu nói đột ngột của người con gái làm tôi và, cả cùng bàn, ngỡ ngàng. Tôi hỏi lại: - Bộ cô chưa biết thiệt sao? Người thanh niên cận thị chen vào, vẫn rất kiểu cách, chỉ tay người con gái: - Đây là Vân. Em của nhà tôi. Tôi gật đầu với những tiếng “à... à...” lí nhí trong miệng. - Có thể tôi đã biết nhưng vẫn muốn được hỏi để nghe ông tự giới thiệu. Tôi thực sự sượng sùng. Trong đời tôi chưa một người đàn bà nào hỏi tôi như vậy. Cũng chưa một người đàn bà nào đẩy tôi vào tình cảnh tiến thối lưỡng nan như thế. Tôi nói với người anh rể của cô ta rằng, tôi muốn xin thêm một điếu thuốc nữa. Trước khi cúi xuống châm điếu thuốc mới bằng que diêm tự bật, tôi nói: - Tôi là Lãng. Cô cứ gọi tôi là Lãng. Lãng là đủ rồi. Người con gái mỉm cười với ánh mắt ranh mãnh. Hình như từ lúc tôi ngồi xuống bàn, đây là lần đầu tiên cô ta cười (hay lần đầu tiên tôi nhìn thấy cô ta cười, thì cũng vậy). Nụ cười của cô ta rất lạ. Tôi không diễn tả được. Nó cũng kỳ quặc như lối nói chuyện của cô. Còn một điều nên nói nữa theo tôi, là từ nụ cười kia, tôi có một cảm nhận, nếu ta gặp lại người này, không hiểu chuyện gì sẽ xảy ra? Tuy nhiên mặt khác, bỗng không tôi lại muốn ăn miếng trả miếng với cô. Chắc vì tôi vẫn còn sượng sùng với câu hỏi trước đấy. Tôi nói không đắn đo: - Nụ cười của cô làm tôi nhớ vợ tôi. Cô gái thản nhiên: - Thiệt hả ông... Lãng. Bà ấy đâu? Văn trở lại, ném bao thuốc Lucky trước mặt tôi. - Nhà tôi ở trại một. Bà ấy đang chờ tôi về đi ăn trưa. - Muộn rồi. Ăn trưa gì nữa. Văn không hiểu ất giáp gì, nhanh nhẩu đáp. Cô gái nhìn bằng cái nhìn cho thấy, với cô, lời nói của tôi chẳng có một giá trị gì! - Theo tôi thì ông nên chờ thêm vài tiếng... Đi ăn lúc này sẽ dở dang đấy. Cô nói. Tôi gật đầu. Chợt thấy mình trơ trẽn trước người con gái. Tôi nói: - Cô đừng quan tâm đến lời nói của tôi. Cô gái mỉm cười. Vẫn nụ cười kỳ quặc. Nhưng ánh mắt dịu dàng, chia xớt: - Vân được trời ban cho nhiều khả năng. Trong đó có khả năng đọc được ý nghĩa thực, giả của từng câu chuyện. Tôi nghe lòng mình nhẹ nhõm hơn. Cô tiếp: - Tối nay ông có xuống trại Tám? Tôi nhìn cô bằng đôi mắt dọ hỏi. Tôi chưa kịp ngạc nhiên. Cô gái đã cho biết, gia đình cô ở khu cuối căn lều đêm qua tôi đã ngủ. Tôi bảo “à ra thế”, và đáp, có thể tôi sẽ xuống trại Tám vào đêm trước ngày Văn đi. Câu chuyện xoay qua những người mới đến. Những người đã về và sẽ rời trại. Những địa danh mù mịt. Những phỏng đoán, hứa hẹn vô căn cứ... Lúc chia tay bên ngoài câu lạc bộ, người anh rể của Vân nói, anh ta thích cái quần Jean tôi đang mặc. Văn nói bán đi. Văn sẽ cho tôi hai cái quần khác. Đó là chiếc quần jean Thành Hiện Đại bán cho tôi từ nhiều năm trước. Chiếc quần jean nhiều túi màu máu bò. Chiếc quần jean và chiếc áo chemise xám là gia tài còn lại trên người tôi. Tôi trở nên chợ búa một cách khác thường, khi hất hàm hỏi: - Liệu anh trả được bao nhiêu? Anh ta nói: - Ba chục Văn gật gật bảo được. Tôi trả lời: - Mai anh lấy. Tôi quay qua Văn, nói, tôi sẽ chia cho anh hai phần ba. “Anh dùng tiền đó mà đi Washington...” - Anh còn muốn mua gì nữa chăng? Tôi trở lại với người thanh niên. Nhiều phần anh không thấy trong câu hỏi của tôi có điều bất ổn. Anh thật thà. - Anh còn gì? Tôi nói: - Cái đồng hồ mất nắp, nhưng vẫn còn chạy tốt. - Ngoài ra? Tôi hất mặt: - Chỉ còn... tôi. Mọi người cười ồ. Họ nghĩ tôi nói giễu. Chỉ Vân và Văn, hiểu tôi không giễu. Tôi nghĩ đến chuyện đêm nay phải khai thật với Nguyễn là tôi đã nhận lời bán chiếc quần jean duy nhất còn lại. Tôi lại nghĩ, hay sẽ nói dối? Nói đã cho Văn làm kỷ niệm? Chắc Nguyễn tin. Tôi chờ đợi tên kia nói thêm một câu gì đó. Tôi thực sự muốn gây chuyện. Văn đập đập vai tôi. Rất may người thanh niên bỏ đi. Tôi bảo Văn: - Thôi anh về. Văn gật đầu. Tôi đứng lại bên này đi xuống. Người đàn ông lần lần ngón tay theo đường thêu của bông hoa phía sau lưng người con gái. Nàng nói: - Em mua chiếc áo này ở Nhật. - Ăn mặc đối với người con gái là cả một nghệ thuật. Ở chỗ mặc sao cho người khác nhìn ngắm trong một khoảng cách nào đó, chứ không phải là tiến đến ngang hàng nhòm vào hay ngó xuống. Ít có người phụ nữ nhìn thấy và làm được điều đó. - Anh không thích cách ăn mặc của em? Người đàn ông lắc đầu: - Anh thích. Nếu chiếc áo này đừng quá dày. - Anh muốn em cởi ra? Người đàn ông lắc đầu: - Không. Em sẽ lạnh. Người con gái ngồi xích gần hơn người đàn ông. Nàng ngập ngừng: - Chắc anh không nhớ hôm nay là ngày... Người đàn ông không đáp. Người con gái tiếp: - Anh không có một món quà nào cho em? Người đàn ông cười buồn: - Anh không có thói quen mua quà sinh nhật. Dù cho ai. Người con gái xụ mặt. Đôi mắt nàng long lanh, muốn khóc. Người đàn ông đưa tay lùa dưới lớp tóc ngắn của nàng. Chiếc cổ nõn trắng và đôi vành tai xinh như đôi cánh bướm. Người con gái rùng mình vì sự mơn trớn của người đàn ông. Nàng kêu nhỏ: - Anh. Tạo. Người đàn ông vẫn im lặng, như thể chàng đang theo đuổi một ý tưởng hay một hình ảnh nào, ở một không gian khác. Bất thần người đàn ông kéo cổ người con gái xuống. Người con gái bất động. Nhắm mắt. Nàng gối đầu trên đôi chân người đàn ông duỗi thẳng. Đôi môi. Đôi môi. Đôi môi. Những tiếng nói đột ngột reo vang, va đập bốn bức vách tường căn phòng tâm trí trống trải của người đàn ông. Chàng cúi xuống. Ghì xiết. Người con gái muốn giẫy giụa. Nhưng nàng không thể thoát khỏi cánh tay mỗi lúc một xiết chặt hơn. Khi buông người con gái ra, Chàng gọi: - Kim. Ánh sáng chói lòa làm nàng nhíu mày. - Anh có một món quà cho sinh nhật Kim. Người con gái sung sướng. Nét rạng rỡ rất trẻ thơ nở trên đôi môi còn ướt. - Đó là một câu truyện. Người đàn ông nói tiếp. - Và em là người duy nhất được nghe? Người đàn ông gật đầu. Nắng và mưa đã ăn lên tới lưng chứng đồi. Khoảng cách giữa mưa và chỗ của hai người chỉ còn độ dăm bước. Người con gái nhắm mắt với đôi môi còn ướt. Tôi ngồi vào chiếc ghế chàng vừa bỏ đi. Hơi lạnh của đêm chưa kịp làm tan hơi ấm trên mặt nệm mặc dù hai tay ghế bằng sắt đã lạnh buốt. Tôi đếm từng đêm. Tôi đếm từng ngày. Tôi đếm kiên nhẫn, như con Đốm mỗi sáng mở mắt với câu hỏi đầu tiên, “Mẹ, bố đâu mẹ?” - Và cũng như con Đốm trước khi vào giường, vẫn một điệp khúc “Mẹ, bố đâu mẹ?” Tôi sống như thế. Lạnh lùng, trơ trốc, xương xẩu như những cây xương rồng khẳng khiu trồng trong chiếc chậu nhỏ, đã nhiều ngày không có một hạt nước. Tôi sông như thế, tật nguyền, què quặt, mù lòa, với từng sáng mở mắt trên chiếc giường mênh mông không một nếp chăn xô lệch, không hơi ấm, ngay cả chỗ tôi nằm. Ánh nắng lên từ khung cửa sổ. Chiếc gạt tàn vẫn chừng đó, mẩu thuốc. Bàn phấn phía tay trái vẫn chừng đó vật dụng, không suy suyển, không xáo trộn và tấm gương lớn dính vào bàn phấn kê sát tường, đã kiên nhẫn phóng lớn hình dung tôi. Hình dung tôi, mỗi sáng với đôi mắt một sâu thêm. Với mái tóc bớt đi những sợi đen. Với thân xác, cạn vơi dần hơi nước. Như thể sự hư hao không chỉ diễn ra trong mỗi thời kỳ mà nó đã xẩy ra từng giây phút. Tôi sống như vậy - và hiểu rằng không ai sống như vậy. Hiển nhiên không ai sống được như vậy. Tôi sống như vậy, rực rỡ trong nỗi đau thương tôi niềm kiêu hãnh nhọn hoắt. Mỗi đêm, những tiếng xe chạy qua và bỏ xa ngôi nhà. Tôi sống như vậy, tỉnh táo, tự tin đến mức tàn nhẫn với quá khứ tôi - và nỗi chờ đợi kế tiếp. Chàng đã xa. Chàng đã khuất. Không bao giờ. Chẳng một lần nào nữa. Ngôi nhà này. Đứa con tôi. Tiếng nói nọ. Tôi như thế. Chọn đứng trên những cọc nhọn. Và mỗi đêm, kinh nhật tụng của tôi là một đoạn thơ của ai đó dội đập, qua lại không dứt giữa hai bờ tường kỷ niệm và quá khứ. Mỗi tối đêm ta nghe rung dậy một hồi chuông Thổi run rẩy những lệ sáp héo hon nhỏ xuống Trên ngọn cây ta tàn tạ Chút bông nõn mất dấu bao năm Bỗng trở về bay ra một sợi tơ vàng ánh Biết tay người hứng kịp Cuộn lt mùa xanh như ngọc?
Ra mắt tôi
Hạnh phúc tôi riêng
Phục sinh chàng
Cõi mưa tan
Pho tượng
Còn ai lắng tai nghe
Tan theo ngày nắng vội
Ông Mèo Rừng
---~~~mucluc~~~--- ---~~~cungtacgia~~~---
Một Vầng Trăng Đã Khuyết
Sân Trường Mắt Biếc
Tan theo ngày nắng vội
!!!14009_12.htm!!!te; được làm cái công việc nhỏ mọn, như điên khùng trong ý nghĩ của những người phụ nữ Việt Nam sau vài năm ở cái xứ sở văn minh này. Tôi tin không một người đàn bà nào có thể nghĩ hay tưởng tượng được rằng, mơ ước lớn lao nhất của tôi trong những năm tháng còn lại của đời mình, chỉ là một buổi tối, ngồi vào bàn. Xới cho chàng những chén cơm đầy. Ép chàng ăn thêm một miếng đậu phụ rán. Ép chàng ăn thêm một thìa canh cải bẹ xanh. Tôi không đủ sáng suốt nhớ lại buổi tối nào là buổi tối cuối cùng? Sau đấy, tôi đã mất. Mất hết - dù chỉ là một buổi tối ngồi chờ để xới cho chàng những chén cơm. Tôi tin không một người đàn bà nào có thể nghĩ hay tưởng tượng, tôi sẵn sàng đánh đổi hết - Từ chối tất cả để cho con tôi, con Đốm, một lần ngủ trong lòng bố nó. Nhưng mà - dường như đã lâu lắm - con Đốm không được một lần thêm, thở hít hơi hướm của Bố. Tôi biết tôi là một người đàn bà điên khùng. Tôi là một người phụ nữ mất trí. Nhưng mặt khác tôi cũng biết từ mười năm trước, tôi không thể đổi khác, một buổi chiều khi chàng khai sinh, cùng lúc giết chết đời tôi. Tôi bằng lòng, tôi hãnh diện với sự mất trí của tôi. Tôi muốn như tôi đã là, giòng-suối-xưa, như một tấm gương cho con Đốm. Bởi vì tôi sẽ chẳng thể nói được với con tôi điều gì khác hơn: “Đốm là con của bố”. Bởi vì tôi chẳng thể chối trước mặt con Đốm: “Mẹ yêu bố”. Dù cho chàng đã chẳng con là chàng-quê-cũ. Khu vườn nhỏ còn thoảng mùi thuốc hút của chàng. Đã bao tháng khu vườn không một lần thoảng mùi thuốc của chàng. Tôi ngồi như thế. Chỗ ngồi chàng bỏ lại. Tôi ngồi như thế, khuya xuống cùng sương lạnh. Và mưa tưởng đã không còn chạy trên mái gạch. Trong tay tôi ly cà phê còn ấm. Màu cà phê còn sánh. Nhưng tôi cũng biết, chẳng cách nào tôi có thể giữ mãi chút hơi ấm còn sót nơi ly cà phê cũng như chẳng cách nào tôi có thể ngăn cản hừng đông đừng bước tới. Mặt khác, tôi lại biết rõ ràng rực rỡ tôi, chính là quạnh quẽ này. Đớn đau tôi, chính là ngọc chân thiết muôn đời không tỳ vết. Chàng không còn là mây Thôi em đừng gió nữa... Bố. Em chẳng bao giờ còn gió nữa đâu. Bố biết mà. Có còn chăng chỉ là khối ngọc chân thiết không tỳ vết ngày nào, gửi cho Bố, như là tặng phẩm cuối cùng của em dành nốt cho Bố. Cho cạn vắt một giòng khô. Tuyệt trọn một đời người. Rất riêng. Tôi nói: - Có những lúc người ta như một con thú. Và tôi đã là một con thú ở những ngày vừa qua; cũng như sẽ còn ở ngày kế tiếp. Quỳ ngồi nhích sát thêm, ngã đầu vào vai tôi yên lặng. Hành động của Quỳ cho tôi cảm tưởng Quỳ đã chuẩn bị trước, giây phút này. Chí ít, Quỳ cũng đang trên đường đi tìm giây phút đó. Quỳ hỏi: - Ở tuổi nào người ta mới được phép yêu hở chú Lãng? Câu hỏi cũng ngột ngạt như sự việc vừa xảy ra. Tôi châm một điếu thuốc mới để có đủ thì giờ đem tâm trí mình trở lại như cũ. Qua làn khói, khi nhìn xuống mặt Quỳ, tôi thấy một vết đỏ có thể là kết quả cái hôn điên dại của tôi. Tôi nói: - Không thể dứt khoát là tuổi nào. Nhưng cũng không nên khi còn quá nhỏ. - Thế nào là quá nhỏ? - Như Quỳ hiện tại - Quỳ sắp mười sáu. Quỳ nói với tất cả hài lòng. Tôi muốn ra khỏi câu hỏi mà tôi không thể trả lời một cách thỏa đáng cho Quỳ; cũng như tôi không thể trơ trẽn đóng vai một nhà đạo đức khi mới vài phút trước đó là những gì có thể coi là thiếu... đạo đức. Tôi lảng qua chuyện khác: - Quỳ đọc được bài thơ đó ở đâu? - Trên báo. - Quỳ thích vì thích, hay vì Quỳ đã sống trong cảnh ngộ ấy. - Cả hai. Chú Lãng. Lúc này dường như ký ức tôi đã làm việc tốt trở lại. Tôi nhớ bài thơ đó làm cho Nguyễn, khi Nguyễn quyết định xa tôi. Tôi nhớ những sinh nhật của Thụy rất buồn. Tôi không có một món quà nào cho nàng.Tôi nhớ cá nhân tôi chưa từng có sinh nhật. Một lần nào đó, đón Nguyễn ở trường, lúc đã ngồi yên sau chiếc xe honda của tôi, Nguyễn nói: “Hôm nay, sinh nhật bố”. Nguyễn là người đầu tiên và duy nhất, nhắc nhở tôi, cho tôi thấy, tôi cũng có ngày để gọi là sinh nhật. Gió tạt ngược lời nói của Nguyễn về phía sau. Nhưng tôi vẫn cảm được trong Nguyễn niềm hân hoan và, hạnh phúc có phần cay đắng. Tôi nhớ tôi nói: “Bố sốt sang đến ngày thứ năm”. Nguyễn bấu những ngón tay móng nhọn xuống đùi tôi. Lát sau nàng bảo: “Em muốn Bố cho em vào Chợ Lớn”. Nguyễn mở miệng nói về một điều bấy lâu tôi ngỡ chỉ một mình tôi muốn. Chiều đó mưa. Chúng tôi nằm với nhau trên một cao ốc. Giữa một không khí xa lạ, chỉ phải nghe những ngôn ngữ xa lạ. Khi bài thơ được phổ biến, Nguyễn đã rời thành phố. Tôi tin Quỳ nói thật. Tôi biết có những người con gái sống với một ảo tưởng bi thảm do chính họ vẽ nên. Lâu dần, họ tưởng họ đã thực sự, nhiệt tình ở trong thảm kịch ấy. Nhưng Quỳ có thực sự ở trường hợp này? Một đứa con gái mới mười lăm tuổi mà đã phải sống với cái cảnh tượng “Nến đau đớn thắp lên đầy cuộc vui”, quả thật, tôi không thể hiểu nổi. Tôi muốn bửa óc Quỳ, tôi muốn moi tim Quỳ ra để được thấy tận mắt đó là nỗi đau đớn nào? Đó là niềm bi thảm nào? Và tại sao, những giọt nến kia đã chảy? Tuy vậy, tôi bảo: - Đừng quá bi thảm một sự kiện. Chẳng có điều gì đáng gọi là tận cùng, trừ cái chết. Chỉ có sự chết mới thật sự tận cùng thôi. Quỳ ngồi thẳng người lại lúc có vài bóng người băng qua thung lũng trên con đường mòn phía xa. - Vâng, Quỳ sẽ nghe lời chú. Nhưng có những thảm kịch tự nó đã đủ đến độ người ta không cần phải bi thảm hóa nữa. Căn bản nó đã như không thực rồi. Quỳ nói bằng một giọng lạnh lùng, thản nhiên như một người đàn bà năm mươi nói về một giai đoạn quá khứ đã hút xa của mình. Tôi lay mạnh đôi vai Quỳ. Mắt Quỳ trừng trừng nhìn về phía trước. Lúc tôi chồm tới nhìn sâu vào mắt Quỳ, mới biết Quỳ đang khóc! Tôi thấy rõ tôi bất lực và đớn hèn như đêm nào cúi đầu, quay lưng để Nguyễn ra đi. Quỳ quay lại nhắc nhở tôi: - Chú Lãng đừng quên cái hẹn. Tôi gật đầu nhưng không thể cử động. Quỳ tiếp: - Quỳ chờ chú ở đây. Tôi vớt vát một cách giả dối: - Hay Quỳ đi ăn với chú? Quỳ lắc đầu: - Quỳ đã no từ lúc... gặp chú. Tôi đứng lên. Buổi trưa nghiêng theo độ dốc của triền đồi. Những cành xồi khô gẫy vụn dưới chân tôi. Tôi tìm ra Nguyễn không phải trong cái đuôi mà ở một gốc cây. Nàng đang tựa lưng, mệt mỏi nhìn về bến xe buýt. Tôi nói trong hổ thẹn: - Bố đi bộ nên về trễ. Nguyễn ôm ngang bụng tôi. Nàng không chút nghi ngờ: - Có xe buýt sao bố không đi? - Bố ngại đợi. Bố có đợi, mà lâu quá. Nguyễn thọc cả hai tay vào túi áo khoác. Tôi quàng tay qua cổ nàng. Tôi nghe ấm ở phần cánh tay được phủ che bởi mái tóc dài. Chúng tôi là người sau chót của cái đuôi xếp hàng đi ăn trưa hôm đó. Tôi bỏ gần hết phần ăn của mình. Ngay cả quả táo tôi cũng không nuốt nổi. Hình ảnh, những lời nói của Quỳ nhịp mãi trong đầu tôi, mỗi lúc một mạnh và nhanh hơn. Nguyễn nhận ra sự bất thường này. Nàng hỏi: - Bố sao thế? Tôi đáp: - Chắc bố muốn đau. Nguyễn lo lắng: - Ăn xong bố về barrack ngủ một chút. - Em có ngủ với bố không? Tôi hỏi. Nguyễn cười. Nụ cười tinh quái. Nguyễn đoán sai ý nghĩa câu nói của tôi. Nàng đáp: - Em mới ngủ cả sáng hôm qua. Thôi để bố ngủ. Em đi thăm chị Quảng và chơi với mấy đứa nhỏ. Tôi đáp: - Ừ. Cũng được. Tôi chạy băng băng từ barrack xuống thung lũng. Với khoảng cách ấy, nếu tôi đi một cách thong thả cũng chỉ mười phút hơn mà thôi. Dọc đường tôi nghĩ “chắc Quỳ đã bỏ đi”, “Quỳ không thể một mình dưới thung lũng lâu thế”. Ý nghĩ thoáng qua này làm tôi chậm lại. Nhưng sau đấy tôi lại chạy nhanh hơn. Quỳ vẫn còn đó. Quỳ ngồi vào chỗ ngồi cũ của tôi. Quỳ đang bưng mặt. Tiếng chân làm Quỳ mở ra đôi bàn tay. Tôi ngồi xuống, đưa cho Quỳ trái táo. Quỳ vuốt ve trái táo, không ăn. Tôi nhích sát Quỳ hơn, bảo: - Quỳ ăn một chút đi. Tôi có cảm tưởng như giữa tôi và Quỳ đã có một thứ tình cảm sâu đậm từ nhiều năm trước. Quỳ lắc đầu: - Quỳ nói rồi mà. Có lẽ đấy là lần đầu tiên Quỳ ra khỏi cái vỏ mà Quỳ cố tạo cho mình. Giọng Quỳ trẻ thơ, có âm vang của những chiếc khánh treo trước cửa nhà vào dịp trung thu hay những ngày Tết. Tôi đùa: - Bé con mà bướng gớm! Quỳ nhăn mũi: - Chưa đâu. Rồi chú sẽ biết. Chú sẽ phải sợ nhỏ cho mà coi. Tôi gật đầu: - Chú sợ Quỳ ngay từ câu nói đầu tiên. Mặt Quỳ đang tươi bỗng trùng lại: - Quỳ vẫn muốn chú trả lời câu hỏi lúc nãy. Tôi cảm thấy tự nhiên và thoải mái hơn: - Sự thực thì ở tuổi nào người ta cũng có được quyền yêu hoặc có tình yêu. - Vậy thì vấn đề là ở chỗ nào? Quỳ hỏi tới. Tôi ngập ngừng vì chưa bao giờ tự đặt cho mình câu hỏi ấy. Thêm nữa trong mắt tôi, Quỳ vẫn còn quá nhỏ. Tôi nói lập lờ: - Tùy từng qua niệm. - Thế quan niệm nào là quan niệm của chú? Cô bé thông minh hơn mình tưởng. Tôi nghĩ, thấy tốt hơn phải thận trọng. Tôi đáp: - Đời sống không có tuyệt đối. Chân lý cũng chưa hẳn đã là một. Duy chỉ có tình yêu là tuyệt đối, là duy nhất. - Chú nói như với một người bạn. Tôi hỏi ngạc nhiên: - Thì chú chẳng đang nói chuyện với một người bạn sao? Quỳ hóm hỉnh: - Một người bạn nhỏ. Rất nhỏ, chú đừng quên. Tôi cầm lên bàn tay chưa có một vết nhăn, bàn tay đầy những bông hoa sữa ửng hồng dưới làn da trắng xanh: - Chú muốn nói trong thế giới tình yêu chỉ có A hoặc B. Chỉ có sống hoặc chết. Tình yêu không có chỗ cho bất cứ một dung hòa, một thỏa hiệp nào tỷ như nửa sống, nửa chết. Quỳ tỏ dấu nhận hiểu có thể nhiều hơn những điều tôi nói. - Còn nhỏ mà sớm có những rung động có phải là một điều tội lỗi hay đáng xấu hổ không? Quỳ hỏi. Tôi nhìn thẳng vào mắt Quỳ: - Rung động đầu ti&
Một Vầng Trăng Đã Khuyết
Sân Trường Mắt Biếc
Tan theo ngày nắng vội
http://eTruyen.com