Chương 11
1

    
heo kinh nghiệm, Crawford biết cơn giận dữ khiến phụ nữ trở nên thô tục. Cơn điên loạn làm cho tóc họ dựng đứng lên, mặt đỏ như gấc, và có khi họ quên cả việc kéo dây quần lên. Điều đó làm nổi bật các nét xấu xa của họ. Clarice không hề thay đổi sắc diện khi cô mở cửa ra nhưng cô lại đang giận dữ.
Crawford chợt hiểu là ông chưa hiểu một tí về cô cả.
Một làn không khí ấm áp mang theo mùi thơm của xà bông bay vào mặt ông khi cô xuất hiện ngay thềm cửa.
- Cô nghĩ sao, Starling?
- Thật khốn nạn. Thế còn ông, ông Crawford, ông nghĩ gì?
Ông hất đầu ra hiệu cho cô đi theo ông.
- Tiệm tạp hóa ở góc đường đã mở cửa. Chúng ta đến đó uống cà phê đi.
Thời tiết của buổi sáng này không lạnh lắm. Mặt trời mới ló ra khỏi đường chân trời, nhuộm đỏ mặt tiền của dưỡng trí viện khi họ đi ngang qua đấy. Jeff chạy xe chầm chậm theo sau, luôn theo dõi hệ thống điện thoại.
- Tôi có thể nào đệ đơn thưa Chilton về tội cản trở nhân viên công lực không?
- Không được, sẽ không có kết quả gì đâu.
Clarice bước đi trước ông một chút. Ông thấy mặt cô đanh lại khi cô nói:
- Nhưng nếu vì ông ta mà Catherine chết thì sao? Tôi thật sự muốn ông ta phải trả giá cho việc này... Xin ông để tôi tiếp tục đi, đừng trả tôi về trường.
- Tôi muốn nói cho cô hai điều, Starling. Nếu tôi giữ cô lại, không phải để bắt Chilton trả giá, chuyện đó để sau hãy tính. Điều thứ hai là cô sẽ lỡ các bài thi của cô. Điều này sẽ làm cho mất thêm vài tháng. Cô biết là trường không bao giờ ưu ái bất cứ ai. Tôi chỉ có thể hứa với cô là người ta sẽ thu nhận cô lại mà thôi. Sẽ có một chỗ dành cho cô, đó là điều duy nhất mà tôi có thể hứa với cô.
- Sẽ không tế nhị khi đặt câu hỏi này cho cấp chỉ huy của mình, nhưng hiện giờ ông đang gặp rắc rối, phải không? Bà Thượng nghị sĩ có thể hại ông không?
- Này Clarice, tôi phải về hưu trong hai năm nữa. Cho dù tôi có tìm được Jimmy Hoffa và tên sát nhân bằng Tylenol, tôi vẫn phải nghỉ như thường. Vì thế việc không còn quan trọng nữa.
Crawford biết là mình ước ao sự khôn ngoan và ngờ vực sự ham muốn. Một người đàn ông có tuổi, luôn muốn tỏ ra đứng đắn và cái khôn ngoan giả tạo đó là chết người đối với một người bạn trẻ đang đặt niềm tin vào ông. Vì thế ông chỉ có thể nói những gì ông biết thôi.
Những gì ông đang nói với cô trên con đường tồi tàn của Baltimore, ông đã học được tại Triều Tiên, trong những buổi bình minh lạnh cóng của một trận chiến trước khi cô ra đời. Ông không nói về Triều Tiên, ông không cần phải khẳng định uy quyền của mình.
- Cô đang sống trong một khoảnh khắc khó khăn nhất của nghề nghiệp chúng ta, Clarice à. Cô hãy nhớ lấy, vì nó sẽ giúp cô rèn luyện ý chí của mình. Điều khó nhất là đừng bao giờ để sự phẫn nộ và ức chế làm cho mất đi tư duy. Ngoài chuyện đó, cô sẽ biết là mình có thể chỉ huy được hay không. Điều tệ hại hơn là tình trạng rối ren và sự ngu xuẩn. Chilton là một tên khốn nạn vứt đi và sự can thiệp của ông ta có thể làm cho Catherine Martin mất mạng, nhưng cũng có thể là không. Chúng ta là hy vọng duy nhất của cô gái đó. Nào Starling, trong phòng thí nghiệm, nhiệt độ của khí nitơ lỏng là bao nhiêu?
- Xin lỗi? À nitơ lỏng... thấp hơn hai trăm độ C một chút, nó sôi ở nhiệt độ cao hơn một chút.
- Cô có lần nào làm thử thí nghiệm đông lạnh chưa?
- Có chứ.
- Tôi muốn cô làm đông lạnh một cái này. Là việc mà Chilton đã làm. Cô hãy giữ kín thông tin mà cô nhận được từ Lecter và làm đông lạnh các cảm xúc của mình. Tôi muốn cô chăm chú hướng đến mục đích, Starling. Tất cả những thứ khác không đáng kể. Cô đã làm việc cật lực để có được chúng, cô đã phải trả giá cho chúng, cô đã nhận được chúng, vì thế bây giờ cô hãy dùng chúng đi. Chúng cũng có giá trị, hoặc không là gì cả, trước khi Chilton xen vào. Có thể chúng ta sẽ không còn rút được bất cứ gì từ Lecter. Hãy dùng những gì cô biết được về Buffalo Bill và quên hết những thứ khác. Điều lãng phí là cô đã đánh mất sự phẫn nộ của mình. Hãy quên những điều này đi. Khi nào chúng ta có thời gian, chúng ta sẽ nện cho Chilton một trận. Quên hết những thứ này đi và để ông ta qua một bên. Chừng đó cô sẽ thấy rõ mục đích của mình, Starling à. Mạng sống của Catherine Martin, mảnh da của Buffalo Bill đóng dính trên cánh cửa nhà kho. Hãy mở mắt to hướng đến mục đích. Chừng nào cô làm được việc này, tôi sẽ giao cho cô một nhiệm vụ.
- Phụ trách các hồ sơ y khoa?
Họ đã đến cửa hàng tạp hóa.
- Chỉ khi nào các bệnh viện tư thoái thác trả lời và buộc chúng ta phải tịch thu các hồ sơ đó. Không, tôi cần cô đi Memphis hơn. Phải hy vọng Lecter khai ra một cái gì đó hữu ích cho bà Thượng nghị sĩ Martin. Nhưng tôi muốn cô có mặt tại chỗ, ai biết được, có thể ông ta chán đùa giỡn với bà ta rồi và không chừng sẽ nói cái gì đó cho cô. Trong lúc chờ đợi, hãy cố tìm hiểu con người Catherine và tại sao Bill lại phát hiện ra cô ta. Cô chỉ hơi lớn tuổi hơn cô ta một chút và mấy người bạn cô ta sẽ dễ dàng khai với cô hơn là cho một ai đó giống một tên cớm.
- Công việc còn lại vẫn đang tiếp diễn. Interpol đang cố nhận diện Klaus. Điều này giúp chúng ta có một cái nhìn về những mối quan hệ của hắn tại châu Âu và California, nơi mà hắn hưởng tuần trăng mật với Raspail. Tôi sẽ trở lại Trường Đại học Minnesota, vì chúng ta đã có một bước sai lầm tại đó, và đến chiều tối tôi sẽ về Washington. Tôi đi lấy cà phê đây, còn cô hãy gọi Jeff vào đây. Trong bốn mươi phút nữa, cô lên đường.
Ánh mặt trời đỏ rực đang chiếu đều phân nửa trên các trụ điện. Lề đường vẫn là màu tím. Clarice đưa tay ngoắc Jeff vào.
Cô cảm thấy nhẹ nhõm. Crawford quả thật rất giỏi. Cô biết câu hỏi về nitơ lỏng là một cách tán thưởng sự hiểu biết về pháp y của cô, một cách để làm cho ông ta vui lòng và khởi phát một phản xạ mà cô học được cách chế ngự ý nghĩ của mình. Cô không biết cánh đàn ông có thể nào nhận ra được sự tinh tế của trò đó không. Cũng lạ là việc này xảy ra suôn sẻ và cái năng khiếu chỉ huy cũng là một món quà độc hại.
Có ai đó đi ra khỏi Bệnh viện quốc gia Baltimore. Là Barney, thân hình còn to lớn hơn trong áo blouse. Trên tay anh ta có cầm một cà mên.
- Chờ tôi năm phút - Clarice thốt lên với Jeff đang đứng chờ cô. Cô bắt kịp Barney khi anh ta vừa mở cánh cửa của chiếc xe Studebaker cũ kỹ.
- Barney.
Anh ta quay lại nhìn cô với khuôn mặt vô hồn. Đôi mắt anh hơi to hơn bình thường một chút. Anh đứng thẳng người trên đôi chân hơi dang ra.
- Bác sĩ Chilton nói là anh sẽ không gặp rắc rối gì hết, phải không?
- Ông ta có thể nói gì khác hơn chứ.
- Anh tin thế sao?
Anh ta không nói không rằng.
- Tôi muốn nhờ anh làm một việc này. Làm ngay và không được hỏi. Tôi yêu cầu anh đấy. Trong phòng của Lecter còn lại những gì?
- Hai hay ba quyển sách gì đó, Niềm vui nấu ăn, các tạp chí y khoa. Họ đã đem hết giấy tờ của ông ta đến tòa án rồi.
- Còn những hình vẽ trên tường?
- Vẫn còn đấy.
- Tôi muốn lấy tất cả những thứ đó, và khẩn cấp đấy.
Anh ta nhìn cô một lúc.
- Cô đứng yên đây, - anh nói và bỏ chạy thật nhẹ nhàng đối với một người to con như thế.
Crawford đã ngồi chờ trên chiếc xe tải khi Barney trở ra với các hình vẽ, báo chí và sách được bỏ trong một túi giấy.
- Cô có tin là tôi biết có một micro được gắn trong cái bàn mà tôi đem lại cho cô không? - Barney hỏi trong khi trao cái túi cho Clarice.
- Tôi phải suy nghĩ đã. Bút đây, anh hãy ghi cho tôi số điện thoại của anh trên túi này đi. Barney, anh có nghĩ là họ sẽ biết cách đối xử với Bác sĩ Lecter không?
- Tôi nghi lắm và tôi có nói với ông Chilton về việc này. Đừng quên là tôi cũng có nói với cô việc này, phòng trường hợp ông ta quên béng nó đi mất. Cô Starling, tôi rất tin ở cô. Mà này, khi nào cô bắt được cái tên Buffalo Bill...
- Thì sao?
- Xin cô đừng mang hắn đến đây, chỉ vì tôi còn một phòng trống, đồng ý không? - Anh mỉm cười. Anh ta có răng nhỏ như răng con nít vậy.
Clarice cười trả một cách miễn cưỡng. Cô bỏ chạy và quơ tay ra phía sau.
Crawford có vẻ hài lòng lắm.
 

- Tôi có thể giúp gì cho cô không? - Người cảnh sát viên trẻ hỏi.
- Cảnh sát đã hoàn tất công việc ở đây chưa?
- Căn hộ đã được trả cho gia đình rồi. Tôi có mặt ở đây để canh điện thoại thôi. Cô có thể làm bất cứ điều gì cô muốn.
- Tốt lắm, tôi sẽ xem qua căn hộ một lượt.
- Đồng ý. - Nói xong anh ta ngồi xuống cái đi văng cạnh đó và cầm tờ báo lên đọc tiếp.
Clarice cần phải tập trung. Cô rất muốn được khám xét căn hộ một mình, nhưng cũng may là căn hộ không đầy ắp cảnh sát.
Cô bắt đầu từ nhà bếp. Nó không được trang bị cho nghệ thuật nấu ăn. Catherine xuống đây để lấy bắp rang, người bạn trai cô ta cho biết như thế. Clarice mở tủ đông ra. Có hai bịch bắp rang dành cho lò vi ba. Từ cửa sổ, người ta có thể nhìn thấy bãi đậu xe.
- Cô từ đâu đến?
Ngay lúc đó Clarice không trả lời câu hỏi.
- Cô từ đâu đến?
Viên cảnh sát nhìn cô qua tờ báo.
- Từ Washington.
Dưới bồn rửa, phải, khớp nối bị trầy, chắc họ đã tháo nó ra để kiểm tra. Một điểm tốt cho FBI. Dao được mài sơ sài, thùng rác chưa được đổ. Trong tủ lạnh chỉ có phô mai trắng và một đĩa xà lách trái cây được bảo quản trong dịch chân không. Có lẽ Catherine đi mua thức ăn tại siêu thị ngay góc đường. Mà ở đó có thể có người bảo vệ đêm, một điểm đáng được kiểm tra.
- Cô làm việc cho Bộ Tư Pháp à?
- Không, cho FBI.
- Ông tổng chưởng lý sắp đến đây, người ta bảo tôi như thế. Thế cô làm việc cho FBI lâu chưa?
Có một vật hình cải bắp bằng cao su trong ngăn đựng rau. Clarice mở ra, không có gì.
- Cô ở trong FBI lâu chưa?
Clarice quay qua người cảnh sát viên trẻ.
- Nghe đây, có thể tôi sẽ cần hỏi anh vài câu, sau khi tôi khám hết căn hộ này. Có thể anh giúp được đấy.
- Tốt thôi, nếu tôi có thể...
- Đồng ý. Đến lúc đó chúng ta sẽ nói chuyện sau, nhưng bây giờ tôi cần suy nghĩ.
- Không thành vấn đề.
Phòng ngủ thật sáng sủa. Một không khí ấm áp thích hợp cho giấc ngủ, làm cho Clarice hài lòng. Bàn tủ và các loại vải vóc thuộc loại đắt tiền mà ít người có thể mua được. Có một bức bình phong bằng sơn mài của Coromandel, hai bình sứ trên kệ và một bàn làm việc thật trang nhã bằng gỗ hồ đào có vân tuyệt đẹp. Một cặp giường đôi. Clarice giở tấm phủ giường lên. Chỉ có giường bên trái được gắn bánh xe. Chắc Catherine kéo nó lại gần cái kia mỗi khi cô ta muốn. Có thể cô ta có một nhân tình khác mà người bạn trai không biết. Hoặc có thể có khi họ sống chung ở đây. Máy trả lời điện thoại không có hệ thống báo từ xa. Như vậy cô ta phải có mặt ở đây mỗi khi mẹ cô gọi.
Máy này cùng kiểu với máy của cô. Cô mở nắp lên, hai cuộn băng đã bị lấy đi. Thay vào đó có mảnh giấy ghi: Băng đã bị FBỊ tịch thu.
Phòng ngủ được dọn dẹp khá kỹ lưỡng, nhưng người ta vẫn có thể cảm nhận sự hiện diện của các điều tra viên với những bàn tay thô kệch của họ khi muốn sắp xếp lại mọi thứ y như cũ, nhưng đã làm không tốt việc đó. Clarice nhận ra ngay người ta đã lục tung căn phòng cho dù không có các vết phấn lấy dấu tay còn sót lại trên các mặt phẳng.
Chắc chắn là không có chuyện gì xảy ra trong phòng này. Một điểm nữa cho Crawford: Catherine đã bị bắt ngoài bãi đậu xe. Nhưng Clarice muốn tìm hiều về Catherine và cô ta ở ngay trong căn hộ này. Cô ta ở đây, Clarice lặp lại.
Trong ngăn tủ của bàn ngủ, có một quyển niên giám, một hộp khăn Kleenex, một túi vệ sinh cá nhân và đằng sau cái này là một máy chụp hình Polaroid với hệ thống chụp tự động được gắn sẵn cùng một giá ba chân được rút ngắn lại. Hhhuùummm. Clarice chăm chú quan sát máy ảnh nhưng không đụng vào nó.
Cô chú ý đến tủ quần áo nhiều hơn. Catherine Baker Martin có nhiều quần áo và một số thuộc hàng cao cấp. Clarice nhận ra gần hết các hiệu, trong đó có hai hiệu ở Washington. Chắc là quà của bà mẹ đây, cô tự nhủ. Clarice đoán đây là những bộ quần áo cổ điển tương xứng với hai số đo cho những người to con từ sáu mươi lăm đến bảy mươi lăm ký, vài cái quần và áo len đan dài tay, được mua trong các cửa hàng dành cho những người phụ nữ to con. Có tất cả hai mươi ba đôi giày, bảy của Ferragamo, cỡ bốn mươi, vài đôi Reebok và vài đôi giày mọi mòn gót. Một túi đeo lưng nhỏ và một vợt tennis được để trên kệ trên.
Đồ đạc của một đứa con gái được ưu đãi, vừa là sinh viên vừa dạy học, có nếp sống sung túc hơn phần lớn chúng bạn.
Một tá thư từ trong bàn làm việc. Mấy mảnh giấy nhắn tin nhỏ của đám bạn học cũ ở miền Đông. Một số tem và nhãn. Giấy gói quà để ở trong ngăn tủ dưới, với màu sắc và hình vẽ khác nhau. Cô đang nghĩ đến những câu hỏi mà cô sẽ đặt cho những nhân viên siêu thị khi các ngón tay cô đụng vào một miếng giấy cứng và dày hơn. Quá quen với việc phản ứng lại trước bất cứ gì không bình thường, cô rút nó ra được phân nửa rồi nhìn vào. Đây là một loại giấy chậm xanh có trang trí một hàng chó Pluto được bắt chước một cách vụng về. Một hàng chó con màu vàng với kích cỡ khác nhau.
- “Catherine ơi, Catherine!” - Clarice thốt lên. Cô lấy một cái kẹp trong túi xách và gấp tờ giấy này bỏ vào trong một túi nylon trong suốt, và tạm thời để nó xuống giường.
Hộp nữ trang trên bàn trang điểm được làm bằng da có đóng hiệu; người ta có thể nhìn thấy những cái giống tương tự trong phòng ngủ nữ sinh. Ngăn bí mật trống rỗng. Cô tự hỏi không biết những ngăn bí mật này được làm cho ai, chắc chắn không phải cho bọn trộm rồi. Cô luồn tay dưới cái hộp này và các ngón tay đụng phải một bao thư được dán dưới ngăn kéo.
Cô mang đôi bao tay bằng côtông, lật cái hộp lại và kéo ngăn tủ ra. Một bao thư bằng giấy nâu được dán bằng băng keo dính vào đó. Nắp bao thư không dán. Cô đưa cái bao thư sát lại mũi mình. Người ta chưa rắc bột lấy dấu tay lên đó. Clarice dùng nhíp nhổ lông để gắp mảnh giấy bên trong ra. Có tất cả năm tấm hình và cô lấy xem từng cái một. Năm tấm hình này đều chụp một người đàn ông và đàn bà đang làm tình. Người ta không thấy mặt và đầu. Hai trong số này do người phụ nữ chụp, hai do người đàn ông, còn cái thứ năm chắc máy được gắn trên giá ba chân đặt cạnh bàn ngủ.
Thật khó nhận biết được tỷ lệ xích của một tấm ảnh, nhưng với cái vóc dáng dềnh dàng và sáu mươi lăm ký của cô ta, người phụ nữ này chắc hẳn là Catherine Martin. Hình chụp không được rõ lắm để có thể nhận diện người đàn ông. Nhưng người ta có thể biết người này đã được mổ ruột thừa. Clarice bỏ hết mấy tấm hình vào trong một túi nylon khác và để vào trong bao thư nâu của mình. Cô để ngăn tủ kéo lại như cũ.
- Tôi đã cất hết những gì có giá trị trong túi xách của tôi rồi - một giọng ở sau lưng cô vang lên. - Tôi không nghĩ người ta đã lấy một cái gì đó.
Clarice nhìn vào trong gương. Bà Thượng nghị sĩ Martin đang đứng ngay cửa phòng. Bà ta có vẻ kiệt sức. Clarice xoay người lại.
- Xin chào bà. Bà có muốn nằm nghỉ không? Tôi cũng gần xong rồi.
Dù cho đang rã rời, người phụ nữ này vẫn ngoan cường. Clarice nhận ra bà là một người chiến sĩ.
- Nhưng cô là ai mới được? Tôi nghĩ cảnh sát đã xong việc rồi.
- Tôi là Clarice Starling của FBI. Thế bà đã nói chuyện với Bác sĩ Lecter chưa?
- Ông ta có cho tôi một cái tên. - Bà thượng nghị sĩ đốt một điếu thuốc và khinh bỉ nhìn cô từ chân đến đầu.
- Chúng tôi sẽ xem xét nó đáng giá như thế nào. Cô tìm được cái gì trong hộp nữ trang vậy? Nó có một giá trị nào không?
- Vài văn kiện mà chúng tôi sẽ kiểm tra trong vài phút. - Clarice chỉ biết trả lời có vậy.
- Trong hộp nữ trang của con gái tôi à? Nào hãy đưa tôi xem đó là gì.
Clarice nghe nhiều tiếng nói trong phòng kế bên, và cô hy vọng sẽ có người đến để cắt ngang tình trạng này.
- Có phải nhân viên Copley của văn phòng Memphis đi cùng bà không?
- Không và đó không phải là câu trả lời. Không muốn xúc phạm cô, nhưng tôi muốn được xem những gì cô đã lấy từ trong hộp nữ trang của con gái tôi. - Rồi bà xoay đầu ra sau gọi - Paul, Paul, anh có thể đến đây không? Nhân viên Starling, tôi xin giới thiệu với cô, ông Krendler của Bộ Tư Pháp. Paul, đây là cô gái mà Jack Crawford đã phái đến gặp Lecter.
Chỗ đầu hói của Krendler đã đổi sang màu nâu và ông ta có vẻ khỏe mạnh đối với một người ở độ tuổi bốn mươi.
- Xin chào ông Krendler, tôi có nghe nói đến ông - Starling lên tiếng. Người trung gian hòa giải nổi tiếng của Ban Hình sự, nhân viên liên lạc của Quốc Hội, ít nhất cũng là cánh tay mặt của viên tổng chưởng lý. Ôi Chúa ơi, hãy thương xót cho con.
- Nhân viên Starling đã tìm thấy một cái gì đó trong hộp nữ trang của con gái tôi và bỏ nó vào cái bao thư nâu.
- Tôi không hề có ý định đó, thưa bác sĩ. Tôi chỉ muốn cho ông biết là tôi không đùa. Hãy giúp tôi đi bác sĩ, tôi van ông đấy.
- Ông nói rằng ông làm việc với Alan Bloom.
- Đúng vậy, trường Đại học Chicago.
- Tôi biết Alan Bloom và tôi muốn trao đổi việc này với một chuyên gia. Hãy báo cho ông ta biết nội trong sáng nay tôi sẽ gọi cho ông ta. Tôi sẽ cho biết kết quả trước giờ trưa. Ông Crawford, tôi quan tâm đến cô gái trẻ đó, và cả những người khác nữa. Nhưng việc liên quan đến quá nhiều người và tôi không nghĩ ông biết rõ tầm quan trọng của lời yêu cầu này... Này ông Crawford, đã bao lâu rồi ông chưa đo huyết áp của mình?
- Tôi tự làm lấy việc đó..
- Và ông tự kê toa cho mình à?
- Luật pháp cấm việc đó mà.
- Nhưng ông có bác sĩ riêng chứ?
- Có.
- Ông hãy nói với ông ta về huyết áp của ông đi, ông Crawford. Sẽ là một mất mát lớn nếu như ông bị đột tử. Tôi sẽ điện cho ông vào trước giờ trưa.
- Trước giờ trưa? Nhưng là giờ nào mới được?
- Vào lúc một giờ.
Máy báo điện thoại xách tay của Crawford vang lên khi ông vừa ra khỏi thang máy. Jeff, người tài xế, quơ tay lia lịa trong khi ông chạy đến chiếc xe. Có thể người ta đã tìm thấy xác cô ta rồi, ông thầm nghĩ khi cầm tay nghe lên. Là ông giám đốc. Các thông tin không đến nỗi tệ nhưng cũng không tốt cho lắm: Chilton đã chõ mũi vào và bây giờ đến lượt bà Thượng nghị sĩ. Theo lệnh của ông thống đốc, ông chưởng lý tối cao của Maryland đã ký giấy phép dẫn độ Bác sĩ Hannibal Lecter đến bang Tennessee. Như vậy phải dùng dến hết quyền lực của tòa án liên bang của Maryland để ngăn cản hoặc để trì hoãn lệnh đó. Ông giám đốc muốn Crawford có ngay một quyết định của tòa án.
- Xin ông chờ một chút - Crawford nói. Ông đặt ống nghe xuống đùi mình và nhìn ra cửa sổ. Vào tháng Hai, cảnh vật không có nhiều màu sắc để người ta có thể nhận ra những tia sáng yếu ớt của buổi bình minh. Tất cả chỉ là màu xám, quá sầu thảm.
Jeff định nói cái gì đó nhưng Crawford ra dấu cho anh ta im lặng.
Cái tôi quái quỷ của Lecter. Lòng tham của Chilton. Nỗi kinh hoàng của bà Thượng nghị sĩ. Và cuối cùng là mạng sống của Catherine Martin.
- Cứ để cho họ làm đi - Ông đáp lại.
 

2
Bác sĩ Chilton và ba cảnh sát viên trong đồng phục chỉnh tề, đứng sát vào nhau trên đường băng lộng gió ban mai. Để có thể nghe được nhau, họ phải hét lớn hơn các tín hiệu radio được phát ra từ chiếc Grumman Gulfstream và chiếc xe cứu thương, máy vẫn nổ, đậu cạnh đấy.
Viên đại úy cảnh sát đưa cây bút máy cho Bác sĩ Chilton và cố giữ các tờ giấy luôn chực bay đi theo gió.
- Không thể làm việc này sau khi chiếc phi cơ cất cánh hay sao? - Chilton hỏi.
- Thưa ông không được, chúng tôi phải ký vào bản chuyển giao ngay lúc thực hiện nó. Lệnh là như thế.
Viên phi công phụ vừa cài xong mặt dốc chuyển hàng.
- Xong chưa? - Anh ta hét lên.
Các nhân viên cảnh sát và Bác sĩ Chilton đứng tụm lại đằng sau chiếc xe cứu thương. Khi ông ta mở cánh cửa ra, họ trân người lại giống như thể họ thấy một con thú đang muốn phóng ra.
Bác sĩ Hannibal Lecter, đứng trên chiếc xe đẩy, bị trói chặt trong các đai da và mang mặt nạ, đang tiểu vào trong một cái bình Barney đang cầm.
Một trong các nhân viên cảnh sát cười gằn trong khi hai người kia xoay mặt đi.
- Rất tiếc - Barney nói với bác sĩ Lecter và đóng cửa xe lại.
- Không sao đâu Barney, dẫu sao tôi cũng xong rồi. Cám ơn anh.
Barney kéo khóa quần của Lecter lại và đẩy chiếc xe ra phía cửa.
- Này Barney?
- Chi đó bác sĩ?
- Anh luôn đối xử rất tử tế với tôi. Cám ơn anh.
- Tôi chỉ làm nhiệm vụ của tôi thôi.
- Khi Sammie tỉnh lại, anh làm ơn nói vĩnh biệt anh ta giùm tôi nhé!
- Tôi sẽ không quên đâu, bác sĩ.
- Thôi, tạm biệt anh Barney.
Barney đẩy chiếc xe xuống mặt dốc và khiêng nó lên máy bay. Người ta đã tháo ba chiếc ghế bên phải buồng lái. Viên phi công phụ kiềng chiếc xe đẩy vào các giá đỡ của những chiếc ghế bị lấy đi.
- Thế ông ta không nằm trong lúc bay sao? - Một cảnh sát viên hỏi - Ông ta có quần đùi bằng cao su không?
- Ông bạn ơi, ông phải cố nín cho đến Memphis đấy. - Một người khác nói tiếp.
- Bác sĩ Chilton, tôi có thể nói với ông điều này không? - Barney hỏi.
Họ đứng cạnh chiếc máy bay và gió thổi bụi bay mịt mù quanh họ.
- Mấy tên này không biết gì cả. - Barney nói.
- Đến nơi tôi sẽ có những người y tá có nhiều kinh nghiệm của bệnh viện tâm thần. Chính họ sẽ chịu trách nhiệm về ông ta.
- Ông chắc là họ làm được chứ? Ông dư biết ông ta là sao kia mà, điều duy nhất ông ta sợ là sự buồn chán. Đánh đập ông ta không mang lại kết quả gì đâu.
- Tôi sẽ không bao giờ cho phép việc đó, Barney.
- Ông sẽ có mặt trong lúc hỏi cung ông ta chứ?
- Có. Nhưng anh thì không, Chilton nói thầm tiếp.
- Tôi có thể đến đó để bố trí cho ông ta và trở về đây chỉ sau hai tiếng đồng hồ thôi.
- Việc này không thuộc phần hành của anh, Barney. Tôi sẽ có mặt. Tôi sẽ chỉ cho họ cách làm, từng điểm một.
- Tôi muốn khuyên họ nên cảnh giác. Ông ta sẽ giở trò đấy.

3
Clarice Starling ngồi trên chiếc giường khách sạn, nhìn chăm chăm vào cái máy điện thoại sau khi Crawford cúp máy. Tóc của cô bù xù, sau giấc ngủ ngắn ngủi trong cái áo ngủ của FBI, cô có cảm thấy như vừa bị ai đó đá vào bụng.
Ba giờ trước đó, khi cô từ giã Bác sĩ Lecter và mới chỉ có hai giờ kể từ lúc Crawford và cô thiết lập xong danh sách các điểm đặc trưng cần tìm kiếm trong hồ sơ của các trung tâm y khoa. Và cũng trong lúc cô đang ngủ, bác sĩ Frederick Chilton đã làm rối tung hết mọi thứ.
Crawford sẽ đến đón cô. Cô phải sửa soạn thôi, cô phải cố sức mà làm việc này.
Mẹ kiếp, MẸ KIẾP NÓ. Ông đã giết chết cô ta rồi, bác sĩ Chilton ngu si kia ơi. Lecter biết nhiều chuyện lắm v&agrarực tiếp theo dõi trong lúc họ truy tìm tên của William Rubin tại FBI.
- Thôi bà đi đi bà Thượng nghị sĩ, tôi sẽ đến đó ngay - Krendler nói.
Ruth Martin rời căn phòng mà không thèm trả lời câu hỏi của Clarice.
Clarice có dịp quan sát Krendler trong khi ông đóng cánh cửa phòng lại. Bộ comple c mình có thể làm gì bây giờ? Trước mắt là tắirc;ng có mang vũ khí. Phần dưới của đôi giày ông bóng láng vì đi qua nhiều trên thảm dày.
Ông đứng một lúc tại đó, tay để trên nắm cửa, đầu hơi nghiêng.
- Cô làm một cuộc khám xét thật hữu hiệu, - ông nói khi quay người lại.
Một câu nói hơi quá đáng, Clarice thầm nghĩ. Cô chỉ nhìn trả ông ta.
- Quantico đào tạo điều tra viên thật hay.
- Nhưng không được những tên trộm ra trò.
- Tôi biết.
- Nhưng không phải là điều hiển nhiên đâu.
- Thôi bỏ qua chuyện này đi.
- Phải tìm cho ra đầu mối các tấm ảnh và cái bắp cải bằng cao su, đúng không?
- Đúng vậy.
- Thế tên William Rubin là ai vậy, thưa ông Krendler?
- Lecter nói đó là tên thật của Buffalo Bill. Đây là các báo cáo của cơ quan nhận dạng và Danh Mục. Cô đọc đi. - Ông đưa một bản ghi chép cuộc đối thoại giữa Lecter và bà Thượng nghị sĩ Martin, một bản sao mờ nhạt của máy in.
- Cô nghĩ sao? - Ông hỏi sau khi cô đọc xong.
- Ông ta không có trách nhiệm nào hết. Ông ta nói đây là một người da trắng tên Bill Rubin bị cụm nhọt do ngà voi. Nếu ông ta nói dối, và dù chuyện gì có xảy ra đi nữa, các người cũng khó chứng minh được. Cuối cùng, người ta chỉ có thể nói ông ta nhầm lẫn thôi, là điều tôi hy vọng. Nhưng cũng rất có thể ông ta đã lừa được bà ta, ông Krendler. Ông ta chắc chắn có thể làm điều này. &Ocireight:10px;'>
 

- Đúng rồi, tôi sẽ làm ngay. - Bà đưa quyển sổ tay cho một ai đó ở ngoài.
- Tôi chỉ gặp mặt hắn mỗi một lần. Hắn xin tôi một cái hẹn nhưng không bao giờ đến.
- Tại sao ông nghĩ hắn là Buffalo Bill chứ?
- Hắn đã giết nhiều người rồi và đã làm những trò giải phẫu đó với họ. Hắn nói hắn cần người trợ giúp để thực hiện tiếp, nhưng thật ra hắn chỉ muốn khoe thôi. Đó là may một yếm dãi.
- Và ông không... hắn chắc là ông sẽ không tố cáo hắn phải không?
- Hắn nghĩ như thế, vả lại hắn rất thích mạo hiểm. Tôi đã có sự tin tưởng của người bạn Raspail của hắn.
- Raspail biết điều đó à?
- Raspail có nhiều sở thích khả nghi lắm, mình ông ta đầy sẹo. Billy Rubin cho biết hắn có rất nhiều tiền án, nhưng không có nói cụ thể. Tôi có thiết lập một hồ sơ bệnh án. Không có gì đáng kể hết, trừ một việc: Rubin có nói là hắn bị chứng cụm nhọt của ngà voi. Đó là tất cả những gì tôi nhớ được, thưa bà Thượng nghị sĩ và tôi cho là bà muốn mau chóng rời khỏi đây. Nếu tôi nhớ thêm một điều gì đó, tôi sẽ viết giấy gởi cho bà.
- Thế Bill Rubin có cắt cổ một người nào đó mà người ta tìm được cái đầu trong một chiếc xe hơi không?
- Tôi chắc là thế.
- Ông có biết người đó là ai không?
- Không. Raspail gọi anh ta là Klaus.
- Còn tất cả những gì ông đã khai với FBI đều là sự thật phải không?
- Cũng không thật như những gì FBI đã nói với tôi, thưa bà Thượng nghị sĩ.
- Tạm thời tôi để ông ở lại Memphis. Chúng ta sẽ nói đến hoàn cảnh và sự chuyển giao ông đến Núi Brushy khi nào chúng tôi... khi nào vụ này kết thúc.
- Cám ơn bà. Tôi rất muốn có điện thoại, và nếu chẳng may tôi nhớ lại một điều gì đó...
- Ông sẽ có điện thoại.
- Và cả nhạc nữa. Các Biến tấu của Goldberd do Gleen Gould thực hiện. Đòi hỏi như vậy có quá đáng lắm không?
- Đồng ý.
- Thưa bà Thượng nghị sĩ, bà không đặt niềm tin quá nhiều vào FBI. Jack Crawford chơi không sòng phẳng với các cơ quan khác. Đối với họ, đây chỉ là trò chơi. Ông ta muốn đích thân bắt giữ hắn. “Hãy chụp lấy hắn đi”, theo cách họ nói.
- Cám ơn, bác sĩ Lecter.
- Tôi rất thích bộ cánh của bà - Ông ta nói lúc bà ta ra về.

3
Từ hầm này sang hầm khác, từ góc kẹt này qua góc kẹt khác, tầng hầm của Jame Gumb khúc khuỷu như một mê cung, ngăn cản người ta tiến lên phía trước. Khi hắn còn nhút nhát, hồi trước hắn thích những nơi hẻo lánh nhất, thật xa các cầu thang. Ở sâu trong cùng, có rất nhiều phòng mà Gumb chưa bao giờ mở cửa ra. Vài phòng có người ở, nếu người ta có thể nói như thế, vì sự im lặng đã chiếm chỗ của những tiếng hét rồi.
Mặt nền thay đổi từ phòng này qua phòng khác. Có nhiều ngưỡng cửa phải cúi đầu, các xà ngang phải tránh. Thật quá khó khăn để chuyển một gánh nặng và rất khó để kéo lê nó. Với sự khôn ngoan và tự tin, Gumb không cần giải quyết các nhu cầu của mình tại các nơi kín đáo nhất. Bây giờ hắn sử dụng dãy hầm quanh cầu thang, trong các phòng rộng lớn có đầy đủ điện và nước.
Ngay lúc này, toàn bộ khu hầm đều chìm trong bóng tối.
Tại cái tầng nền cát trong hầm giam, Catherine đang nằm im.
Gumb cũng đang ở dưới tầng hầm nhưng không phải ở mức này.
Mắt con người không thể thấy bất cứ thứ gì trong bóng đen như thế này, nhưng căn hầm đầy những tiếng động nhỏ. Nước nhỏ giọt và tiếng máy bơm kêu ro ro. Những tiếng vang nhỏ làm cho căn phòng có vẻ rộng hơn. Không khí trong này lạnh và ẩm thấp. Một tiếng đập cánh phớt qua má hắn, nhiều tiếng lách cách vang lên. Một tiếng gầm gừ khoái trá, tiếng động của con người.
Không một luồng ánh sáng nào mà mắt người có thể sử dụng, nhưng Gumb hiện diện ở đây và hắn thấy rất rõ, nhưng chỉ bằng các mức độ của màu lục, đậm lợt tùy lúc. Hắn đang mang cặp mắt kính hồng ngoại (quân cụ thặng dư của Do Thái, giá gần bốn trăm đôla) và chĩa cây đèn pin cũng là hồng ngoại. Hắn ngồi trên một cái ghế lưng thẳng, đang ngây ngất trước cảnh một con côn trùng đang bò lên một thân cây. Con vật mới trưởng thành, vừa chui ra khỏi cái kén của nó, trên nền đất ẩm ướt của cái chuồng. Con vật này cẩn thận trèo lên cành cây cà độc dược, tìm kiếm một chỗ thích hợp để giương đôi cánh còn ướt ra, đang được xếp ở sau lưng. Nó chọn một cành cây ngang.
Gumb phải nghiêng đầu qua một bên để nhìn thấy nó. Lần hồi, cánh nó được bơm đầy máu và không khí, nhưng chúng vẫn còn bị xếp dính ở sau lưng con vật.
Hai giờ đã trôi qua và Gumb vẫn giữ nguyên tư thế đó. Hắn tắt mở cây đèn pin hồng ngoại, để có thể nhìn thấy sự tiến triển của con vật. Để giết thời giờ, hắn chơi trò bằng ngọn đèn với phần còn lại của căn phòng, trên những bể nước lớn chứa đầy một loại chất thuộc da thảo mộc. Trên các khuôn mẫu và các khung trong các bồn chứa, những vật mới sở hữu giống như các mảnh hình tượng cổ xưa bị xanh đi vì nước biển. Ánh đèn chiếu đến cái bàn làm việc rộng lớn bằng sắt tráng kẽm với cái gối bằng kim loại và các rãnh, rồi chiếu đến cái tời lủng lẳng ngay trên đó. Sát vách tường là các bồn rửa công nghiệp dài. Toàn bộ cảnh vật đều mang màu xanh. Những tiếng đập cánh, những vệt dài phản quang bay ngang qua tầm nhìn của hắn, như những đuôi sao chổi nhỏ được tạo ra bởi những con bướm đêm đang bay trong căn phòng.
Hắn trở lại cái chuồng đúng lúc. Đôi cánh lớn của con vật đã giương thẳng ra trên thân hình nó, và biến đổi các đốm trên đó. Nó xếp cánh lại và cái hình ảnh đặc biệt xuất hiện. Một sọ người, được thể hiện tuyệt đẹp bằng vảy thật mềm mại như lông thú, đang nhìn hắn. Dưới cái trán vồ của cái sọ, hai lỗ đen của mắt và các gò má nhô ra. Điểm tối ngay trên cái hàm, tạo một vạch ngang mặt như một giẻ bịt miệng. Cái sọ nằm trên một vết loe rộng như đỉnh một khung chậu.
Một sọ người đặt trên một khung chậu, tất cả được vẽ trên lưng một con bướm đêm, vì sự trớ trêu của tạo hóa. Gumb cảm thấy sảng khoái, tâm hồn thanh thản. Hắn cúi mình tới trước và thổi nhẹ vào con vật. Nó đưa cái vòi lên vì tức giận và phát ra một tiếng kêu nhỏ.
Hắn bước từ từ, cây đèn trên tay, hướng đến hầm giam. Hắn mở to miệng ra thở để không gây tiếng động. Hắn không muốn những tiếng từ cái lỗ làm hỏng cuộc vui của hắn. Trên những cái ống nhô ra, các mặt kính giống như hai con mắt có cuống đỡ của một con cua. Gumb biết rằng như thế không có gì là hấp dẫn, nhưng nhờ vào chúng mà hắn có được niềm vui bằng những trò chơi lúc đêm tối trong căn hầm tối tăm này.
Hắn cúi người xuống và chiếu ngọn đèn vào trong giếng.
Cái vật đó đang nằm một bên, co người lại như một con tôm. Có vẻ như nó đang ngủ, cái xô vệ sinh để cạnh bên. Trong giấc ngủ, nó cầm một góc thảm trong tay và mút ngón cái.
Khi chiếu ánh hồng ngoại dọc theo thân hình của Catherine, hắn nghĩ đến các vấn đề đang chờ hắn.
Thật không dễ dàng thuộc da người đối với một người khó tính như hắn. Có nhiều sự lựa chọn cơ bản, về cấu trúc để làm, và điều cốt lõi là đặt sợi dây kéo ở chỗ nào đây.
Hắn cho ánh đèn chạy dọc theo lưng của Catherine. Thường thì phải để sợi dây kéo ở đó, nhưng làm sao mặc nó vào một mình được chứ? Không thể nào nhờ sự trợ giúp của một người khác cho loại việc này, dù cho kế hoạch này có hấp dẫn đến đâu đi nữa. Hắn biết nhiều nơi, nhiều môi trường, mà các cố gắng của hắn sẽ gây ấn tượng mạnh, nhưng muốn thế phải chờ thêm một thời gian nữa. Hắn phải có những thứ mà hắn chỉ sử dụng một mình. Dây kéo đặt ở phía trước là điều xúc phạm, và hắn loại bỏ khả năng này.
Gumb không thể đánh giá nước da của Catherine, nhưng dường như cô ta đã gầy đi. Có thể cô ta đang ăn kiêng khi bị hắn bắt cóc.
Kinh nghiệm đã dạy cho hắn phải chờ từ bốn đến bảy ngày trước khi lột da. Một sự giảm cân đột ngột sẽ khiến nó nhão ra, và việc lột da sẽ dễ dàng hơn. Hơn nữa việc cho nhịn đói sẽ làm cho các nạn nhân yếu đi và sẽ dễ sai bảo họ hơn. Có vài người tỏ ra nản lòng cam chịu. Tuy nhiên vẫn phải cho họ ăn chút ít để đề phòng sự tuyệt vọng và các cơn phẫn nộ, có thể làm hư hỏng lớp da.
Nhất định là vật này đã sụt ký. Người này quả đặc biệt, rất quan trọng cho công việc hắn muốn thực hiện, cho đến mức hắn không thể chờ đợi lâu được. Vào lúc trưa mai, hắn sẽ ra tay, hoặc tối mai. Trễ lắm là ngày hôm kia. Sắp rồi đây.
 
--!!tach_noi_dung!!--

Đánh máy: Hoàng Liêm
Nguồn: thuvien-ebook
Được bạn: mọt sách đưa lên
vào ngày: 30 tháng 1 năm 2013

--!!tach_noi_dung!!--
Chương 10
--!!tach_noi_dung!!-- rc;ng biết là không được để cho cô ta vào đây - viên cảnh sát nói sau khi cô ra khỏi phòng.
Krendler đi ra cùng cô.
- Tôi rất nể Jack Crawford - Ông nói. - Cô làm ơn nói với ông ta là tôi rất tiếc... về những gì xảy ra cho Bella. Bây giờ cô hãy trở về trường và làm việc đi nhé! Đồng ý không?
- Xin chào ông Krendler.
Cô lại đơn độc tại bãi đậu xe với cảm giác bàng hoàng.
Clarice rất muốn được nói chuyện với Crawford. Điều tệ hại hơn hết là tình trạng lộn xộn và sự ngu xuẩn, ông đã nói như thế. Đó là thời điểm khó khăn nhất. Hãy nhớ lấy vì nó sẽ rèn luyện cá tính của cô. Điều khó nhất là đừng bao giờ để cho sự phẫn nộ và sự ức chế ngăn cản cô suy nghĩ. Được như thế, cô mới biết được cô có thể chỉ huy hay không.
Cô không cần sự chỉ huy, cô không cần là “nhân viên đặc biệt” Starling, nếu phải hành động như thế.
Cô nghĩ đến người chết đáng thương mà cô thấy nằm dài trên cái bàn của nhà tang lễ tại Potter. Cô ta sơn móng tay bóng láng như mấy chiếc môtô trượt tuyết của mấy tên nhà quê.
Nhưng cô ta tên gì nhỉ? Kimberly.
Mấy tên khốn đó sẽ không nhìn thấy mình rơi lệ đâu.
Trời ơi... sao có nhiều Kimberly đến thế, có bốn Kimberly trong lớp học của cô. Ba thằng con trai tên Sean. Kimberly cũng là tên của bộ phim nhiều tập trên tivi, đang cố gắng làm đẹp bằng cách bấm ba lỗ ở tai để đeo vòng. Mà Buffalo Bill đã nhìn bộ ngực lép kẹp đó với khẩu súng chỉa ngay đó và bắn thủng ngực, tạo một lỗ hình sao biển.
Kimberly, người thiếu nữ buồn và mập, se lông chân bằng sáp. Không có gì lạ, sau khi đã nhìn thấy mặt, tay, chân. Cô chỉ còn có da là vật đáng giá nhất. Kimberly ơi, ở một nơi nào đó, cô có phẫn nộ không? Không một bà Thượng nghị sĩ nào sẽ lo cho cô đâu. Không một phi cơ nào để chở hết mấy thằng điên đó hết. Điên, một từ mà đúng lý ra cô không được dùng. Cũng có nhiều việc cô không được hành động. Mấy thằng điên chết tiệt đó.
Clarice nhìn đồng hồ. Còn một giờ ba mươi phút nữa trước khi máy bay cất cánh, còn nhiều thời giờ để làm một cái gì đó. Cô muốn nhìn thấy mặt của Lecter khi ông ta nói ra cái tên “Bill Rubin”. Nếu cô có thể nhìn đủ lâu đôi mắt nâu kỳ lạ đó, nếu cô xoáy được đến tận cùng tâm trí, nơi mà bóng tối thu hút các tia sáng, có thể cô tìm thấy được một cái gì đó hữu ích. Có thể là sự vui mừng của ông ta, cô thầm nghĩ.
Cám ơn Trời, mình vẫn còn tấm thẻ hình sự.
Cô cho nổ máy xe và phóng thật nhanh.
 

2
Clarice Starling với hai hàng nước mắt phẫn nộ khô ráo trên gò má, phóng thật nhanh trong dòng lưu thông đầy hiểm nguy của Memphis. Cô cảm nhận một sự tự do lạ kỳ và rất năng động. Sự rõ nét bất thường của quan điểm báo cho cô biết cô phải đấu tranh, vì thế cô phải thật cẩn trọng mới được.
Đến từ phi trường, cô đi ngang qua tòa án cũ để tìm đường dễ dàng hơn.
Chính quyền bang Tennessee không muốn có một bất trắc nào với Hannibal Lecter nên không mạo hiểm để ông ta trong nhà tù của thành phố.
Giải pháp duy nhất là nhà giam của tòa án cũ, một công trình đồ sộ theo kiểu tân gôtíc bằng đá hoa cương. Được tân trang đôi chút, đó là nơi làm việc của các cơ quan chính quyền của cái thành phố thịnh vượng này và rất hãnh diện về quá khứ của nó.
Ngày hôm nay nó trông như một pháo đài của thời trung cổ bị cảnh sát bao vây.
Có đủ loại xe cảnh sát tại bãi đậu xe, nào của cảnh sát công lộ, của ông cảnh sát trưởng quận Shelby, của văn phòng FBI Tennessee và cơ quan quản lý nhà giam. Clarice phải cho xe chạy ngang qua một lính canh trước khi đậu được chiếc xe của mình.
Có một vấn đề an ninh khác đến từ bên ngoài. Kể từ bản tin tức lúc mười giờ cho biết sự hiện diện của cô, rất nhiều cuộc gọi hăm dọa ụp đến; thân nhân và bạn bè của các nạn nhân ước thấy cô chết đi.
Clarice hy vọng Copley, nhân viên FBI địa phương, sẽ không có mặt, vì cô không muốn anh ta gặp rắc rối.
Trên bãi cỏ trước thềm nhà, cô nhìn thấy lưng của Chilton, ngay giữa một đám phóng viên. Có thêm hai camera nhỏ của đài truyền hình. Ước gì lúc này cô có đội mũ. Cô tiến về hướng cái tháp, mặt nhìn về hướng khác.
Một cảnh sát viên gác cửa kiểm tra thẻ của cô, trước khi cho cô vào hành lang, bây giờ không khác gì một trại cảnh sát. Một cảnh sát viên khác đứng ngay cửa thang máy và một người khác ở chân cầu thang. Nhiều cảnh sát viên khác đang ngồi trên băng ghế, đọc tờ Nhật Báo Thương Mại.
Một viên trung sĩ trực tại bàn làm việc đối diện với thang máy. Bảng tên anh ta có ghi TATE, C.L.
- Phóng viên không được có mặt - anh ta nói khi nhìn thấy Clarice.
- Tôi không phải là nhà báo.
- Cô có thuộc toán của Bộ Tư Pháp không? - Anh hỏi khi xem thẻ của cô.
- Tôi làm việc với ông Krendler, vị phụ tá của ông tổng chưởng lý. Tôi vừa chia tay ông ta đây.
Trung sĩ Tate gật đầu.
- Toàn bộ cảnh sát của bang Tennessee và những nơi khác đều muốn nói chuyện với Lecter. Hiếm khi gặp được một người như thế. Cô phải có phép của Chilton mới được lên đó.
- Tôi vừa gặp ông ta đứng ngoài trước cửa. Chúng tôi làm việc chung trong vụ án này tại Baltimore. Tôi phải ký tên vào đây, phải không Trung sĩ Tate?
Anh ta do dự một lúc.
- Đúng, ngay đó. Cảnh sát hay khách đều phải bỏ súng lại đây. Nội quy buộc như thế.
Starling gật đầu. Cô lấy kẹp đạn ra, trong khi viên trung sĩ thích thú nhìn cô thao tác khẩu súng. Cô trao súng cho anh ta, báng ra phía trước để anh ta bỏ vào trong ngăn tủ.
- Vernon, cho cô ta lên đi, - Anh ta cầm điện thoại lên, quay ba số và nói tên cô.
Thang máy được lắp đặt vào các thập niên hai mươi, đi lên từ từ trong tiếng kêu kèn kẹt và ngừng trước một bậc nghỉ chân, được nối dài với một hành lang nhỏ.
- Cô cứ việc đi thẳng - viên cảnh sát nói.
Trên cửa kiếng, có ghi hàng chữ ỦY BAN LỊCH SỬ CỦA QUẬN SHELIBY.
Gần như toàn bộ tầng trên cùng của tháp là một căn phòng rộng lớn hình bát giác được sơn trắng, sàn và vật dụng bằng gỗ sồi, nực mùi sáp ong và keo dán giấy. Căn phòng rất ít đồ đạc, tạo cảm tưởng như một ngôi đền. Chắc vào thời trước đây là văn phòng của ông thống đốc, nên có vẻ oai phong hơn nhiều.
Hai nhân viên ban quản lý nhà giam đang gác. Một người nhỏ con, đang ngồi tại bàn làm việc, liền đứng lên khi thấy Clarice bước vào. Người to con hơn ngồi trên một cái ghế xếp, đặt trong cùng của căn phòng, đối diện với một phòng giam. Anh ta canh chừng không cho tên tội phạm tự sát.
- Cô có được phép nói chuyện với tên tù nhân không, thưa cô? - Người cảnh sát viên nhỏ con hỏi. Bảng tên ghi là PERRY, T. W.; trên bàn làm việc có một điện thoại, hai dùi cui, và sau lưng anh ta có một bình xịt thuốc bất tỉnh, một bánh răng cưa lớn được dựng ở góc tường.
- Có, tôi đã hỏi cung ông ta rồi.
- Cô biết thủ tục chứ? Cô không được bước qua hàng rào.
- Tôi biết mà.
Nét màu mè duy nhất trong căn phòng là cái hàng rào cảnh sát, một loại ngựa gỗ có sọc vàng đen với đèn nháy, hiện giờ đã tắt, được đặt cách cửa phòng giam khoảng một thước rưỡi. Quần áo của bác sĩ Lecter được máng trên cái mắc áo, còn cái mặt nạ và một vật nữa mà Clarice chưa bao giờ thấy trước đây, một áo trói của bang Kansas. Bằng da dày, có khoen cài ở sau lưng, còn hông thì có cùm bằng sắt với hai khóa, để giữ cố định các cổ tay; đây có thể là loại áo trói hữu hiệu nhất trên đời này. Trên nền trắng, cái mặt nạ và áo trói treo trên mắc áo tạo một cảnh tượng ghê rợn.
Khi bước lại gần xà lim, Clarice thấy bác sĩ Lecter, quay lưng ra cửa, đang đọc sách tại cái bàn nhỏ được gắn chết xuống sàn. Trước mặt ông có một chồng sách và tập hồ sơ của Buffalo Bill mà cô đã trao cho ông tại Baltimore. Một máy thâu băng nhỏ được gắn bằng sợi xích vào chân bàn. Quả là một cảm giác khác lạ khi gặp ông ngoài dưỡng trí viện.
Clarice đã từng nhìn thấy những xà lim như thế này. Người ta chưa làm gì khác hay hơn những chuồng được lắp bằng những cấu kiện thép đúc sẵn của một công ty ở Saint-Louis, và chúng có thể biến bất cứ một căn phòng nào thành một xà lim. Sàn cũng bằng thép nằm trên đà, vách và trần là những song sắt đúc nguội. Phòng giam rất sạch và sáng trưng. Một bình phong bằng giấy che khuất chỗ vệ sinh.
Các song sắt bao quanh trông giống như xương sườn và đầu của bác sĩ Lecter có một màu đen sáng.
Một cảnh tượng ám ảnh các nghĩa địa. Ông ta sống trong một lồng ngực giữa các lá khô của trái tim.
Cô xua đuổi hình ảnh này bằng cái nháy mắt.
- Chào cô, Clarice - Ông ta thốt lên và xoay mặt lại. Ông đọc hết trang đó, lấy đồ chặn lại rồi xoay cái ghế lại để đối mặt cô, hai tay khoanh lại, cằm tựa trên lưng ghế.
- Theo Dumas, nếu người ta cho mấy con quạ ăn nhiều hạt đỗ tung, người ta sẽ làm cho mùi vị và màu sắc của nó tăng lên. Khi người ta nấu con chim đó vào mùa thu thì rất tuyệt. Cô có thích món đó không, Clarice?
- Tôi thiết nghĩ ông thích có các tranh vẽ của ông, những bức trong phòng giam của ông đấy, trước khi có được một cửa sổ.
- Cô thật dễ thương. Bác sĩ Chilton không kìm được niềm vui khi người ta loại cô ra khỏi vụ điều tra, cả Jack Crawford và cô. Thế người ta sai cô đến đây để tán tỉnh tôi một lần cuối hay sao vậy?
Người nhân viên gác trước xà lim đã bỏ đi nói chuyện với Pembry. Clarice hy vọng họ không nghe được cuộc trò chuyện này.
- Không ai sai tôi đến đây cả. Tôi tự ý đến thôi.
- Người ta sẽ đồn hai chúng ta yêu nhau rồi. Thế cô không thích hỏi tôi về Bill Rubin à?
- Thưa bác sĩ Lecter, tôi không... hề muốn tranh cãi những gì ông nói với bà thượng nghị sĩ Martin, nhưng ông có muốn khuyên tôi theo cái dấu vết mà ông...
- Tranh cãi, tôi thích từ này quá đi. Tôi không khuyên cô bất cứ điều gì. Cô đã lừa tôi, Clarice à. Cô có tin là tôi đang gạt họ không?
- Tôi nghĩ ông đã nói thật với tôi.
- Thật đáng tiếc là cô đã gạt tôi, có phải không? - Khuôn mặt của Lecter biến mất sau cánh tay ông ta, chỉ còn ló có hai con mắt. - Tôi cũng lấy làm tiếc là Catherine sẽ không bao giờ thấy lại ánh nắng mặt trời. Mặt trời là một cái nệm lửa mà Chúa cô ta đã chết trên đó, Clarice.
- Cũng thật đáng tiếc khi ông phải buộc nghe theo những người khác để lau khô được vài giọt nước mắt. Thật đáng tiếc là chúng ta không thực hiện được hết thỏa thuận của chúng ta. Quan niệm của ông về con côn trùng trưởng thành, cấu trúc của nó, với một nét gì đó… thanh lịch người ta khó nhận thấy được. Bây giờ nó như một phế tích, một nửa vòm cầu còn đứng nguyên.
- Một nửa vòm cầu không thể đứng nguyên được. Nhưng mà này, họ vẫn để cô tiếp tục hay sao, Clarice? Họ chưa tước huy hiệu của cô à?
- Chưa.
- Dưới áo vét cô có cái gì thế, một khăn tay, giống như cái của cha cô, phải không?
- Không, đó là một kẹp đạn thay nhanh.
- Cô vẫn mang vũ khí à?
- Đúng.
- Nếu thế, cô phải may áo cho rộng nữa. Cô có biết may không?
- Có.
- Tự tay cô may bộ cánh này phải không?
- Không. Bác sĩ Lecter, ông thấy đủ mọi thứ. Ông không thể cho biết nhiều hơn nữa về tên “Bill Rubin” vì biết quá ít về vấn đề này.
- Cô tin thế sao?
- Nếu ông đã gặp hắn, ông biết mọi thứ. Nhưng ông chỉ nhớ được có mỗi một chi tiết. Hắn mắc chứng cụm nhọt ngà voi. Đáng lẽ ông phải thấy họ nhảy cẫng lên khi Atlanta cho biết đây là căn bệnh của mấy người thợ làm dao. Có thể nói là họ bổ nhào vào đó, đúng như ông tiên đoán. Riêng chi tiết này thôi, người ta phải cấp cho ông một căn hộ thật rộng tại Peabody mới đúng. Bác sĩ Lecter, nếu ông thật sự đã gặp hắn thì ông phải biết mọi chuyện của hắn rồi. Tôi cho là ông chưa hề thấy mặt hắn bao giờ và chính Raspail kể lại cho ông nghe. Nhưng các loại tin tức hạng hai như thế, đâu có đáng giá lắm có phải không?
Clarice liếc nhìn qua vai. Một trong hai người cảnh sát chỉ cái gì đó trong tờ tạp chí Súng và Đạn dược.
- Ông chưa nói hết cho tôi tại Baltimore. Tôi nghĩ thông tin đó chính xác. Hãy nói cho tôi phần còn lại đi.
- Tôi đã đọc hồ sơ rồi, Clarice. Tất cả những gì cô muốn tìm hiểu đều nằm trong đó, với điều kiện cô phải chú ý hơn nữa. Ngay một thanh tra tài ba như Crawford cũng tìm được. Nói riêng nhé, cô có đọc lời tuyên bố sững sờ mà ông ta đã nói hồi năm ngoái tại Trường Cảnh sát Quốc gia không? Ông ta đã cường điệu về Marc Aurele, về nhiệm vụ, danh dự và sức mạnh tinh thần, chúng ta hãy chờ xem ông ta thuộc loại “người cương nghị” nào một khi Bella qua đời. Ông ta rút lấy triết lý cho mình trong quyển Từ điển các lời trích dẫn. Nếu ông ta thật sự hiểu Marc Aurele, ông ta đã lý giải được vụ án này rồi.
- Ông nói cho tôi biết xem bằng cách nào?
- Khi người ta có lúc tỏ ra hiểu biết về bối cảnh lịch sử một chút, nhưng tôi quên mất điều này, là thế hệ của cô không biết đọc. Vị Hoàng đế đã khuyên sự giản dị. Các khái niệm cơ bản. Với một sự việc đặc biệt nào đó, phải tự hỏi: thế trong đó là gì, bản chất thật của nó là như thế nào? Nguyên nhân của nó là như thế nào?
- Đối với tôi nó không có nghĩa cho lắm.
- Thế con người mà các người đang truy tìm, hắn đang làm gì vậy?
- Hắn giết người.
- À. - Ông thốt lên và tạm thời không nghĩ đến cái đầu không nhạy bén này. - Đó là điều thứ yếu. Điều đầu tiên và quan trọng nhất mà hắn làm kìa, tại sao hắn cần phải giết người?
- Vì giận dữ, mối hận thù xã hội, sự ức chế tính dục...
- Không!
- Thế thì vì cái gì?
- Sự thèm muốn. Nói cho đúng, hắn chỉ thèm muốn có mỗi một thứ mà cô có. Đó là cách mà bản chất hắn hành động. Thế sự thèm muốn bắt đầu từ cái gì thế Clarice? Nào, chúng ta hãy điểm lại những gì chúng ta thèm muốn xem. Cố gắng trả lời đi.
- Không. Chúng ta chỉ bắt đầu…
- Chính xác là như thế. Chúng ta bắt đầu ham muốn những gì chúng ta thấy hàng ngày. Thế cô không cảm nhận được ánh mắt của những người qua đường nhìn cô sao Clarice? Điều trái ngược sẽ làm tôi ngạc nhiên đấy. Và cô cũng không để mắt vào một cái gì đó hay sao?
- Đồng ý. Vậy ông hãy nói cho tôi...
- Chính cô phải nói cho tôi, Clarice à. Cô không còn những kỳ nghỉ để tặng cho tôi gần Trung Tâm nghiên cứu bệnh dịch hạch của trâu bò nữa. Kể từ bây giờ, sẽ tuyệt đối là phương thức có qua có lại mà thôi. Phải dè chừng với cô mới được, nào thử nói xem Clarice.
- Cái gì?
- Cô nợ tôi hai chuyện. Thứ nhất là chuyện gì đã xảy ra với con ngựa của cô, thứ hai là bằng cách nào cô kiềm chế được cơn giận dữ của mình.
- Thưa bác sĩ Lecter, khi nào tôi có thời giờ rảnh...
- Chúng ta không tính thời gian một cách giống nhau, Clarice à. Đó là thứ duy nhất mà cô có được.
- Để sau này đi, ông nghe đây, tôi…
- Hiện giờ, tôi đang nghe cô đây. Hai năm sau khi cha cô chết, mẹ cô gởi cô đến người bà con tại một nông trại ở Montana. Lúc đó cô mười tuổi. Cô khám phá việc họ vỗ béo ngựa để đưa chúng vào lò sát sinh. Cô bỏ trốn với một con ngựa cái gần như mù. Rồi sao nữa?
- Đó là mùa hè và người ta có thể ngủ ngoài trời. Chúng tôi đi đến Bozeman bằng đường mòn.
- Con ngựa của cô có tên chứ?
- Có thể lắm... nhưng người ta không cần tìm hiểu khi nuôi ngựa để cho vào lò sát sinh. Tôi gọi nó là Hannah, và tôi thấy tên đó hợp với nó lắm.
- Cô dắt bằng sợi dây hay cô cưỡi nó?
- Cả hai. Để cưỡi được nó, tôi phải đưa nó đến gần một hàng rào.
- Lúc thì cưỡi ngựa, lúc thì đi bộ, các người đã đến Bozeman.
- Có một chuồng ngựa cho thuê, một kiểu trường dạy cưỡi ngựa, ngay ngoài thành phố. Tôi định đưa nó vào đấy, nhưng họ đòi hai mươi đôla một tuần cho một chuồng và bãi nhốt ngựa. Họ thấy ngay nó gần như không thấy đường. Tôi có nói: tôi có thể cho mấy đứa con nít đi dạo trên lưng nó trong lúc cha mẹ chúng tập cưỡi ngựa, và rửa chuồng ngựa nữa. Người chủ đồng ý, trong khi bà vợ điện thọại cho ông cảnh sát trưởng.
- Ông cảnh sát trưởng là một cảnh sát viên, giống như cha cô vậy.
- Lúc đầu, điều đó vẫn làm cho tôi sợ ông ta. Mặt ông ta đỏ lừ. Cuối cùng chính ông ta bỏ ra hai mươi đôla tiền trọ, trong khi chờ đợi “ông ta làm rõ mọi chuyện”. Ông ta nói không cần mướn một chuồng cho riêng nó với cái thời tiết nóng bức của lúc đó. Báo chí có đăng tải vụ này, làm khá lớn chuyện. Người chị bà con của mẹ rất muốn để cho tôi đi. Thế là tôi thấy mình vào ở trong Tổ ấm của dòng Luther tại Bozeman.
- Đó có phải là một cô nhi viện không?
- Đúng vậy.
- Còn Hannah?
- Nó cũng vào đó. Một người nông dân dòng Luther cung cấp cỏ khô, và trong cô nhi viện có một chuồng ngựa. Người ta bắt nó xới đất của khu vườn, nhưng phải dắt nó đi mới được, nếu không nó dẫm nát các luống đậu và bất cứ những gì nằm dưới chân nó. Nó còn đưa mấy đứa trẻ đi dạo trên một chiếc xe có mui nữa.
- Cuối cùng rồi nó cũng chết.
- Đương nhiên rồi...
- Kể nghe xem.
- Đó là vào năm ngoái, họ viết thư đến trường cho tôi. Người ta nghĩ nó khoảng hai mươi hai tuổi. Ngày hôm trước nó kéo chiếc xe chở đầy trẻ con và đêm đó nó đã chết trong giấc ngủ.
Bác sĩ Lecter có vẻ hoang mang.
- Điều này làm ấm lòng thật. Thế người cha nuôi của cô ở Montana có hiếp cô không, Clarice?
- Không.
- Ông ta có cố làm việc đó không?
- Không.
- Thế tại sao cô lại bỏ trốn?
- Bởi vì họ định giết Hannah.
- Cô biết được khi nào, thì?
- Cũng không thật sự, nhưng tôi cứ nghĩ đến luôn. Vì nó rất mập.
- Thế điều gì đã khởi phát mọi thứ? Điều gì đã xảy ra hôm đó?
- Tôi không biết nữa.
- Tôi chắc cô biết mà.
- Lúc nào tôi cũng sợ.
- Điều gì khiến cho cô bỏ đi vậy, Clarice? Vào lúc mấy giờ?
- Sớm lắm, trời vẫn còn tối.
- Như vậy, có một cái gì đó làm cho cô thức giấc. Điều gì đã làm cho cô thức vậy? Cô có nằm mơ không? Mơ đến điều gì vậy?
- Tôi thức giấc và nghe mấy con cừu kêu lên. Tôi mở mắt trong đêm tối và mấy con cừu cứ kêu be be.
- Họ làm thịt mấy con cừu vào mùa xuân phải không?
- Đúng.
- Thế cô đã làm gì?
- Tôi không làm được gì cho chúng cả. Tôi chỉ là...
- Thế cô đã làm gì với con ngựa cái?
- Tôi mặc đồ vào trong bóng tối và đi ra ngoài. Nó rất sợ, tất cả đàn ngựa trong chuồng đều hoảng sợ và đi lòng vòng. Tôi hà hơi vào mũi nó và nó nhận ra tôi. Nó áp mõm nó vào lòng bàn tay tôi. Đèn được bật sáng trong kho thóc và trong chuồng cừu. Các bóng đèn trần, nhiều bóng thật lớn. Chiếc xe đông lạnh đang chờ, máy vẫn nổ. Tôi dắt nó ra ngoài.
- Cô có thắng yên cho nó không?
- Không, tôi không lấy yên của họ, chỉ một bộ dây cương thôi.
- Lúc cô đi trong đêm tối, cô có nghe tiếng của đàn cừu không, tại nơi có đèn đó?
- Không nhiều, bởi vì chỉ có mười hai con thôi.
- Điều này vẫn làm cho cô thức giấc phải không? Thức giấc trong đêm tối và nghe tiếng cừu kêu be be phải không?
- Đôi khi.
- Cô có nghĩ mình sẽ bắt được Buffalo Bill không, chính cô chứ không phải những người khác, và nếu Catherine bình yên vô sự thì mấy con cừu sẽ không còn kêu la nữa, cô có nghĩ là chúng cũng có thể được cứu sống và cô sẽ không còn thức giấc trong đêm để nghe tiếng kêu la của chúng nữa, phải không Clarice?
- Đúng vậy. Tôi không chắc, có thể lắm.
- Cám ơn Clarice. - Bác sĩ Lecter tỏ ra rất yên lòng.
- Hãy nói cho tôi biết tên của hắn đi bác sĩ Lecter?
- Bác sĩ Chilton - Lecter thốt lên - Tôi nghĩ hai người đã biết nhau rồi.
Ngay lúc đó Clarice không hiểu rằng Bác sĩ Chilton đang đứng sau lưng cô. Và ông chụp lấy cùi chỏ cô.
Cô giật tay ra và hai cảnh sát viên liền đứng hai bên Bác sĩ Chilton.
- Vào thang máy ngay - ông ta nói với vẻ mặt xám xịt.
- Cô có biết Bác sĩ Chilton không có một mảnh bằng y khoa nào không? - Lecter nói - Tôi xin cô, đừng bao giờ quên điều đó.
- Nào đi thôi - Chilton nhấn mạnh.
- Ông không phải là người chỉ huy ở đây - Clarice đáp lại.
Viên cảnh sát nhỏ con tiến tới trước.
- Không, thưa cô, là tôi đây. Ông ta đã gọi cho cấp chỉ huy của cô và của tôi. Tôi rất tiếc nhưng tôi được lệnh phải buộc cô đi. Cô hãy theo tôi.
- Tạm biệt Clarice. Nếu mấy con cừu không còn khóc nữa, cô sẽ cho tôi biết chứ?
- Được.
Pembry nắm cánh tay cô. Đành phải theo hoặc đánh lại anh ta.
- Được, tôi sẽ báo cho ông.
- Hứa chắc chứ?
- Chắc mà.
- Nếu thế, sao cô không phá nốt nửa cái vòm còn lại đi. Cô hãy cầm lại hồ sơ này đi Clarice, tôi không còn cần đến nó. - Ông đưa nó qua song sắt. Cô đưa tay ra lấy. Trong một khoảnh khắc, đầu ngón trỏ của cô đụng phải ngón tay của bác sĩ Lecter. Với sự tiếp xúc này, mắt ông sáng hẳn lên.
- Cám ơn Clarice.
- Cám ơn bác sĩ Lecter.
Và vì thế mà ông luôn tồn tại trong ký ức của Clarice. Kể từ giờ phút đó, ông không hề chế giễu Clarice nữa. Đứng trong cái xà lim trắng toát, người uốn cong như một vũ công, hai bàn tay chập lại trước mặt, đầu hơi nghiêng qua một bên.
Tại phi trường, Clarice bước đi quá mau, đến mức cô đụng đầu vào người khác, vì cô phải chạy để đáp kịp chuyến bay mà Krendler buộc cô phải đi.

3
Pembry và Boyle là hai nhân viên canh gác đầy kinh nghiệm, được phái đặc biệt từ Nhà tù Liên bang Brushy Mountain đến đây canh giữ bác sĩ Lecter. Họ rất bình tĩnh và cảnh giác nên Bác sĩ Chilton không cần phải chỉ dạy họ phải làm gì.
Đến trước Lecter, họ đã khám xét phòng giam này, không bỏ sót bất cứ nơi nào. Khi người ta đưa tên tội phạm đến tòa án cũ này, họ cũng đã làm như thế với ông ta. Một y tá làm công việc khám xét toàn bộ thân thể trong khi ông ta vẫn đang mặc áo trói và người ta cho các đường may vào máy dò kim loại.
Pembry thì thầm thật dịu dàng trong lúc khám xét ông ta.
- Bác sĩ Lecter, chúng tôi không muốn gây khó khăn với ông. Thái độ của chúng tôi tùy thuộc vào thái độ của ông. Ông hãy tỏ ra lịch lãm và mọi việc sẽ tốt đẹp. Nhưng chúng tôi không hề sợ ông. Ông cứ thử cắn xem, ông sẽ thấy có một cái răng rụng trong miệng ông đấy. Ở đây, có vẻ mọi thứ đều tốt đẹp cho ông. Ông không nên làm rối tung lên, có được không?
Bác sĩ Lecter nhìn họ rồi thân thiện chớp mắt. Dù ông có muốn trả lời đi nữa, ông vẫn không thể nói được vì người ta đã chêm một cái chốt bằng gỗ chặn hai hàm răng để kiểm tra trong họng và dùng ngón tay được mang găng cao su, rà soát các lợi của ông.
Chiếc máy dò kim loại mà người ta đưa trên gò má ông kêu bíp bíp.
- Cái gì thế? - người y tá hỏi.
- Chì trám răng - Pembry trả lời. - Hãy kéo môi trên lên, thấy không.
- Theo ý tao, ông ta không còn gì để than phiền nữa, có phải không? - Boyle thổ lộ với Pembry, sau khi họ nhốt ông vào xà lim. - Ông ta sẽ không gây rắc rối gì nữa trừ phi hoàn toàn mất trí.
Cái xà lim này, dù cho có chắc chắn và tuyệt đối an toàn, nhưng nó không có hệ thống chuyền thức ăn. Đến giờ ăn trưa, sau cái không khí khó chịu của cuộc viếng thăm của Clarice, Bác sĩ Chilton làm cho mọi người phải bực mình khi buộc Boyle và Pembry, trước khi bước vào trong xà lim, phải mặc áo trói vào cho Bác sĩ Lecter.
Chilton không bao giờ chịu gọi Boyle và Pembry bằng tên của họ mặc dù hai người này có mang bảng tên, chỉ gọi bằng cách “Ê, anh kia”.
Sau khi biết Chilton không phải là bác sĩ, Boyle nói lời nhận xét của mình với Pembry.
- Có thể ông ta “chỉ là một tên giáo sư bẩn thỉu.”
Pembry đã cố giải thích cho Chilton biết việc chấp thuận cho Clarice viếng thăm ông ta là do người nhân viên ở dưới lầu, nhưng điều này cũng không làm cho ông nguôi cơn giận.
Trong giờ ăn tối không có mặt Chilton, nên các người canh giữ áp dụng phương pháp của riêng họ, trước sự sửng sốt tột cùng của Lecter.
- Bác sĩ Lecter, tối nay ông không cần phải mặc áo dạ hội - Pembry tuyên bố. - Tôi chỉ yêu cầu ông ngồi xuống sàn nhà và đưa hai cánh tay ông ra ngoài song sắt, đưa thật cao ra phía sau. Đúng như vậy đấy. Hãy cứng người thêm nữa, các cùi chỏ thẳng lên nữa. - Pembry còng tay ông lại bên ngoài song sắt, mỗi cánh tay ở một khe song sắt, và một thanh sắt dẹp chặn ngay giữa hai tay. - Nó hơi đau một chút, có phải không, nhưng nó chỉ mất có một phút thôi và tránh cho chúng tôi nhiều phiền phức, và cả cho ông nữa.
Với cách này, bác sĩ Lecter không thể đứng thẳng người hoặc quỳ gối, hai chân ông chỉ có thể duỗi thẳng ra phía trước và ông không thể nào dùng chân để đá được.
Chỉ khi nào ông bị bất động, Pembry mới bước lại bàn làm việc lấy chìa khóa xà lim, gài cây dùi cui vào trong thắt lưng, nhét bình xịt hơi bất tỉnh vào trong túi rồi bước tới cửa xà lim. Anh mở cửa để cho Boyle bưng cái mâm thức ăn vào. Sau khi khóa cửa lại, anh đem chìa khóa về bàn làm việc lại, rồi mở còng cho người tù nhân. Không một lúc nào anh đến gần các song sắt với cái chìa khóa xà lim trong khi ông bác sĩ tự do đi lại trong đó.
- Cũng khá hiệu nghiệm đấy chứ, có phải không? - Pembry hỏi.
- Rất tiện lợi, xin cám ơn các anh. Các anh biết không, tôi chỉ muốn sao cho thoải mái thôi.
- Chúng tôi cũng thế anh bạn.
Bác sĩ Lecter ăn qua loa trong khi viết và vẽ nguệch ngoạc trong cuốn sổ tay với một cây bút phớt. Ông đổi mặt cuốn băng trên máy. Gleen Gould biểu diễn trên dương cầm Các Biến tấu của Goldberg. Âm nhạc, mà vẻ đẹp thoát khỏi thời gian và hoàn cảnh, tràn ngập cái chuồng sáng trưng và luôn cả căn phòng mà các người canh giữ đang hiện diện.
Đối với Bác sĩ Lecter, thời gian đã đi chậm lại và trải dài giống như lúc ông ta hành động. Các nốt nhạc cách xa nhau mà không mất nhịp. Ngay những “mở đầu” hùng hồn của Bach cũng chỉ là những nốt êm dịu trong sáng, xóa đi chất thép quanh ông. Ông đứng lên, vẻ hoàn toàn bị cuốn hút, nhìn cái khăn giấy từ từ rớt xuống đất. Nó bay thật lâu trong không khí, lướt qua một chân bàn và lật ngược lại trước khi nằm hẳn trên nền kim loại. Ông không buồn nhặt nó lên, nhưng lấy cuộn giấy vệ sinh và lẩn người sau bức bình phong, ngồi trên nắp bàn cầu, nơi duy nhất không ai nhìn thấy ông được. Ông vẫn chăm chú nghe nhạc, đầu hơi cúi tới trước, cằm chống lên bàn tay, hai mắt nâu kỳ lạ hơi khép lại. Ông chỉ quan tâm đến các cấu trúc của Các Biến tấu mà thôi. Ông dùng đầu để đánh nhịp, lưỡi chạy quanh bờ môi, hết môi trên rồi đến môi dưới.
Rồi ông lại làm điều đó với các lợi, đẩy lưỡi vào khoảng trống giữa răng và gò má, chậm rãi như đôi khi người ta vẫn làm như lúc họ đang nghiền ngẫm vậy. Các lợi tươi mát hơn lưỡi của ông, còn trên hốc thì lạnh hơn. Khi lưỡi ông đụng vào ống thép nhỏ, nó dừng lại.
Vượt trên âm nhạc, ông nghe được tiếng thang máy khởi động và lên từ từ. Sau nhiều nốt nhạc, cánh cửa mở ra và một giọng ông chưa nghe bao giờ nói:
- Tôi đến lấy mâm đây.
Ông nghe tiếng người cảnh sát viên nhỏ con bước lại gần, và liếc nhìn qua khe của bức bình phong. Pembry đứng dựa vào song sắt.
- Bác sĩ Lecter, ông hãy lại ngồi xuống đây, hai tay thọc ra ngoài song sắt, như chúng ta đã làm lúc nãy.
- Mấy anh chịu khó chờ cho tôi xong đã. Tôi e cuộc du hành đã làm hỏng hệ thống tiêu hóa của tôi rồi. - Hai câu nói này kéo dài một cách kỳ lạ trong không gian.
- Đồng ý - và Pembry bỏ đi. - Chúng tôi sẽ gọi anh khi nào ông ta xong.
- Tôi có thể nhìn qua ông ta một cái được không?
- Chúng tôi sẽ báo cho anh sau.
Chiếc thang máy đi xuống và chỉ còn lại âm nhạc.
Bác sĩ Lecter lấy cái ống nhỏ ra khỏi miệng và lau khô bằng giấy vệ sinh. Tay ông không hề run, lòng bàn tay hoàn toàn khô ráo.
Trong suốt nhiều năm bị giam cầm và với tính tò mò không biết chán, đã giúp cho ông học khá nhiều mánh khóe của mấy tên tù khác. Từ khi ông tấn công người nữ y tá, tại dưỡng trí viện ở Baltimore, các biện pháp an ninh chỉ bị nới lỏng có hai lần vào dịp nghỉ phép của Barney. Một hôm, một bác sĩ tâm lý học có cho ông mượn một cây bút bi và quên lấy lại. Trước khi ông ta rời khỏi khoa, ông đã bẻ nát và bỏ cái vỏ nhựa vào trong bàn cầu. Cái ống mực bằng kim loại, ông đã lận nó vào trong đường may viền của cái nệm.
Vật duy nhất sắc bén khác trong xà lim là mép xơ của một trong các con bù lon gắn chiếc giường vào trong tường. Như thế quá đủ rồi. Sau khi mài ống kim loại này trong hai tháng liền, bác sĩ Lecter đã tạo trên đó hai đường rãnh song song, dài khoảng năm ly. Sau đó ông cắt cái ống thành hai khúc với chiều dài khoảng hai phân rưỡi, sau đó thủ tiêu hết những thứ còn lại cùng đầu bút bi. Barney không hề để ý đến các chỗ chai ở đầu các ngón tay do những đêm dài chà miệt mài cái ống đó.
Sáu tháng sau, một nhân viên gác để nguyên một cây kim kẹp lớn trong tập hồ sơ mà vị luật sư gởi cho Bác sĩ Lecter. Hai phân rưỡi bằng thép lại chui vào trong cái ống, còn những thứ khác thì biến mất trong bàn cầu. Thật quá dễ dàng để giấu kín cái ống nhỏ trơn tru đó trong đường may của bộ y phục, giữa gò má và lợi, trong hậu môn.
Ngay lúc này, ngồi sau bức bình phong bằng giấy, bác sĩ Lecter gõ nhẹ cái ống lên móng tay để lấy cái kẹp ra. Đây là dụng cụ, nhưng điều khó khăn nhất vẫn còn còn ở phía trước. Bác sĩ Lecter cho phân nửa cái kẹp vào trong cái ống nhỏ, và hết sức cẩn thận ông dùng cái ống làm đòn bẩy để uốn thẳng cái kẹp ngay nơi khe hở. Có lần cái mép khe bị cong, nhưng hết sức thận trọng, ông dùng đôi tay khỏe mạnh của mình để nắn cái đầu thép nhỏ đó cho đến khi nó tạo được góc chín mươi độ với cái ống. Đây rồi, ông đã có một chìa khóa còng.
Bác sĩ Lecter chắp hai tay sau lưng, chuyền cái khoá từ tay này qua tay kia khoảng mười lăm lần, rồi bỏ lại vào trong miệng, rửa hai tay cho thật sạch. Nhưng ông lại lấy nó ra, giấu thật kỹ giữa hai ngón của bàn tay phải, biết rằng Pembry chỉ đế ý đến bàn tay sáu ngón kỳ lạ của ông thôi.
- Tôi xong rồi, nhân viên Pembry. - Ông ngồi xuống sàn, và qua khe của song sắt đưa hai bàn tay ra bên ngoài. Cám ơn các anh đã có nhã ý chờ tôi. - Nói có vẻ như một bài diễn văn dài nhưng mang đầy âm sắc của nhạc.
Pembry ra đứng sau lưng ông. Anh ta sờ vào cả hai cổ tay xem ông có thoa xà bông vào không, xong Pembry tra còng vào. Anh đi lại cái bàn, lấy cái chìa khóa mà người lính canh đã lấy từ trong ngăn tủ ra.
Pembry trở lại kiểm tra còng một lần nữa. Bác sĩ Lecter cảm nhận được hơi thở của anh ta phía sau lưng ông. Rồi anh này mở cửa xà lim và đẩy cửa vào. Đến lúc này Boyle bước vào. Bác sĩ Lecter quay đầu ngang qua; hình ảnh của cái xà lim chuyển động có phần chậm chạp trái lại các chi tiết thì rõ vô cùng. Boyle đứng trước cái bàn, đang gom đĩa và những gì còn lại của bữa ăn, gây quá nhiều tiếng động. Máy thu băng với các cuộn băng đang quay, cái khăn giấy ở dưới sàn cạnh cái chân bàn được gắn bulon. Giữa các song sắt, Bác sĩ Lecter liếc nhìn thấy đầu gối của Pembry đang chặn cánh cửa mở, với cái dùi cui treo lủng lẳng ở dây nịt.
Bác sĩ Lecter dùng bàn tay phải để tìm lỗ khóa còng, đút chìa khóa vào và xoay. Ông cảm nhận được cái lò xo giải phóng cổ tay ông. Ông đưa chìa khóa qua bên tay trái để mở nốt cổ tay kia.
Boyle cúi xuống lượm cái khăn giấy. Nhanh như con rắn tấn công, cái còng khóa ngay cổ tay của Boyle, anh trố mắt nhìn Lecter, còn phần kia của cái còng được cài vào ngay chân bàn. Rút hai chân lại, ông phóng người tới cánh cửa trong lúc Pembry đang cố tránh nhưng vai ông đã hất cánh cửa trúng ngay người anh ta. Pembry định chụp bình xịt hơi bất tỉnh để trong túi quần nhưng cánh cửa đang đè nặng lên tay anh. Lecter chụp cây dùi cui và kéo sát Pembry về phía mình, dùng cùi chỏ đánh vào ngay cổ họng và dùng miệng cắn vào mặt anh ta. Pembry cố đánh Lecter nhưng không kết quả vì bị cắn nát cả mũi và môi trên. Người tù lắc lia lịa và giật được cây dùi cui ra khỏi thắt lưng của Pembry. Trong xà lim, Boyle ngồi dưới sàn nhà, hét inh ỏi, trong khi bàn tay tìm một cách vô vọng cái chìa khóa còng, tìm được rồi nhưng lại để rớt nó, rồi lượm nó lên. Lecter thọc thật mạnh đầu dùi cui vào ngay bụng của Pembry, rồi đến cổ họng làm anh ta té khuỵu xuống. Boyle tra được chìa khóa vào trong còng, miệng vẫn hét. Lecter bước lại gần anh ta và bằng một làn hơi bình xịt làm cho anh ta nín thinh, ho sặc sụa. Ông đánh gãy tay anh ta bằng hai cú dùi cui. Boyle cố chui xuống gầm bàn, nhưng bị mù vì hơi của bình xịt, nên bò sai hướng, dễ dàng cho Lecter kết liễu anh với vài cú đánh bồi khác.
Pembry ngồi xuống được, và cũng hét. Bác sĩ Lecter nhìn anh với ánh mắt đỏ ngầu. Tôi đã sẵn sàng rồi nếu anh cũng thế Pembry.
Cái dùi cui tạo một hình vòng cung trong tiếng rít và giáng thật mạnh ngay ót của Pembry, làm cho thân hình anh giựt liền mấy cái trước khi té nhào xuống như một con cá bị đập đầu.
Mạch của bác sĩ Lecter, nhảy vọt lên hơn một trăm trong sự vận động này, mau chóng hạ xuống mức bình thường lại. Ông tắt nhạc để nghe ngóng.
Ông bước lại gần cầu thang và lắng tai nghe nữa. Ông lấy hết đồ trong túi của Pembry ra, tìm thấy chìa khóa của bàn làm việc và mở hết các ngăn tủ ra. Trong ngăn cuối cùng có súng của hai người này, hai khẩu P 38. Hay hơn nữa, trong túi của Boyle, ông tìm thấy một con dao nhíp.
 
--!!tach_noi_dung!!--

Đánh máy: Hoàng Liêm
Nguồn: thuvien-ebook
Được bạn: mọt sách đưa lên
vào ngày: 30 tháng 1 năm 2013

--!!tach_noi_dung!!--
Chương 11
--!!tach_noi_dung!!--
Chương 13
--!!tach_noi_dung!!--