Chương 7
1

    
âu nói của xế nữ như một nhát dao đâm thẳng vào trái tim anh trinh sát. Anh ôm ngực, đau đớn gục xuống như một thanh niên thất tình. Anh trông thấy bàn chân son của cô chùi đi chùi lại trên tấm thảm, so với tay còn khéo hơn. Anh căm ghét cô quá đỗi, nghiến răng chửi: “Con đĩ!” Rồi bước ra phía cổng. Nữ xế gọi với theo: “Khách làng chơi, đừng đi! Mạt sát phụ nữ thì là cái giống gì?”. Nhưng anh vẫn rảo bước đi ra cổng. Chiếc li thuỷ tinh bay vụt bên tai kèm theo tiếng gió rít, đập vào cánh cổng bật trở lại trên mặt đất. Anh ngoảnh lại, thấy cô dướn ngực mà thở, mắt mọng nước. Chợt thấy trong lòng bối rối, anh hạ giọng nói: “Không ngờ cô lại vô liêm sỉ đến thế, ngủ với thằng lùn, vì tiền hả?” Cô khóc tấm tức một hồi rồi đột nhiên gào toáng lên lạc cả giọng, đến nỗi những mảnh kim loại trang trí trên đèn va vào nhau leng keng. Cô xé áo ngực, nắm tay đập vú bồm bộp, dùng móng tay cào rách mặt, vò đầu bứt tóc, đập đầu vào tường. Trong khi điên cuồng tự hành hạ mình, cô gào đến rách họng, đuổi anh trinh sát:
- Cút… cút…anh cút đi!…
Anh trinh sát sợ chết khiếp vì chưa bao giờ gặp tình huống này. Anh có cảm tưởng thần chết đang sờ mũi anh bằng những ngón tay lạnh giá có móng màu đỏ. Anh té đái, nước tiểu vãi ra đùi mặc dù anh biết đái ra quần thì không đẹp mặt chút nào, lại rất khó chịu, nhưng anh cứ để mặc, nếu không, anh sẽ vỡ thành trăm mảnh! Đái ra quần, tinh thần được giải phóng, anh cảm thấy thoải mái. Anh năn nỉ:
- Xin cô đừng làm thế!.. Tôi van cô…
Cô xế không cảm động trước những lời van xin của anh, không cảm động về chuyện anh sợ vãi đái ra quần mà thôi tự hành hạ, khóc lóc. Cô đập đầu vào tường càng mạnh hơn, phát ra những tiếng “bịch bịch”, gần như có thể bể sọ bất cứ lúc nào. Anh trinh sát nhào tới ôm chặt eo lưng cô. Cô đứng thẳng lên, buột ra khỏi tay anh, bây giờ thì không đập đầu vào tường nữa, mà chuyển sang gặm mu bàn tay như ngươi ta gặm móng lợn, gặm thật sự, không giả vờ, chỉ vài cái gặm đã máu mê nhoe nhoét. Trong lúc nguy cấp, anh trinh sát nảy ra một ý, vả lại cũng không còn cách nào khác, anh quì xuông trước mặt cô, dập đầu lia lịa:
- Mẹ đẻ ơi! Gọi cô bằng mẹ, cô bằng lòng chưa? Xin mẹ đừng trách tiểu nhân, bụng đại tướng thì nên độ lượng, chấp nhặt tôi làm gì, tôi chỉ là cái rắm thôi!
Chiêu này hoá ra hiệu nghiệm. Cô dừng gặm, mắt nhắm lại, oà khóc. Anh trinh sát đứng dậy, giống như những tên lưu manh vô lại trong phim ảnh, anh tự vả vào mặt, hết trái sang phải, vừa vả vừa chửi:
- Tôi không phải là người, tôi là đồ súc sinh, là thổ phỉ, là lưu manh, là đồ giòi bọ trong đống phân. Đánh cho chết cái thằng tôi mất dạy này!
Cái tát thứ nhất anh có cảm giác nóng như chèm lửa trên mặt. Nhưng từ cái thứ năm trở đi, da mặt anh như da trâu, không biết đau là gì, cũng không có cảm giác nóng, chỉ thấy tê tê. Tiếp tục tát, cảm giác tê cũng biến mất, chỉ nghe thấy tiếng bốp bốp như tát vào một con lợn bột hoặc mông người chết chứ không phải mặt mình. Anh tát một mạch ngày càng mạnh với một khoái cảm trả thù ai đó. Về sau anh ngừng tự nguyền rủa, để dành sức cho hai cánh tay, và thê là tiếng bạt tai càng ròn rã. Anh trông thấy cô mím chặt môi, dùng khóc, đứng ngẩn ra mà nhìn. Anh trinh sát mừng thầm, tát thêm mấy cái thật mạnh rồi dừng tay. Lúc này anh nghe có tiếng ồn ào ngoài hành lang, liền thận trọng hỏi cô: “Thưa tiểu thư, còn giận tôi nữa không?”
Cô trợn mắt há miệng, đứng như trời trồng, nét mặt như ác quỷ khiến anh trinh sát rụng rời. Anh từ từ đứng dậy, miệng bẻo lẻo nhưng trong bụng thì căm vô cùng, hai chân nhích dần ra phía cửa. - Xin cô bớt giận, tôi sinh ra chỉ mỗi một cái miệng chứ không phải lỗ trốn, vậy mà rách việc hơn lỗ trốn. Xưa nay tôi toàn vạ miệng, rất khó sửa - Mông đít anh đã chạm cửa - Tôi rất không phải, mong cô tha lỗi - Mông anh hẩy mạnh, cánh cửa rít lên đánh kít chói tai. Tôi là cái đồ khôn kiếp, tôi đúng là cái thứ rác rưởi nôn ra từ trong bụng cori mèo! Thực đáng ghét, đúng thế, thực đáng ghét! - Anh nói như máy. Cuối cùng cảm thấy sống lưng lạnh toát. Anh nhìn cô lần cuối rồi lách qua khe cửa ra ngoài, cánh cửa tự động khép lại chặn đường ra của cô. Anh trinh sát không kịp suy nghĩ gì thêm, co giò chạy về phía cuối hành lang, hoảng loạn như chó nhà có tang, như cá nhảy ra khỏi chỗ lưới thủng. Ngược chiếu với anh là một người đàn ông nhỏ con ăn mặc chững chạc, có một thị nữ theo hầu, xăm xăm đi tới. Nhanh như cắt, mặc cho cô nữ tì rú lên vì ngạc nhiên, anh vọt qua đầu người lùn, cỡ hai tầm cao của anh ta mà chạy về cuối hành lang, rẽ phải, đẩy cánh cửa đánh véc ni, một tập hợp những mùi mặn ngọt của cay xộc vào mũi, hơi nước bốc ngùn ngụt bao vây quanh anh. Một đám người nhỏ xíu đang bận rộn, người chặt thái, người làm lông, người rửa bát, người pha chế, tưởng rất lộn xộn nhưng tuần tự đâu ra đấy. Anh giẫm phải những vật gì dưới chân, nhìn xuống hoá ra một đông pin bò đông lạnh, khoảng mấy chục chiếc. Anh lập tức nhớ món “Long phượng trình tường”, nhớ bữa đại tiệc ăn lừa cả con. Mấy người lùn dùng công việc nhìn anh. Anh rút êm, tìm thấy cầu thang, bám tay vịn chạy xuống theo hình trốn ốc nghe thấy tiếng kêu thê thảm của phụ nữ, lập tức nước tiểu còn sót hồi nãy lại són ra quần. Sau khi hét một tiếng, người phụ nữ câm bặt, một ý nghĩ không hay lóe lên trong đầu, nhưng anh nghĩ, kệ cô ta! Bất chấp tất cả, anh xông vào gian đại sảnh nền lát đá Đại Lý mà từng đàn nam nữ xanh đỏ loè loẹt đang rập rình nhảy múa, công khai phá thối bản nhạc du dương, như một con chó điên cùng đường dứt giậu, như một phát đại bác đen sì nổ tung quán Một Thước.
Chạy vào một ngõ tối anh mới chợt nhớ ra, tiếng kêu hồi nãy là của hai cô tiếp viên lùn hoảng sợ khi thấy anh. Anh tựa lưng vào tường mà thở hồng hộc, mắt vẫn dõi về phía quán Một Thước. Đèn nê ông trên cổng lớn thay đổi màu sắc, những hạt mưa phùn rơi xiên chợt đỏ chợt xanh chợt vàng. Anh nhận biết được mình đang dầm mình trong một đêm đông rét mướt, lưng tựa vào tường đá lạnh toát. Chỉ có tường vây của nghĩa trang mới ẩm thấp thế này, anh nghĩ, khi thành phố Rượu cùng Cái Ác kết thành oan gia khó gỡ, đêm nay nếu không phải từ cõi chết trở về thì cũng coi như vừa thoát khỏi hang hùm nọc rắn. Tiếng nhạc dìu dặt từ quán Một Thước lọt ra bên ngoài, chảy tràn trong đêm, anh nghe nhạc mà trong lòng chua xót, nước mắt chảy dài trên má. Có lúc anh tự đề cao bản thân, coi mình như một công tử sa cơ lỡ bước nhưng không cỏ tiểu thư quí tộc nào đến ứng cứu. Không khí càng ẩm và lạnh, căn cứ vào mức độ tê buốt ở chân, anh đoán trời đã lạnh dưới không độ. Thời tiết ở thảnh phố Rượu đột nhiên trở lạnh, những hạt mưa phùn rơi xuống lập tức biến thành một lớp băng trên mặt đất. Xa xa, một cỗ xe cô đơn lắc lư trên đường phố. cảnh tượng một đàn lừa đen chạy trên đường như trong một giấc mơ trở lại trong đầu, anh tự hỏi, đúng là có chuyện như vậy chăng? Đúng là có một nữ quái tồn tại trên đời này sao? Đúng là có một trinh sát viên ngoại hạng về thành phố Rượu điều tra vụ ăn thịt trẻ con phải không? Chẳng lẽ mình lại là Đinh Câu? Anh sờ mặt tường: lạnh toát; dẫm lên mặt đất: rắn như đá; ho lên một tiếng: ngực đau buốt. Tiếng ho vang xa, mất hút vào đêm đen. Anh chứng minh tất cả đều là thực, nên không có cách nào xua đuổi cảm giác nặng nề.
Anh cảm thấy những giọt mưa đã biến thành băng rơi trên mặt, ngứa như mèo cào. Mặt bỏng rát, anh thầm trách anh đã tự vả vào mặt như một tên vô lại. Lại cảm thấy tê, lại cảm thấy rát, bộ mặt kinh tởm của cô xế lại hiện ra cùng với cảm giác tê rát, đuổi không đi, cứ chập chòn trước mặt. Bộ mặt khả ái của nữ xế lại hiện ra cùng với bộ điệu kinh tởm, phẫn nộ và ghen ghét quyện vào nhau nhồi cứng bàng quang, đầu độc tâm linh anh như một thứ rượu cực mạnh. Anh có vẻ hơi tỉnh mà nhận ra rằng chuyện tai hại nhất đã xảy ra: anh đã yêu người đàn bà quái quỷ này! Anh và cô ta đã bị buộc chặt vào nhau như hai con cào cào!
Anh trinh sát đấm vào tường vây của nghĩa trang hoặc lăng mộ liệt sĩ, miệng chửi: - Con đĩ, con đĩ! Con đĩ thối thây! Con đĩ thối thây chỉ vì một đồng bạc mà tụt quần ra! - Bàn tay tê buốt giảm nhẹ nỗi đau trong lòng. Thế là anh đấm táy kia vào tường, đập trán vào tường vô hồi kỳ trận.
Một luồng ánh sáng chụp lên người anh. Hai cảnh sát tuần đêm nghiêm giọng hỏi:
- Anh này làm gì thế?
Anh chậm rãi quay lại, lấy tay che mất, cứng lưỡi không nói được.
- Lục soát trong ngươi xem!
- Lục soát làm gì một thằng điên.
- Không được làm ồn, nghe rõ chưa?
- Về nhà đi, còn quậy là đưa về đồn!
Cảnh sát bỏ đi, trước mắt anh trinh sát là màn đêm đen kịt. Anh cảm thấy vừa lạnh vừa đói, đầu nhức như búa bổ. Lí trí trở lại trong đêm đen, những câu cật vấn của cảnh sát nhắc anh nhớ lại thòi vẻ vang. Ta là ai? Ta là Đinh Câu, trinh sát viên lẫy lừng tên tuổi của Viện Kiểm sát tỉnh. Đinh Câu tuổi trung niên, từng lăn lộn trong tình trường không nên phát điên vì một người đàn bà ngủ với thằng lùn. “Vô lý hết sức!” Anh lẩm bẩm, rút khăn tay lau máu trên trán, nhổ liền mấy bãi nước bọt lẫn máu. Anh em ở nhà mà biết trò hề hôm nay của anh, họ cười cho thối mũi! Anh sờ thắt lưng, vật cưng cứng vẫn còn, trong lòng dịu đi phần nào. Đi tìm nhà trọ, ăn chút gì đó, nghỉ qua đêm, ngày mai phải tóm cổ bọn này. Anh lệnh cho mình tiến lên, bứt khỏi quán cơm phù thuỷ Một Thước, không ngoái lại.
Lần theo ngõ tối, anh trinh sát định cất bước thì bị trượt ngã bổ chửng, đầu đập xuống đất đánh “bịch”! Tay chạm đất, cảm thấy đất lạnh ngắt. Anh lồm cồm bò dậy dò dẫm từng bước, mặt đường lồi lõm, rất khó đi sau khi nước đóng băng. Anh chưa từng đi loại đường như thế này bao giờ. Bất chợt quay đầu lại, trông thấy đèn đóm quán Một Thước sáng trưng mà đau nhói trong tim! Như con thú bị trúng đạn, anh ngã sấp rên rỉ, ngọn lửa xanh cháy trong não, dòng máu đỏ xông lên đầu, đầu anh phình ra như quả bóng, nổ tung bất cứ lúc nào.
Nỗi đau khiến miệng anh há hốc, anh gào lên, tiếng gào rin rít như tiếng kêu của bánh xe cút kít chở nước trong ngõ lát đá xanh. Âm thanh hòi thúc, người anh tự nhiên lăn theo bánh xe để tránh bị nghiến, người trở thành bánh xe, người dính chặt vào bánh xe, cùng với tiếng lọc cọc của bánh xe lăn, anh nhìn thấy đường phố, bức tường đá, rừng cây, đoàn người, các công trình kiến trúc… tất cả đang chuyển động, lăn tròn từ không độ tới ba trăm sáu mươi độ, chuyển động không ngừng. Trong khi chuyên động, anh lò mò cảm thấy ở thắt lưng có một vật cứng, đau không chịu nổi. Anh nhớ tới khẩu súng liền rút ra. Sờ thấy đường nét quen thuộc của báng súng, tim anh đập rộn lên, một thòi vẻ vang lại hiện ra trước mắt anh. Đinh Câu, làm sao mày sa đoạ đến nông nỗi này? Lê lết khắp chôn như một con ma men! Vì một con đàn bà ngủ với thằng lùn mà mày huỷ hoại thân mày, biến mày thành đồ rác rưởi! Có đáng như vậy không? Không, không đáng phải như thế. Bò dậy! Đứng dậy! Hãy tỏ ra một đàn ông thực thụ! Anh chống tay xuống đất đứng lên, cảm thấy trời đất quay cuồng chao đảo. Ánh đèn chênh chếch phía đối diện của quán Một Thước rủ rê anh… Chỉ nhìn thấy ánh đèn đó, ngọn lửa xanh trong đầu anh lại bùng cháy dữ dội, ánh sáng của lí trí lại bị che khuất. Anh cố cưỡng lại sức cám dỗ ma quái của ánh đèn. Nó soi sáng cảnh hút hít và hành lạc, tội ác tày trời, sức hấp dẫn cực lớn như một xoáy nước khổng lồ, mà con người như cọng cỏ bên vòng xoáy. Anh lấy đầu nòng súng chọc mạnh vào bắp đùi để cái đau xua đuổi những ý nghĩ vẩn vơ, rên lên một tiếng, lê từng bước trong đêm tôi.
Con hẻm tối mò gần như dài vô tận, không đèn đóm nhưng qua sáng sao có thể nhìn thấy đường viền của những bức tường đá hai bên đường. Cơn mưa nửa- tuyết- nửa- mưa ngày càng dày đặc, gây nên tiếng động thần bí rợn người. Qua tiếng động đó, anh đoán ra hằng hà sa số những cây tùng xanh bách biếc đứng im bên bức tường đá, tượng trưng cho những anh hồn hi sinh cho thành phố nhỏ bé này. Ngàn vạn liệt sĩ đã hi sinh thân mình cho quyền lợi của dân, vậy những người còn sống có thể rũ bỏ mọi đau khổ! Anh tự nhủ, sửa lại câu nói nổi tiếng như trên, nỗi đau trong lòng nhẹ bớt. Ánh đèn của quán Một Thước bị lớp lốp những công trình kiên trúc nuốt chửng, bức tường kẹp hai bên con hẻm bị những ý nghĩ vơ vẩn nuốt chửng, thời gian trôi, đêm tối bước đi trong mưa tuyết loạn xạ, tiếng chó sủa mơ hồ càng tăng thêm vẻ huyền bí của phố nhỏ. Thình lình anh đã ra đến đầu con hẻm lát đá, một cây đèn măng xông chào đón anh phía trước. Anh chạy tối như con thiêu thân trông thấy ánh đèn.
Một gánh vằn thắn nằm gọn trong quầng sáng của cây đèn. Anh trông thấy ánh lửa màu vàng kim trong lò, nghe thấy tiếng than nổ tí tách bắn ra những tia lửa, ngửi thấy mùi đậu nướng thơm phức, anh còn nghe thấy tiếng vằn thắn nhào lộn trong nước sôi và mùi vị lịm người của nó. Anh không nhớ anh nhịn đã bao lâu, ruột đau quặn, sôi sùng sục, hai chân mềm nhũn đỡ không nổi thân người, toàn thân run bần bật, mồ hôi lấm tỂÍm trên trán. Anh ngồi sụp trước gánh hàng rong.
Ông già bán vằn thắn nắm cánh tay lôi anh dậy. Anh nói:
- Ông ơi, cháu ăn vằn thắn!
Ông già ấn anh ngối xuống chiếc ghế bố, bê cho anh một bát vằn thắn. Anh đón lấy bát, thìa, và không kịp biết nó nóng hay nguội, chỉ một loáng hết veo. Một bát vào bụng, cái đói càng làm dữ. Ăn một mạch bốn bát hình như vẫn chưa no, nhưng khi cúi xuống, một viên vằn thắn từ dạ clày trồi lên họng.
- Ăn nữa không? - Ông già hỏi.
- Thôi ạ, bao nhiêu tiền?
- Chú đừng hỏi nữa - Ông già nhìn anh bằng con mắi; thương hại, nói - Nếu tiện chú trả tôi bốn xu, không có thì thôi, coi như tôi đãi chú!
Lòng tự trọng của anh trinh sát bị xúc phạm ghê gớm. Anh ước gì trong túi có tò bạc một trăm đồng mới cứng, góc sắc như dao, gẩy ngón tay kêu sột soạt, quẳng cho ông già cùng với cái nhìn khinh khỉnh rồi bỏ đi, miệng huýt sáo, tiếng sáo sắc như dao cau rạch thủng màn đêm, để lại cho ông một ấn tượng sâu sắc suốt đời không quên. Nhưng trong túi anh trinh sát không còn một xu. Khi ngôn ngấu vằn thắn, anh ngốn ngấu cả sự lúng túng ngượng ngập. Vằn thắn từng viên trồi lên họng, anh nhai rồi lại nuốt, giờ đây anh mới thực sự thưởng thức mùi vị của nó. Anh đau xót mà nghĩ rằng anh đã trở thành loài nhai lại. Anh căm giận khi nghĩ tới thằng tiểu yêu đánh cắp ví tiền, đồng hồ, bật lửa, chứng minh thư, dao cạo râu… của anh, nghĩ tới Khoan Kim Cương mày râu nhẵn nhụi, nghĩ tới tính cách quái đản của nữ xế, nghĩ tới Dư Một Thước tèn tuổi lừng lẫy. Khi nghĩ tới Dư Một Thước, tấm thân tròn lẳn rắn chắc của nữ xế hiện ra, nằm ngang trước mặt anh, ngọn lửa xanh trong đầu lại bùng lên dữ dội. Anh vội cứu bản thân anh ra khỏi dòng hồi ức nguy hiểm, đặt anh vào cảnh lúng túng ăn vằn thắn không tiền. Chỉ bốn xu mà anh không khác thằng ăn mày! Một đồng xu bó tay anh hùng hảo hán! Anh rà soát các túi, quả nhiên không còn đồng nào, quần xịt và áo lót vẫn mắc trên đèn chùm nhà nữ xế, anh ra khỏi nhà đó như một thằng đào tẩu. Rét thấu xương. Không còn cách nào khác, anh rút súng ngắn để vào một bát sứ, ánh thép ngòi ngợi, anh nói:
- Thưa ông, cháu là trinh sát viên trên tỉnh về bị kẻ xấu lấy hết tiền nong chỉ còn mỗi khẩu súng ngắn. Khẩu súng có thể chứng thực cho chán không phải tên ăn quịt.
Ông lão vội cúi xuống bê cái bát có khẩu súng bằng cả hai tay, ríu lưỡi:
- Hảo hán ăn hàng lão là phúc cho lão, mau cầm lấy súng, lão sợ lắm!
Đinh Câu cầm lấy súng, nói:
- Thưa ông, ông chỉ đòi bốn xu, tức là ông đã biết cháu không một xu dính túi; biết là cháu không có tiền mà ông vẫn làm cho cháu ăn, nhưng đó là không tự nguyện; để ông hiểu lầm, cháu cũng không muốn. Thế này vậy, cháu để lại tên tuổi và địa chỉ, khi nào gặp khó khăn ông cứ tìm cháu… Ông có bút không?
- Lão chỉ biết bán vằn thắn, một chữ cắn đôi cũng không biết, làm gì có bút? - ông lão nói - Thưa lãnh đạo, thưa trưởng quan, lão thoáng qua cũng biết ông là quan lón vi hành để tìm hiểu dân tình, lão không cần quan lớn để lại địa chỉ, chỉ mong quan lớn cho lão con đường sống!
Đinh Câu cười như mếu, nói:
- Vi hành cái cóc khô! Tìm hiểu dân tình cái cứt! Cháu là thằng hẩm hiu số một trong thiên hạ! Thế này vậy…
Anh vỗ vỗ báng súng, rút kẹp đạn ra, lảy lấy một viên vàng chóe đưa cho ông già, nói:
- Tặng ông làm kỷ niệm.
Ông lão xua tay rối rít, nói:
- Không dám, không dám! Thưa thủ trưởng, vài bát vằn thắn ăn nhằm gì? Gặp được con người đại nhân đại nghĩa như ông là phúc ba đời cho lão già này! Không dám, không dám!
Trinh sát viên không muốn ông lão dài dòng văn tự, anh ấn viên đạn vào lòng bàn tay đang khua khua của ông lão, cảm thấy bàn tay ông nóng như chèm lửa.
Một tiếng cười nhạt như tiếng kêu của con cú mèo vang lên phía sau khiến anh sợ rúm người lại, phía dưới lại són ra quần.
- Thế mà là trinh sát kia đấy! - Anh nghe một giọng của người có tuổi - Hẳn là một tên tù vượt ngục!
Anh run rẩy quay lại, trông thấy một ông già gầy gò mặc áo dài bộ đội đã cũ đứng bên cây ngô đồng Pháp, tay cầm khẩu súng săn hai nòng, con chó săn lông dài sọc vằn như hổ nằm dưỗi chân. Con chó nằm yên, ánh mắt như hai tia la de, rất oai vệ. Đinh Câu sợ con chó hơn sợ ông già.
- Thưa cụ Khưu, lại quấy quả cụ rồi!… - Ông lão bán vằn thắn nhỏ nhẹ.
- Tư Lưu, đã bao lần bảo ông không được bán hàng ở đây, vậy mà ông cứ bán!
- Xin cụ bốt giận, nhà túng quá, tiền học của cháu gái, chẳng còn cách nào khác, ra chợ bán thì sợ bị phạt, một lần phạt cả nửa tháng không bù lại!…
Ông già huơ khẩu súng săn, nghiêm giọng quát anh trinh sát:
- Ném khẩu súng sang đây!
Đinh Câu ngoan ngoãn ném khẩu súng xuống chân ông già.
- Giơ tay lên! - Ông già ra lệnh.
Đinh Câu chậm rãi giơ tay lên. Anh trông thấy ông già mà ông lão bán vằn thắn gọi là cụ Khưu một tay cầm ngang khẩu súng, hai chân từ từ khuỵu xuống để đảm bảo sẵn sàng nổ súng, tay còn lại nhặt khẩu “69” ngắm nghía, giọng dè bỉu: “Đầu nòng bị xước rồi!”
Đinh Câu tranh thủ tán ông già: “Xem ra cụ rất thạo vê súng!” ông già vênh mặt, cao giọng khàn khàn rất hấp dẫn, “ Chú nói đúng, súng đã qua tay ta không dưới bốn năm mươi khẩu, Tiệp khắc này, Hán Dương này, Nga này, Gióp này, Chín phát này, đó là súng trường; còn súng ngắn thì kiểu Đức này, Tây Ban Nha này, Nhật Bản này, Tôi Gà này, Cối Xay này, Mõm Chó này…” Ông già tung khẩu súng của Đinh Câu lên cao rồi giơ tay bắt gọn, động tác nhanh nhẹn, chính xác không ăn nhập với tuổi tác của ông. Đầu ông dài kỳ lạ, mắt nhỏ mũi khoằm, lông mi không có, râu ria cũng không, mặt đầy vết nhăn, da đen như cột nhà cháy. “Súng này - Ông nói, giọng coi thường - Đem cho đám phụ nữ làm đồ chơi!” Đinh Câu nói thong thả: “Khẩu này còn rất chuẩn!” Ông già nhìn hồi lâu khẩu súng trong tay, nói: “Trong mươi thước thì chuẩn, ngoài mười thước thì như cứt!” Nói xong, ông già giắt khẩu súng vào thắt lưng, hừ một tiếng.
Ông lão bán vằn thắn nói:
- Cụ Khưu là bậc cách mạng lão thành, cụ là trưởng phòng quản lý nghĩa trang liệt sĩ thành phố.
Đinh Câu nói:
- Thảo hèn!
- Chú làm nghề gì? - Ông cách mạng lão thành hỏi.
- Cháu là trinh sát viên của Viện Kiểm sát tỉnh.
- Chứng minh thư đâu?
- Bị lấy cắp mất rồi.
- Ta trông chú như một tên tội phạm.
- Giống tội phạm chứ không phải tội phạm.
- Lấy gì làm bằng chú không phải tội phạm?
- Cụ có thể gọi điện cho Bí thư thị uỷ, Thị trưởng, Cục trưởng Công an, Viện trưởng viện Kiểm sát, hỏi có biết một trinh sát viên cao cấp tên là Đinh Câu không?
- Trinh sát viên cao cấp? - ông già cươi hì hì - Có trinh sát viên cao cấp nào giống chú không?
- Cháu rơi vào tay một phụ nữ! - Anh định nói giễu mình một câu, không ngờ đụng vào ngay nỗi đau. Anh ngồi thụp trước gánh vằn thắn, dùng nắm tay dính đầy máu đấm vô hồi kỳ trận lên trán cũng dính đầy máu, gào lạc cả giọng - Cháu rơi vào tay một con đàn bà! Một con đàn bà từng ngủ với thằng lùn!…
Ông già cách mạng bước tới, chọc nòng súng lạnh toát vào lưng anh, quát:
- Cút đi cho tôi nhờ!
Đinh Câu đứng lên, mắt ướt đẫm nhìn cái đầu dài ngoẵng của ông gìa, như người quen gặp nhau nơi đất khách, như cấp dưới gặp lại thủ trưởng, càng như đứa con gặp lại người cha… Anh xúc động ôm chặt hai chân ông già, vừa khóc vừa nói: “Thưa ông, cháu là đồ giẻ rách, cháu rơi vào tay một con đàn bà…”
Ông già cách mạng túm cổ áo dựng anh đứng dậy, nhìn anh chằm chằm hồi lâu, chừng hút tàn nửa tẩu thuốc, rồi ông nhổ một bãi nước bọt, hừ lên một tiếng, rút khẩu súng quẳng trước mặt anh, bỏ đi, không nói nửa tiếng. Con chó vàng lẳng lặng đi theo, những giọt nước bám trên lông nó lấp lánh như những hạt ngọc.
Ông lão bán vằn thắn để viên đạn vàng choé bên cạnh khẩu súng, rồi vội vã thu dọn hàng họ, thổi tắt đèn, cất gánh lên vai lặng lẽ bỏ đi.
Đinh Câu thẫn thò nhìn theo bóng ông lão. Xa xa ánh lửa chập chòn như ma trơi; trên đầu anh, tán lá cây ngô đồng Pháp đón ngàn vạn giọt mưa bụi, vang lên tiếng xào xạc, người đi đèn tắt, tiếng xào xạc to lên gấp bội. Anh bàng hoàng nhổm dậy, không quên cầm lấy khẩu súng. Không khí vừa lạnh vừa ẩm, người đau như giần, dấn thân nơi đất lạ, ngày tận thế hình như sắp đến gần.
Cặp mắt giận dữ của nhà cách mạng lão thành chứa chất nỗi buồn khi thấy sản phẩm bị hỏng. Đinh Câu chợt nảy ra nguyện vọng được giãi bày tâm sự với ông già. Sức mạnh nào đã biến một trang nam nhi chọc trời khuấy nước thành đồ giẻ rách? Chẳng lẽ một nữ xế tướng mạo tầm tầm lại có sức mạnh ghê gớm ấy? Không có lẽ, qui toàn bộ trách nhiệm lên đầu người đàn bà đó là không công bằng. Trong chuyện này có cái gì đó kỳ bí, mà ông già dắt chó đi tuần đêm là người có thể giải mã những kỳ bí đó, cái đầu dài ngoẵng của ông là một kho trí tuệ. Đinh Câu quyết định đi tìm ông già cách mạng.
Đinh Câu lê đôi chân đã mỏi rời, lần theo hướng ông già và con chó. Anh nghe thấy tiếng xe lửa chạy trên cầu sắt từ nơi xa vọng tới, sắt tháp chạm nhau tinh tang, tăng thêm vẻ bí ẩn của đêm thâu. Đường đi mấp mô, gặp một cái dốc, anh ngồi xổm trượt xuống. Ngẩng nhìn lên, thấy đèn đường chiếu trên đông gạch võ lấm tấm trắng như phủ một lớp sương. Bước thêm mấy bước nữa, một chiếc cổng lón rêu phong xuất hiện trước mặt, nóc tum trên cổng mắc ngọn đèn điện chiếu sáng cánh cổng sắt và tấm biển sơn trắng, trên biển có hàng chữ lón sơn đỏ: Nghĩa trang liệt sĩ thành phố Rượu. Anh xông tới cầm chốt cửa mà lắc như tù nhân lắc chấn song nhá giam, tróc cả da tay. Con chó vàng sủa vang xông tới, anh không lùi nửa bước. Ông già đứng sau tum quát con chó, giọng khàn khàn. Con chó không sủa nữa, không chồm lên nữa, đầu cúi xuống, đuôi cụp lại. Ông già xuất hiện, vai đeo súng săn, hàng cúc đồng trên áo oai phong lẫm liệt.
- Chú định làm gì? - ông nghiêm giọng hỏi.
Đinh Câu hỉ mũi, giọng sụt sịt:
- Thưa ông, cháu đúng là trinh sát viên trên tỉnh cử về.
- Về làm gì?
- Điều tra một trọng án.
- Trọng án nào?
- Một số cán bộ đã mất hết tính người của thành phố Rượu ăn thịt trẻ con.
- Ta sẽ bắn chết chúng! - ông già gầm lên.
- Xin cụ bớt giận, cho cháu vào trong nhà, cháu sẽ nói hết!
Nhà cách mạng lão thành mở cánh cổng nhỏ trên cánh cổng lớn, nói:
- Lách vào đi!
Đinh Câu do dự vì anh trông thấy có những túm lông chó màu vàng bên mép cổng.
- Chú có định vào không?
Đinh Câu khom người chui tọt vào.
- Các người là đồ bị thịt, bì sao được với con chó của ta!
Đinh Câu đi theo nhà cách mạng vào phòng truyền thống phía bên trái cổng lớn. Anh nhớ lại phòng truyền thông của mỏ than La Sơn, trong đầu hiện ra tên gác cổng có mái tóc bờm xờm như lông chó.
Phòng truyền thống ánh đèn sáng rực, tường vôi trắng xoá, một bệ đất làm giường chiếm gần nửa căn phòng, một bức tường phía đầu giường, chiều dài vừa bằng bề ngang của giường, bên kia tường là một cái bếp, trên bếp bắc một chiếc nồi, củi chất đầy bếp, lửa cháy rừng rực, nùi nhựa thông thơm phức.
Ông già cách mạng dựa súng vào tường, cởi áo ngoài quẳng lên giường- bệ, xoa tay nói: “Đốt củi gỗ, ngủ giường bệ, đây là chỗ khác người của ta”. Ông nhìn Đinh Câu, hỏi:
- Ta cách mạng mấy chục năm, bảy tám sạn trong đầu, khác người một chút có nên không?
- Nên, rất nên ạ!
- Nhưng thằng cha trưởng phòng chó đẻ họ Du cứ nhất thiết bắt thay củi thông bằng củi hòe! Ta cách mạng cả đời người, chim đã bị súng máy giặc bắn bay mất, tuyệt đường con cái, đốt ít gỗ thông thì đáng kể gì? Ta bảo, anh có là Thiên vương giáng trần thì cũng không ngăn nổi ta sưởi củi thông! - Ông già càng nói càng kích động, hoa chân múa tay, miệng sùi bọt - Vừa nãy chú nói gì ấy nhỉ? Chúng ăn thịt trẻ con? Ăn thịt người hả? Loài cầm thú! Những đứa nào? Ngày mai ta bắn chết hết! Tiền trảm hậu tấu, cùng lắm đưa ra toà! Đời ta đã giết mấy trăm thằng, chuyên giết bọn xấu, bọn phản bội, bọn phản cách mạng, bọn xâm lược, bây giờ về già giết mấy thằng ăn thịt người!
Đinh Câu ngứa ran khắp người, áo quần bốc hơi, sặc mùi ghét bẩn. Anh trả lời ông già cách mạng:
- Cháu đang điều tra chuyện này!
- Điều tra cái cứt! - Ông già nói - Lôi ra bắn bỏ là xong, cần gì phải điều tra.
- Thưa, giờ là thời đại kiện toàn pháp chế, không đủ chứng cứ xác thực, sao dám tuỳ tiện giết người?
- Sao chú không đi ngay mà điều tra, còn ngồi đấy làm gì? Giác ngộ giai cấp của chú đâu rồi? Nhiệt tình công tác của chú đâu rồi? Kẻ thù đang ăn thịt người, còn chú thì sưởi ở đây? Ta cho rằng, chú là bọn Trôxki, bọn Bêria, tay sai của bọn đế quốc!
Đinh Câu bị ông lão cách mạng chửi tối mắt tối mũi, như đổ máu chó lên đầu, cơn buồn ngủ tan biến, trong lòng sôi sục. Anh cởi hết quần áo, trần truồng, chân đi đôi giày rách, ngồi xổm trước bếp bỏ mấy mảnh củi thông đầy nhựa vào bếp, khói trắng bốc lên, mùi thơm xộc vào tận xoang mũi, anh hắt hơi một cái dễ chịu. Dựng củi lên, phơi quần áo bên bếp, quần áo nổ lách tách như may bằng da sống. Lửa hắt lên người, vừa rát vừa ngứa, xoa xoa vuốt vuốt, càng xoa càng cảm thấy khoan khoái.
- Mẹ kiếp, chú bị ghẻ hay sao đấy? - Ông già cách mạng hỏi. - Trước kia ta ngủ ổ rơm, ghẻ cùng mình, ngứa sao mà lạ, phải véo, cấu, da thịt máu nhoe nhoét mà vẫn ngứa, ngứa chui vào trong gan phổi, làm mất sức chiến đấu, không đánh nhau mà quân số giảm. Tiểu đội phó Mã Sơn nghĩ ra một cách trị ghẻ, muá hành tôi về, giã nát, trộn với muôi dấm rồi xoa khắp người, xót ra xót, tê ra tê, dễ chịu ra phết! Vậy mà khỏi bố nó ghẻ! Biển Thước chữa những bệnh nặng, ốm đau mới xuất tiền công quĩ, còn ta thì giắt đầu lâu mình vào thắt lưng mà đi làm cách mạng, tiền công quỹ thì nên…
Đinh Câu nghe ông già cách mạng kể mà trong lòng chua xót về một giai đoạn lịch sử vô cùng khó khăn của cách mạng. Anh vốn định kể khổ với ông, trái lại, bị ông trút lên đầu sự bất mãn của ông đối với anh. Anh cảm thấy thất vọng, hiểu rằng trên đời này không ai cứu nổi ai, ai cũng có chuyện phiền lòng, không nói ra được thì ấm ức. Anh rũ quần áo, vò rụng những chỗ bùn bám, phủi sạch rồi mặc vào người, nóng hôi hổi dễ chịu vô cùng, anh đê mê vì khoan khoái, nỗi đau về tinh thần lại từ từ trỗi dậy, cô nữ xế trần truồng ngủ cùng tên lùn ngực dô lưng gù chân vòng kiềng, lại hiện ra trước mắt như thật, y như nhìn trộm qua lỗ khoá. Càng nghĩ càng sinh động, càng tưởng tượng càng phong phú. Nữ xế người vàng hươm như một con lươn, da thịt ngồn ngộn, bóng nhẫy, trơn tuột, nhóp nháp, phát tán cái mùi tanh tanh; Còn Dư Một Thước thì như một con cóc lười, mình đầy mụn ghẻ, dùng bốn chân có màng mà vần cô ta, từng đám nước bọt, từng tràng những tiếng ộp oạp… Trái tim anh run lên như lá cây trước gió. Anh muốn xé toang lồng ngực, moi trái tim ra ném vào mặt cô ta… Con đĩ, con đĩ, con đĩ thối thây! Hình như anh trông thấy… đúng là trông thấy trinh sát viên Đinh Câu dùng chân đi giày da đá tung cánh cửa màu sữa, một chiếc giường lớn - chỉ một chiếc, hiện ra trước mắt anh, trên giường nữ xế nằm đờ ra vì kinh hoảng, còn Dư Một Thước thì lăn xuống đất, da bụng lấm tấm những chấm đỏ, lủi vào xó nhà run như cầy sấy… Ngực dô, lưng gù chân vòng kiềng hoặc tréo khoeo, cái đầu to khủng khiếp không thể tính nổi tỉ lệ, mắt trắng dã, mũi vẹo nhiều khúc, môi mỏng dính như không có, vành tai vừa to vừa mỏng, khô quắt và trắng ngà như váng đậu phụ. Hai cánh tay đen đủi, gần như chạm đất, người đầy lông lá, bàn chân biến dạng như chân ếch, lại còn bộ máy sinh dục đen bóng như của con lừa. “Sao cô lại ngủ với cái đồ quái thai này?” Không nén được, anh trinh sát bỗng gầm lên. “Nói gì thế? Mẹ kiếp, chú nói gì thế?” Ông già chẳng hiểu đầu của tai nheo ra sao, hỏi anh. Con chó vàng dựng đứng lông gáy gừ gừ uy hiếp. Cô ta kinh hoảng kéo vội tấm khăn trải giường che người như ta thường thấy trong phim, người cô run rẩy sau tấm khăn. Chính trong khoảnh khắc đó anh trông thấy hết cơ thể cô, đầy đặn… nở căng… chắc nịch… thơm dịu, như ngàn vạn mũi tên bắn trúng tim, anh chưa bao giờ đau đến như thế, mắt nảy đom đóm, mặt tái mét, chân tay cứnf' đò, cười nhạt một tiếng, lạnh thấu ruột gan. Anh giơ súng lên, ngón trỏ đặt trên cò súng, ấn khẽ, súng hơi rung chuyển, rồi ngắm, đoàng! Tiếng súng nổ, tấm gương phía sau Dư Một Thước vỡ tan, những mảnh kính lấp loáng rơi xuống đất lả tả… Dư Một Thước nằm thẳng cẳng, anh trinh sát tra súng vào vỏ, không nói nửa lời, quay người ra khỏi quán rượu Một Thước, không ngoái lại. Tha lỗi cho tôi, tha lỗi cho tôi, cô ta quấn quanh người chiếc khăn trải giường, quì dưới đất. Dứt khoát không ngoái lại. Bước ra đường lớn ngập nắng, hai bên chật cứng những người là người, nam có, nữ có, cụ ông có, cụ bà có, tất cả đều nhìn anh bằng con mắt vì nể pha chút sợ sệt, một bà giống mẹ anh ghê gớm, mắt mọng nước, mấp máy cái miệng già lão gọi: “Con, con ơi!…” Một cô gái mặc quần dài trắng, tóc dài màu kim nhũ, rẽ đám người đông nghịt, nước mắt long lanh, hàng mi dài cong vút, bộ ngực nhô cao phập phồng dữ dội, vừa thở vừa rẽ đám người vừa gọi, giọng như khóc: “Anh Đinh Câu, anh Đinh Câu!” Đinh Câu không hề ngoảnh lại, con ngươi cũng không thèm đưa đẩy, tiếp tục những bước chân vững vàng về phía mặt trời, về phía những áng mây hồng, cuối cùng hoà tan trong vầng thái dương đỏ rực…
Ông già cách mạng giơ bàn tay hộ pháp ấn vai anh xuống. Anh trinh sát hoà tan trong mặt trời ngáp một cái, mãi mới tỉnh ngủ. Tim anh vẫn đập như trống làng, mắt mọng nước, những giọt nước mắt bi tráng và anh dũng.
- Mẹ kiếp, chú bị ma ám hay sao thế? - Ông già cách mạng hỏi, giọng coi thường.
Anh trinh sát vội lấy vạt áo lau nước mắt, mỉm cười ngượng nghịu. Một cơn hoang tưởng đầy ấn tượng khiến trong lòng anh vợi nhẹ phần nào, nhưng cái đầu do mệt mỏi quá độ nặng như đeo đá, trong tai có tiếng ong ong như có cả một đàn ong đang bay.
- Ta thấy chú mày bị cảm mẹ nó rồi! - Ông già cách mạng nói - Trông mặt chú kìa, nhăn như đít khỉ!
Ông già quay lại, lôi dưới chân giường bình rượu bằng sứ có buộc nơ đỏ nói: “Ta sẽ chữa cảm cho chú. Rượu tiêu diệt vi trùng, tiêu độc. Rượu là thứ thuốc tốt nhất, chữa bách bệnh. Năm xưa ta bốn lần vượt sông Xích Thuỷ, hai lần qua trấn Mao Đài, bị rốt đơn vị vì sốt rét, ta nấp trong một hầm rượu, bọn bạch phỉ (Quốc dân đảng) bắn như vãi đạn, ta sợ run bần bật, phải uống rượu cho đỡ sợ, uống ừng ực, uống liền ba bát to, thế là tâm tĩnh lại, gan to ra, không run nữa, cầm cây gậy vọt ra khỏi hẩm, đập chết hai thằng bạch quỷ, cướp được một khẩu súng thép, đuổi kịp toán quân của Mao Trạch Đông. Hồi ấy, Mao Trạch Đông, Chu Đức, Chu Ân Lai, Vương Gia Tường từng uống rượu Mao Đài. Mao Trạch Đông hễ uống Mao Đài là trong đầu tính toán như thần, nếu không, chỉ một nhúm quân đã bị người ta diệt cho từ lâu. Rượu Mao Đài đã lập công lớn trong cách mạng Trung Quốc. Chú tưởng chọn Mao Đài làm quốc tửu là chọn tuỳ tiện đấy hẳn? Để kỷ niệm đấy chứ! Ta cả đời làm cách mạng, uống chút rượu Mao Đài thì cũng nên quá đi chứ! Tay trưởng phòng họ Du miệng còn hôi sữa cấm ta uống Mao Đài, định thay bằng Bờm tía ngựa hoang, đ. bà nó!”
Ông già cách mạng rót rượu vào chiếc ca sứ sứt mẻ, ngửa cổ tợp một ngụm to rồi bảo Đinh Câu:
“Chú mày cũng nên làm một ngụm, đây là Mao Đài thứ thiệt, Mao Đài trăm phần trăm!” Nhìn Đinh Câu nước mắt ràn rụa, ông già tỏ ra coi khinh, nói: “Không dám hả? Chỉ bọn phản phúc, bọn Hán gian mới không dám uống rượu. Chúng sợ rượu vào lời ra, lộ bí mật. - Ông lại ngửa cổ tựp một ngụm to nữa, rượu chảy trong họng kêu ông ọc - Chú không uống, ta không ép, chú tưởng dễ dàng kiếm ra chỗ Mao Đài này chăng? Ta vì nổ mà bị thằng trưởng phòng Trôxkit lèn cho tới số, rơi vào cảnh phượng hoàng không bằng gà, như hổ lạc xuống đồng bằng!
Mùi rượu thơm phức khiến Đinh Câu thèm rỏ rãi. Tình cảm hưng phấn là lúc uống rượu thích hợp nhất. Anh vươn tay giằng lấy ca rượu trong tay ông già cách mạng, kề miệng tu một hơi cạn tới đáy, trong khoảnh khắc bụng sôi cuồn cuộn, từng đoá sen hồng nở bung trước mặt, ánh sáng phát ra từ trong phiêu lãng, từ trong mây mù khiến người tỉnh táo. Đó là ánh sáng của rượu Mao Đài. Đó là tinh thần của rượu Mao Đài. Anh bỗng cảm thấy thế giới, bao gồm trời, đất, cây cỏ, tuyết trắng trên đỉnh Himalaya… vô cùng đẹp đẽ. Ông già cười hì hì, giằng lấy cái ca rót tiếp, từ miệng chai tiếng rượu chảy ra ộc ộc nghe sướng tai, miệng ứa nước bọt. Anh trông thấy nét mặt ông già cách mạng sao mà hiền từ, hiền đến mức không thể diễn tả bằng lời. Anh chìa tay, anh nghe thấy anh nói: “Đưa cho cháu, cháu vẫn muốn uống!” ông già cách mạng nhảy như choi choi trước mặt anh, ông còn nhanh nhẹn lắm, ông nói: “Không cho chú uống nữa! Chỗ rượu này kiếm đâu có dễ cho cháu uống! - Anh gào lên - ông đã nhử con sâu rượu của cháu chui ra, sao bây giờ lại không cho cháu uống?” ông già cách mạng kề miệng vào ca uống như trâu. Anh giận dữ chồm tới, chộp cái ca chộp luôn cả ngón tay trỏ cứng ngắc của ông già, anh nghe thấy tiếng răng anh va vào miệng ca cành cạch, cảm thấy rượu chảy trên mu bàn tay lành lạnh, ướt át. Trong quá trình giành giật cái ca, anh sinh ra cáu bẳn, đầu gợi nhớ lại kỹ xảo đánh xáp lá cà, anh co gối thúc một cú vào bụng dưới ông già. Ông già kêu “ối” một tiếng, chiếc ca đã lọt vào tay anh. Anh vội vã dốc tuột chỗ rượu vào họng, vẫn muốn uống nữa, anh đưa mắt tìm cái bình. Nó nằm lăn trên nền nhà như một chú bé trúng đạn. Anh đau đớn như chính anh lỡ tay bắn chết thằng bé. Anh định cúi xuống nhặt bình rượu màu trắng ngà, eo buộc chiếc nơ đỏ, trong con mắt anh, nó là thằng người xinh đẹp, nhưng không hiểu vì sao, anh gục xuống, còn thằng người xinh đẹp lăn mấy vòng đến xó nhà rồi đứng dậy lớn rất nhanh, đến một mét thì dừng lại. Anh hiểu đó là tinh rượu, là hồn rượu Mao Đài đứng ở xó nhà mỉm cười nhìn anh. Anh nhảy tới bắt con tinh, nhưng đầu anh lại đập vào tường.
Trong cảm giác mê li đất trời chao đảo ấy, anh cảm thấy một bàn tay hộ pháp túm tóc anh. Anh biết chủ nhân bàn tay đó là ai. Anh từ từ đứng dậy cùng với đau buốt ở chân tóc, cảm thấy cơ thể anh như một đống ruột lợn tanh tưởi đến buồn nôn, dựng thẳng từng nếp gấp trên mặt đất, hơn nữa, anh còn biết, chỉ cần ông già cách mạng buông tay, là đống ruột lợn lại ngã lặn ra.
Bàn tay to lắc một cái, xoay mặt anh quay lại, đối diện với khuôn mặt dài dài, đen nhẻm của ông già, một khuôn mặt vừa nãy rất hiền từ giờ đây lạnh tanh như hoá thạch. Nhìn khuôn mặt ông, anh cảm nhận được sự tàn khốc. “Thằng chó đẻ phản cách mạng, ta cho ngươi uống rượu, vậy mà ngươi dám tông vào trứng của ta! Ngươi không bằng con chó, chó uống rượu của ta xong còn vẫy đuôi!” Nước bọt ông già bắn trúng con ngươi anh, xót không chịu nổi, anh chảy nước mắt. Cùng lúc, có hai bộ vuốt mập đặt trên hai vai anh, họng anh đã bị ngoạm hò trong miệng con chó, lông cứng của nó đã chọc vào cổ anh. Như con ba ba gặp nguy hiểm, anh rụt cổ lại, cảm thấy hơi thở nóng hổi của con chó, ngửi thấy mùi xú uế từ miệng nó. Cảm giác mình là một đống lòng lợn lại tái hiện, anh lo sẽ xảy ra một cuộc khủng bố trắng. Con chó ăn lòng lợn choàm choạp như trẻ con húp mì sợi. Anh kinh hoảng rú lên một tiếng, mắt tối sầm.
Không rõ được bao lâu, anh trinh sát tưởng mắt đã bị mù, nay lại sáng ra. Ánh sáng mở rộng dần như mặt trời lách ra khỏi những tầng mây, cuối cùng, bụp một tiếng, cảnh vật nơi nghĩa trang liệt sĩ đột ngột tràn vào trong mắt anh. Anh trông thấy ông già cách mạng đang ngồi lau khẩu súng săn hai nòng, chăm chú, cẩn thận, kỹ lưỡng, y như người cha lau rửa cho đứa con cưng. Con chó vằn hổ khoaa thai nằm bên cạnh bếp, cái đuôi dài gác trên đống củi thông, mắt nhìn đăm đăm ngọn lửa màu vàng kim, vẻ thâm trầm như giáo viên triết học của trường đại học. Nó đang nghĩ gì nhỉ? Đinh Câu mê tít cái vẻ suy tư của con chó. Nó đăm đăm nhìn ngọn lửa trong bếp, anh đăm đăm nhìn nó. Dần dà bức tranh trong đầu con chó - bức tranh mà anh chưa bao giờ nhìn thấy - trên nền nhạc nhẹ hành vân lưu thuỷ, nó xuất hiện trong đầu anh, li kỳ đến đỗi khiến anh choáng váng. Anh xúc động sâu sắc, mũi như bị thoi một quả thôi sơn, vừa cay vừa chua, hai hàng nước mắt không hiểu chảy dài trên má từ lúc nào.
- Chú mày hay nhỉ! - ông già cách mạng liếc nhìn anh, nói - Bọn ta gieo là gieo giống hổ lang, nhưng thu hoạch toàn là đồ giẻ rách!
Anh kéo vạt áo lau nước mắt, rầu rĩ:
- Ông ơi, cháu sa vào tay một con đàn bà!
Ông già cách mạng liếc xéo anh tỏ vẻ không bằng lòng. Ông mặc áo bông dài, khoác súng lên vai, gọi con chó: “Chó, ta đi tuần thôi! Để cái đồ bị thịt ở lại đây cho nó khóc!”
Con chó uể oải đứng dậy, nhìn anh trinh sát tỏ vẻ thông cảm, rồi đi theo ông già cách mạng ra khỏi phòng truyền thông. Những cuộn dây thép gai phía sau cửa cọ vào nhau loạt soạt. Làn gió đêm ẩm và lạnh xộc vào trong phòng khiến anh run lên. Anh cảm thấy cô đơn và sợ, gọi với theo: “Chờ cháu mấy!”. Nói rồi vội vã đuổi theo.
Ngọn đèn ngoài cổng chiếu nghiêng bóng người mò nhạt. Mưa vẫn rơi, có lẽ càng khuya càng dầy hạt, tiếng dế kêu càng khoẻ, càng râm ran như có hàng ngàn con thú nhỏ đang bò. Ông già cách mạng đi vào màn đêm dày đặc, phần sâu bên trong của nghĩa trang liệt sĩ, con chó theo sát phía sau. Lúc đầu nhờ ánh đèn ở cổng còn nhìn thấy bóng dáng những cây bách tỉa thành hình tháp dọc hai bên con đường rải đá cuội ngoằn ngoèo, chỉ lát sau, bóng đen từ bốn phương tám hướng ùa tới nuốt chửng. Anh bây giờ mới hiểu thế nào là tối như mực, giơ bàn tay không thấy ngón. Bóng tối càng dày, mưa rơi trên lá nghe càng rõ, rào rạo, gấp gáp khiến lòng anh càng rối bài, càng trông vắng. Căn cứ vào tiếng nói và mùi mồ hôi, anh mới cảm thấy sự tồn tại của ông già cách mạng và con chó vàng. Bóng đêm thực ra là một thứ vật chất có một sức nén ghê gớm, có thể ép người mỏng lại như cái bánh. Anh trinh sát cảm thấy lo sợ, anh ngửi thấy mùi nghĩa trang len lỏi giữa những cây tùng cây bách. Anh cảm thấy những cây đó đều là những gã đàn ông thiếu thiện chí, tay ôm cổ, miệng cười nhạt, bụng ấp ủ những ý đồ xấu, dưới chân các gã là những anh linh ngồi trong mộ. Sợ hãi khiến anh tỉnh rượu, anh sờ khẩu súng ở thắt lưng theo bản năng, cảm thấy mồ hôi lạnh túa ra trong lòng bàn tay. Con gì đấy kêu lên một tiếng quái gở, qua tiếng vỗ cánh trong đêm, anh nhận ra nó là tiếng chim, còn chim gì thì không rõ, có thể là con cú mèo. Ông già cách mạng ho một tiếng, con chó sủa một tiếng. Hai tiếng ấy an ủi Đinh Câu rất nhiều. Anh cũng cố rặn ra một tiếng ho, ngay cả anh cũng nhận ra đó là tiếng ho giả vờ. Ông gìa cách mạng chắc chắn sẽ cười giễu, anh nghĩ, con chó vàng có vẻ một nhà tư tưởng cũng sẽ cười giễu. Anh trông thấy cặp mắt chó phóng ra những tia lửa xanh, nếu không biết trước, anh tưởng nó là một con sói. Không nén được, anh ho liên tục. Một ánh đèn pin sáng chói rọi vào mắt anh. Anh bưng mặt định phản đối thì ánh đèn chuyển sang tấm bia bằng đá trắng, chữ khắc chìm trên bia chứng tỏ mộ được trùng tu chưa lâu, màu sơn đỏ tươi khiến người sinh lòng thành kính. Trên bia viết những gì anh không nhìn rõ, anh tôi mắt vì cái màu đỏ, như đèn điện bỗng tắt phụt, trong mắt hãy còn những tia lửa hoa, trong đầu đỏ rực một màu như lòng bếp trong phòng truyền thống nghĩa trang liệt sĩ. Anh nghe thấy tiếng thở nặng nề của ông già cách mạng đứng trước mặt, những giọt mưa lạnh bỗng ngừng rơi trên lá, một tiếng động trời long đất lở vang lên rất gần khiến anh nhảy dựng lên, anh không rõ nó là thứ tiếng gì, anh không còn bụng dạ nào tìm hiểu, điều quan trọng là, từ cái khoảnh khắc tia lửa điện chiếu vào tấm bia liệt sĩ, một luồng dũng khí ùa vào cơ thể anh, tất cả những thói xấu: ganh tị như rượu bợm, gian giảo nhu nhược như rượu goá chồng, lật mặt như rượu tình…bị tống ra ngoài tất tật, biến thành mồ hôi chua loét, thành nước tiểu khai nồng. Còn loại rượu Vodka như con chiến mã tung hoành trên đồng cỏ Cadắc thì biến thành anh; loại Cognac dân dã hào phóng, trong cái thô có cái tinh, giầu tinh thần mạo hiểm, giầu tính kích thích như chàng hiệp sĩ đấu bò Tây Ban Nha, cũng biến thành anh. Anh cắn một miếng ớt đỏ, nhai mệt củ hành xanh, nhấm một mẩu tôi tía, nhai một miếng gừng già, nuốt một lọ hồ tiêu bột, thế là như lửa hừng hực trong lò, như hoa tươi nở rộ, tinh thần phấn chấn như chiếc lông đuôi gà cắm giữa li rượu cốc- tai, tay cầm khẩu súng lục kiểu “69” tạo dáng bắt mắt của công an, bước đi hùng dũng kiểu Grappa, làm như chỉ trong chớp mắt, anh trinh sát đã quay lại quán rượu Một Thước, đạp tung cánh cửa phòng trong như ngọc, giơ súng; lên nhằm nữ xế và tên lùn Một Thước đang ngồi trên đầu gối cô ta mà bóp cò. Pằng pằng hai phát, hai cái đầu vỡ toác. Hàng loạt những động tác trên giống như rượu đao rượu kiếm, phải có sức khỏe, phải trộn được cay đắng ngọt bùi làm một, xuống khỏi họng là trôi tuột xuống dạ dày, ngon lành như dao sắc chém chuối.

2
Một Gáo huynh,
Thư và tác phẩm “Bài giảng về chế biến” đã nhận được.
Về chuyện đi thành phố Rượu, tôi đã đề xuất sơ bộ với lãnh đạo. Các anh ấy không muốn cho tôi đi vì tôi là bộ đội, hơn nữa mới từ thượng uý thăng thiếu tá (bớt hai sao thêm một vạch, không bằng để nguyên ba sao một vạch, oai hơn, do vậy tôi mất hứng), họ ưng tôi nên xuống đại đội cùng ăn cùng ở cùng thao luyện với anh em chiến sĩ, viết truyện hoặc phóng sự về bộ mặt quân đội trong thời kỳ mới, giờ đi thực tiễn ở địa phương để viết, xem ra không thuận lắm về mặt quan hệ, dù rằng thành phố Rượu những năm gần đây nổi như cồn, rất được chú ý. Chuyện này tồi chưa chịu, sẽ cốgắng tranh thủ, còn khối lí do để thuyết phục các anh ấy cho đi.
Lễ hội Rượu Bú Dù chắc chắn sẽ rất thú vị. Khi ấy, rượu chảy như suối, hơi men ngất trời, trong đội ngũ bợm rượu đầu nặng chân nhẹ, chệnh choạng như những hồn ma, tôi rất muốn có hình ảnh béo phì của tôi.
Truyện dài tôi đang viết, đã đến hồi gian khổ nhất, anh chàng trinh sát ma mãnh ấy luôn gây kho dễ cho tôi, để anh ta tự bắn vào đầu hay say rượu mà chết, đằng nào tiện hơn? Trong Chương trước, tôi lại cho anh ta say. Vì rằng nỗi đau trong sáng tác không sao gạt bỏ, nên tôi cũng uống đến say, chỉ khác là không phơi phới như tiên, mà tha hồ nhìn ngắm phong cảnh địa ngục. Phong cảnh địa ngục quả thực tồi tệ.
Tác phẩm lớn “Bài giảng về chế biến” tôi đã bỏ ra trọn một buổi tối để đọc (đọc đi đọc lại mấy lượt). Về tiểu thuyết của huynh, tôi càng ngày càng thấy không biết nói thế nào cho phải. Đành nêu vài ý, có thể trước đây đã nói nay lặp lại, nào là phong cách trước sau bất nhất, nào là quá tuỳ tiện, nào là phân lượng nắm không chắc, vân vân và vân vân, vì vậy tôi nghĩ, nói mà không tác dụng chẳng thà không nói còn hơn. Nhưng tôi vẫn tuân thủ qui trình sáng tác tiểu thuyết, gửi nó đi “Quốc dân văn học”, cánh Châu Báu đi vắng, tôi viết mấy chữ để bản thảo lại trên bàn. Đăng được hay không là do may rủi. Có điều, theo kinh nghiệm của tôi, truyện này khó đăng. Chúng mình tuy mới gặp nhau trên thư từ, nhưng đã là người quen, tôi cứ mạnh dạn nói thẳng.
Tôi tin tưởng chắc chắn rằng huynh sẽ viết được những truyện vừa có chất lượng tương đối cao, vừa phù hợp với tiêu chuẩn chọn bản thảo của “Quốc dân văn học”, chẳng qua là vấn đề thời gian, chẳng sớm thì muộn, huynh đừng nản.
Trước sau huynh đã chuyển cho tôi sáu truyện (Bản thảo truyện “Một Thước anh hào” đang ở chỗ tôi). Nếu về thành phố Rượu, tôi sẽ đến “Quốc dân văn học” lấy lại bản thảo đem trả huynh. Gửi qua Bưu điện thì vừa không an toàn vừa phiền phức, tôi mỗi lần đi Bưu điện là căng thẳng mất mấy hôm, các ông bà ngồi sau quầy lúc nào mặt cũng hằm hằm như bắt gián điệp hoặc rình chộp lựu đạn, khiến ngay cả mình cũng nghĩ, bản thảo của mình hình như là truyền đơn phản cách mạng!
Chúc huynh viết khỏe!
Mạc Ngôn

3
Kính gửi thầy Mạc Ngôn,
Chào thầy!
Được biết thầy có hi vọng về thành phố Rượu, trò sướng như điên. Trò mong thầy về thành phố Rượu như “Mong trăng mong sao mong mặt trời nhô lên đỉnh núi cao”. Trò có mấy đứa bạn công tác trong thị uỷ, ủy ban thị (Không phải loại tầm thường, mà là cổ cánh hẳn hơi), nếu cần giấy mời hoặc giấy chứng thực, trò bảo tụi nó làm ngay, lãnh đạo Trung Quốc rất chuộng con dấu, lãnh đạo quân đội chắc không ngoại lệ!
Về tiểu thuyết thì quả thực trò hơi nản, thậm chí còn rất bất bình về chuyện ém bản thảo lâu đến như thế của các ông Châu Báu, một thư trả lời cũng không, họ khinh người quá! Tất nhiên là họ rất bận, viết thư cho tác giả nghiệp dư cũng không cần thiết, trò hiểu điều này nhưng vẫn thấy tưng tức. Vuốt mặt chả nể mũi, hay dở gì trò cũng là người thầy giới thiệu! Đương nhiên trò cũng biết tình cảm ấy là không lành mạnh, ảnh hưởng không tốt đến sáng tác văn học, và đã cố gắng khắc phục, trò là loại người “Chưa đến Hoàng Hà tâm chưa phục”, “Chưa đến Hoàng Hà chưa là hảo hán”, trò quyết tăm vượt mọi trở ngại để viết.
Để chuẩn bị cho Lễ hội Rượu Bú Dù, trường của trò bận tối mắt tối mũi. Khoa phân công cho trò một nhiệm ưụ.' Trong kho còn tồn một ít men gốc của rượu bệnh (rượu trị bệnh), nay pha chế ra một loại rượu có hương vị độc đáo để tiêu thụ trong thời gian lễ hội. Nếu thành công, trò sẽ được thường một khoản tiền lớn. Điều này rất quan trọng đối với trò. Đương nhiên trò không vì tiền thưởng mà gác tiểu thuyết lại, trò vẫn tiếp tục viết, dùng một phần mười thời gian sản xuất rượu, chín phần mười thời gian viết tiểu thuyết.
Xin gửi tác phẩm mới “Lấy tổ yến”, đề nghị thầy góp ý. Trò đã tổng kết giai đoạn sáng tác vừa qua của trò, cảm thấy sở dĩ các tiểu thuyết của trò không được đăng tải, có lẽ do sự can thiệp của xã hội. Vậy nên trong “Lấy tổ yến” có uốn nắn điều đó. Đây là thiên tiểu thuyết thoát ly chính trị, thoát ly Thủ đô, nếu vẫn không được đăng thì đúng là “Trời hại trời”
Xin chúc thầy mọi sự tốt lành.
Học trò: Lý Một Gáo

4
Lấy tổ yến
Mẹ vợ trò do đâu má đỏ phây phây, thanh xuân đọng mãi, hơn sáu mươi tuổi mà ngực đầy mông nở như một thiếu phụ? Do đâu mà bà bụng thon không tích mỡ, dẻo như thép nguội? Do đâu mặt bà tròn như trăng rằm, sắc mặt như hoa buổi sớm, khóe mắt không một nếp nhăn? Do đâu hàm răng trắng loá, không lung lay, không khuyết lấy một chiếc? Do đâu làn da mịn màng sáng sủa, trong như ngọc? Do đâu mà cặp môi đỏ mọng, miệng thơm mùi thịt nướng, khiến người ta cứ muốn hôn vào đấy? Do đâu chua bao giờ ốm đau, không hề có phản ứng của tuổi già?
Là con rể, lẽ ra tôi không nên phóng đãng như thế, nhưng vì tôi là người duy vật triệt để, mà đã là người duy vật triệt để thì không sợ gì hết, do vậy những gì nên nói thì cứ nói. Tôi cho rằng mẹ vợ tuy đã ngoài sáu mươi, nhưng chỉ cần chính sách cho phép và bản thân bà đồng ý, bà hoàn toàn có thể sinh cho tôi một tá các dì các cậu. Mẹ vợ rất ít khi đánh trung tiện, thảng hoặc có đánh thì cũng không thối, không những không thối mà còn có mùi kẹo mạch nha? Nói chung, trong bụng người đẹp mùi thối nồng nặc, vì vậy người đẹp chẳng qua chỉ đẹp cái vỏ bên ngoài, nhưng mẹ vợ tôi ngoại hình đẹp mà bên trong vẫn thơm phức? Hàng loạt câu hỏi như móc vào da thịt, tôi như con lợn nước rơi vào trận địa lưỡi câu của ngư phủ, đau xót vô cùng, và chắc chắn là khiến chư vị độc giả phiền lòng, các vị sẽ nói, thằng cha Lý Một Gáo bán rẻ mẹ vợ! Các bạn thân mến, tôi không bán rẻ mẹ vợ mà là nghiên cứu mẹ vợ. Cùng với tuổi thọ bình quân trong xã hội ngày càng cao thì việc kéo dài tuổi xuân cho phụ nữ là vô cùng quan trọng. Công việc nghiên cứu này có lợi cho nhân loại, hơn nữa rất có thể kiếm bộn tiền, vì vậy dù mẹ vợ có giận tôi cũng không hối tiếc!
Tôi sơ bộ nhận định rằng, sở dĩ tôi có một bà mẹ vợ ngon lành như rượu Oloroso Sherry sắc màu long lanh, hương vị nồng nàn, dòng rượu phong phú, khẩu vị ngọt giọng, để lâu không hỏng, càng lâu càng thơm, mà không phải là một bà mẹ vợ nhà quê như rượu ngô vàng chóe đục ngầu, vừa cay vừa đắng, dòng rượu nghèo nàn đơn điệu, uống vào như tự tử bằng thuốc độc, nguyên nhân quan trọng nhất là mẹ vợ tôi sinh ra trong một gia đình vào cỡ thế gia, giàu sụ vì tổ yến.
Căn cứ vào phương thức kể truyện trong tiểu thuyết hiện nay, tôi có thể nói câu chuyện sắp bắt đầu. Trước khi chính thức đi vào câu chuyện thuộc về anh hay thuộc về tôi, trước hết, cho phép tôi bồi dưỡng tri thức chuyên nghiệp trong ba phút, nếu không các vị có thể gặp khó khăn trong khi đọc. Tôi kế hoạch viết số chữ đọc trong một phút rưỡi, còn một phút rưỡi dành để anh suy nghĩ. Kệ mẹ nó, “Cáo mà biết suy nghĩ thì hổ biết cười”, “Sắp có mưa đá, mẹ đi tìm nhà chồng”, kệ cho họ cười, cười chết vài trăm triệu càng đỡ phải sinh đẻ có kế hoạch, khi đó mẹ vợ sẽ lợi dụng bộ máy càng già càng dẻo càng dai của tôi mà đẻ cho tôi một dì hoặc một cậu. Thôi, không lảm nhảm nữa, tôi đã nghe thấy tiềng gầm của cô ta, đã trông thấy thái độ nóng nẩy của cô ta như rượu trắng của thảo nguyên Mông Cổ, như chai rượu nấu bằng vỏ cao lương sáu mươi độ, tăm sủi cuồn cuộn, sốc kinh người!
Yến Kim Ti (Cllocalia Rétita), lớp chim, họ Vũ yến. Thân dài 18 centimet, thân trên lông vũ màu đen biếc hoặc nâu biếc, thân dưới màu trắng, cánh dài và nhọn, chân ngắn màu hồng nhạt, bòn ngón đều hướng về phía trước, sống bày đàn, ăn sâu bọ. Làm tổ trong hang, yến đực nhả tơ từ một tuyến ở miệng, sau khi kết dính trở thành tổ yến, còn gọi là yến sào.
Yến Kim Ti có ở Thái Lan, Philippin, Inđônêxia, Malaixia v…v… Ở nước ta, các đảo hoang ở Quảng Đông, Phúc Kiến cũng có. Đầu tháng Sáu hàng năm là thòi kỳ yến làm tổ đẻ trứng. Trước khi làm tổ, yến đực yến cái rượt đuổi nhau giao đuôi trên không, đoạn, yến đực treo mình trên vách đá miệng nhả tơ như tơ tằm, từng sợi đan vào nhau dính chặt vào vách đá, khô đi thành tổ yến. Người ta đã quan sát, trong quá trình làm tổ, yến đực không ăn không ngủ, đầu liên tục đưa đi đưa lại đến mấy vạn lần mới thành cái tổ. Gian nan vất vả, thậm chí đổ máu. Cái tổ đầu tiên gần như không lẫn thứ gì khác, thuần nước bọt con yến, màu trắng ngà, chất lượng tuyệt hảo, thường gọi là “Bạch yến” hoặc “Quan yến”. Sau khi bị con người lấy mất tổ, con yến đực làm cái tổ thứ hai, lần này thì nước bọt không đủ, con yến phải nhổ lông trên người để cài thêm vào, lông phải nhổ mạnh, máu bắn ra theo, loại tổ này giá trị kém hơn, gọi là “Mao yên” hoặc “Huyết yến”. Tổ này cũng bị lây mất, con yến có thể làm cái tổ thứ ba, có điều, toàn những thứ linh tinh, nước bọt rất ít, không có giá trị ẩm thực là mấy.
Lần đầu tiên tôi trông thấy mẹ vợ là lúc bà đang dùng kim bạc khều tạp chất trong tổ yến sau khi ngâm nước phèn: tia máu, lông tơ, rong biển. Giờ thì tôi đã biết đó là Huyết yến. Mẹ vợ tôi dẩu môi như con thú mỏ vịt lúc đang dỗi, ca cẩm: “Trông này, đâu còn là tổ yến? Đầy lông! Tổ chim khách thì có, tổ quạ thì có!” - “Bình tĩnh nào!” - Giáo sư Viên Song Ngư thầy dạy của tôi tợp một ngụm cốc tai do chính tay ông pha trộn, rượu toát lên mùi hương lan thanh khiết, nói với Vợ: “Bây giờ thì bất cứ thứ gì: cũng trộn được đồ giả vào! Chim yến Kim Ti cũng thành tinh rồi! Tôi nghĩ, một vạn năm nữa, giả dụ khi ấy nhân loại còn tồn tại, chim yến sẽ dùng cứt; chó để làm tổ! - Mẹ vợ bê ngất nghểu một vốc tổ yên, lặng người nhìn chồng - bố vợ tương lai của tôi. Tôi quả thực không thể tưởng tượng một đám bầy nhầy như óc chó mà quí hơn vàng, chẳng lẽ nó huyền diệu như người ta nói?” ông nhìn đám tổ yến trên tay bà với vẻ lạnh nhạt. Bà nói: “ông ngoài rượu ra còn biết cái gì khác!” Mặt đỏ lựng, bà quẳrg chỗ tổ yến xuống, chạy vụt vào trong như một làn gió. Đây là lần đầu tôi đến ăn cơm khách ở nhà mẹ vợ. Vợ tôi bảo mẹ vợ định trổ tài nấu nướng, không ngờ bà lại quẳng tổ yến đi nên tôi hơi ngượng, nhưng ông già bảo: “Đừng lo, bà ấy sẽ quay lại. Cũng như tôi biết về rượu, bà ấy biết vê tổ yến phải coi là nhất nhì thế giới này”.
Quả đúng như lời bố vợ, lát sau mẹ vợ tôi quay lại, bà khều hết chất tạp ở tổ yến, làm cho tôi một bát yến sào. Bố vợ và vợ tôi không ăn, bố vợ nói là trong đó có mùi phân gà, vợ nói có mùi tanh, ăn tổ yến là vô cùng tàn nhẫn, chứng tỏ con người là thủ phạm của mọi tội lỗi! Vợ tôi có một tấm lòng bác ái, đang làm đơn xin gia nhập Hiệp hội bảo vệ động vật của nhân dân thế giới đặt tại Baren. Khi ấy mẹ vợ bảo: “Cậu Lý, cậu không nên để ý những người đần này, họ là bọn giả vờ bác ái, đức Khổng tử lánh xa nhà bếp nhưng có bữa nào ngài không rượu thịt? Khi thu nhận học trò, ngài bắt nộp mười bó thịt khô học phí. Họ không ăn, chúng mình ăn - Mẹ vợ nói - Người Hoa ăn tổ yến đã hàng ngàn năm nay, nó là món ăn quí giá nhất trên đời, đừng nhìn vào ngoại hình xấu xí của nó, nó là thức ăn bổ dưỡng nhất, với trẻ nhỏ nó giúp mau lớn, với phụ nữ nó giúp cho trẻ mãi, với người già nó kéo dài tuổi thọ. Gần đây, giáo sư Hà Quốc Lực trường đại học Hồng Kông còn phát hiện trong tổ yến có chất phòng và chữa bệnh HIV/AIDS. Nó mà chịu ăn tổ yến - mẹ vợ chỉ vào vợ tôi - thì người ngợm không như thế này!” Vợ tôi vênh mặt, nói: “Con thà như thế này còn hơn ăn cái của ấy!” Cô ta trợn mắt hỏi tôi: “Anh nói đi, có ngon không?” Tôi không dám đắc tội với vợ, cũng không muốn mất lòng mẹ vợ, bèn nói: “Nói thế nào bây giờ? Nói thế nào? Ha ha ha ha ha! Vợ tôi nói: “Anh là con người ba phải”. Mẹ vợ múc thêm cho tôi một môi rồi nhìn vợ tôi, vẻ khiêu khích. Vợ tôi nói: “Các người sẽ gặp ác mộng đấy!”. “Ác mộng nào?” Mẹ vợ hỏi. Vợ tôi nói: “Hàng đàn chim yến đang mổ óc các người”. Mẹ vợ nói: “Cậu Lý ăn đi, đừng chấp con điên làm gì. Hôm qua nó ăn một con của to tướng, chẳng lẽ nó không sợ càng của cặp mũi?” Bà nói - Hồi nhỏ tôi rất ghét những người hái tổ yến, nhưng khi ra thành phố, thấy mình ghét là vô lý. Bây giờ ngày càng nhiều người ăn yến sào (tổ yến), người giàu nhiều lắm. Nhưng có tiền không nhất thiết được ăn Quan yến loại một. Yến Thái Lan nhập khẩu “Xiêm La cống yến”, các ông kễnh Bắc Kinh ăn sạch, thành phố Rượu bé tí xíu chúng ta chỉ còn được ăn loại Huyết yến này thôi. Huyết yến thì cũng đã tám ngàn tệ một kilôgam, người thường ăn sao nổi?”
Mẹ vợ nói với giọng nghiêm túc, không hề có ý phóng đại. Dù cho tổ yến tuyệt diệu đến mấy, quả tình nó không ngon chút nào, còn lâu mới bằng thịt nướng.
Mẹ vợ kiên nhẫn giảng giải cho tôi về yến sào, hết nói về bổ dưỡng lại nói về cách chế biến. Tôi không thích thú những chuyện đó. Điều mà tôi hứng thú là những chuyện về hái yến, về gia tộc và về bản thân bà.
Mẹ vợ tôi sinh ra trong một gia đình vào loại thế gia nhờ tổ yến. Khi còn trong bụng mẹ, mẹ vợ tôi đã nghe tiếng nức nở của những con yến Kim Ti, đã được nuôi dưỡng bằng chất bổ của tổ yến. Mẹ đẻ của mẹ vợ tôi là người háu ăn, khi mang thai mẹ vợ tôi, cụ thèm ăn càng dữ, cụ thường xuyên ăn vụng tổ yến, ăn vụng rất có nghề, cụ ông không hề biết. Mẹ vợ tôi nói, khi sinh ra miệng cụ bà đã đầy răng cứng như thép, có thể nhai nát tổ yến khô, cụ không ăn vụng cả chiếc tổ - vì cụ ông đã đếm từng cái - mà chỉ cắn một mẩu ở cuống tổ, cách đầu cuống một tấc, cái tổ bị cắn rồi mà trông vẫn nguyên vẹn. Mẹ vợ tôi nói, cụ ăn vụng toàn loại Quan yến. Tổ yến khi chưa chế biến dinh dưỡng càng phong phú. Mẹ vợ nói rằng, bất cứ loại sơn hào hải vị nào hễ qua chế biến là giá trị dinh dựỡng bị giảm đi rất nhiều. Mẹ vợ nói, mỗi tiến bộ đều được xây dựng trên cơ sở huỷ hoại một cái gì đó. Nhân loại phát minh ra nấu nướng làm thoả mãn cảm quan của cái miệng, nhưng lại làm mất đi sự khôn ngoan và dũng mãnh của con người. Người Eskimo sống ở vòng cung Bắc cực sở dĩ có thân thể cường tráng và sức chịu lạnh ghê gớm, là do họ ăn sống hải báo. Một khi họ nắm được kỹ thuật nấu nướng của Trung Quốc, họ sẽ không trụ lại được ở Bắc cực. Mẹ của mẹ vợ tôi ăn nhiều tổ yến sống nên mẹ vợ tôi phát dục đầy đủ, lúc mới sinh tóc đã đen mượt, da dẻ hồng hào, giọng to và khỏe hơn hẳn con trai, trong miệng đã có bốn chiếc răng. Khi sinh là tháng Chạp, tuy Quảng Đông không có cái lạnh chết người, nhưng cũng gió rét căm căm, mẹ vợ bị bỏ qua đêm ngoài bụi cỏ vẫn ngủ ngon lành khiến ông thân sinh ra mẹ cảm động, cho bế về nhà.
Theo lời mẹ vợ nói thì mẹ của mẹ vợ tôi rất đẹp, còn bố của mẹ vợ thì lông mày chữ bát, mắt sâu, mũi tẹt, môi mỏng dính, bộ râu dê trên chiếc cằm nhọn, suốt ngày nằm dán vào tường như con thạch sùng già. Mẹ của mẹ vợ ngày nào cũng ăn vụng tổ yến, da dẻ hồng hào như bông sen tháng Sáu. Khi đầy tuổi tôi, mẹ của mẹ vợ theo một thương lái trốn đi Hồng Kông, mẹ vợ tôi sống với bố. Mẹ vợ nói, sau khi mẹ của mẹ vợ trốn đi Hồng Kông, bố đẻ của mẹ mỗi ngày làm một tổ yến cho inẹ ăn, vì vậy mẹ vợ lón lên nhờ ăn yến. Mẹ vợ nói, mẹ vợ có mang vợ tôi vào lúc khó khăn nhất của những năm sáu mươi, không được một miếng súp yến vào miệng, nên vợ tôi chẳng khác một con khỉ còm. Nếu như vợ tôi chịu ăn tổ yến, tình hình có lẽ khác, nhưng cô ta dứt khoát không chịu. Kỳ thựe tôi biết, muốn ăn yến cũng khó. Mẹ vợ mới nhận chức chủ nhiệm Trung tâm chế biến món ăn đặc chủng không lâu, thòi chưa làm chủ nhiệm có muốn ăn yến cũng không có mà ăn. Bát yến sào bà làm cho tôi phải đi cửa sau mới có, do vậy, về điểm này chứng tỏ bà rất thích tôi, hơn cả vợ tôi thích tôi. Tôi lấy vợ một nửa vì bố vợ tôi là ân sư của tôi. Tôi chưa li hôn với vợ tôi, nguyên nhân quan trọng là tôi thích mẹ vợ tôi.
Mẹ vợ tôi lớn lên nhờ ăn tổ yến và chim yến non, năm lên bốn đã có vóc dáng và trí lự của đứa trẻ lên mười. Mẹ vợ cho rằng, đó hoàn toàn là công lao của tổ yến Kim Ti. Mẹ vợ cho rằng, về ý nghĩa nào đó, bà được chim yến Kim Ti nuôi bà bằng nước dãi mà lớn lên, còn mẹ đẻ ra bà không được bú sữa vì khi sinh đã có bốn răng trong miệng. Vậy thì mẹ của mẹ vợ đâu phải động vật có vú? Mẹ vợ nói, giọng tỏ ra căm phẫn. Mẹ vợ còn mở rộng ý nghĩa của vấn đề, cho rằng, con người là động vật có vú tàn nhẫn nhất, không có tình nhất, chỉ con người mới cự tuyệt con mình bú tí.
Mẹ vợ quê vùng duyên hải phía Đông Nam, những hôm đẹp trời ngồi trên ghềnh đá có thể nhìn thấy thấp thoáng một chuỗi những hòn đảo màu xám, trên đảo có nhiều hang động lớn, trong động có tổ yến. Những người trong thôn sống bằng nghề đánh cá, riêng bố đẻ của mẹ vợ tôi và sáu ông chú là sống bằng nghề lấy tổ yến. Đây là nghề gỉa truyền, cực kỳ nguy hiểm nhưng kiếm bộn tiền, người thường có muốn cũng không làm nổi. Do vậy trong phần đầu của truyện, tôi mới nói mẹ vợ tôi sinh ra trong một gia đình thuộc loại thế gia do có nghề hái tổ yến.
Mẹ vợ tôi nói, ông thân sinh của mẹ và các chú đều là những con người khoẻ mạnh, trên người không cơ mỡ, mà chỉ thuần những cơ bắp xoắn thành búi. Người nào mà cơ bắp như thế, thân thể rất dẻo dai, nhanh nhẹn hơn khỉ. Ông thân sinh của mẹ vợ nuôi hai con khỉ, mẹ vợ bảo đó là hai ông thầy của ông. Khi không phải mùa thu hoạch tổ yến, ông và các chú ngồi chơi sơi nước, ăn vào thu nhập của năm trước để chuẩn bị đầy đủ mọi mặt cho vụ thu hoạch sắp tối. Ngày nào các vị cũng dắt khỉ lên núi cho chúng trèo cây leo vách đá để các vị bắt chước. Mẹ vợ tôi nói, ở bán đảo Mã Lai người ta thuần hoá khỉ để hái tổ yến, nhưng thành công không đáng kể, tính nết khỉ dễ thay đổi, ảnh hưởng đến sản xuất. Mẹ vợ nói, ông thân sinh ra mẹ tuy đã ngoài sáu mươi nhưng thân thể vẫn nhẹ như chim yến, leo sào tre bóng nhẫy không kém gì lũ khỉ. Tóm lại, gia tộc đằng mẹ vợ tôi do di truyền và truyền nghề qua các thế hệ, ai cũng giỏi leo cây trèo tường. Mẹ vợ nói, xuất sắc nhất về thể năng là chú Út, chú luyện được môn bích hổ công, tay bám vách đá leo lên cao mấy chục mét mà không cần thang. Mẹ vợ nói, mẹ đã quên mặt các ông chú khác, nhưng ông út thì không bao giờ quên. Da ông có một lớp vẩy như vẩy cá, ánh mắt màu lam phóng ra từ hai hốc mắt sâu trên khuôn mặt gầy guộc.
Mẹ vợ nói, mùa hè năm ông bảy tuổi, lần đầu tiên ông cùng các anh ra đảo lấy tổ yến. Nhà có thuyền lớn hai mái chèo đóng bằng gỗ thông, phủ một lớp dày dầu ngô đồng, mùi thơm thoang thoảng. Hôm ấy có gió đông nam, những con sóng dài đuổi nhau ồn ào, cát trắng lấp loá dưới nắng.
Mẹ vợ nói, bà thường xuyên bị ánh nắng chói chang ấy đánh thức trong giấc ngủ, nằm trong chăn ở thành phố Rượu, bà nghe rõ tiếng sóng ở Nam Hải, ngửi thấy mùi vị của biển cả. Ông thân sinh ra bà miệng ngậm tẩu, cắt đặt đàn em khuân lên thuyền lương thực, nước ngọt, sào tre… Xong xuôi, một ông chú dắt con trâu mộng béo tốt, giữa hai sừng buộc dải lụa đỏ tới. Con trâu mắt đỏ như miếng tiết, mép sùi bọt trắng, có vẻ khùng. Trẻ con thôn chài kéo ra xem thuyền yến chuẩn bị ra đảo, trong đó có mấy đứa là bạn của mẹ Vợ: Hải Yến, Triều Sinh, Hải Báo… Một bà đứng trên tảng nham thạch gào to: Hải Báo ơi Hải Báo, về nhà! Thằng nhỏ miễn cưỡng ra về, nói với mẹ Vợ: Hải Ni, cậu bắt cho mình một con chim yến được không? Mình đổi cho cậu một hòn bi ve. Cậu khua khua hòn bi ve trong tay. Tôi không ngờ mẹ vợ tôi có cái tên cúng cơm hay đến thế: Người con gái của biển. Trời ạ, tên bà trùng với tên của phu nhân Karl Marx! Mẹ vợ thoáng nét buồn: Anh chàng Hải Báo ấy bây giờ đã là Tư lệnh Tiểu quân khu! Nghe giọng nói, biết bà bất mãn về chồng. Vợ tôi nói: Tư lệnh Tiểu quân khu thì có gì ghê gớm! Bố con là Giáo sư đại học, chuyên gia ủ men, chẳng kém xề chút nào so với viên Tư lệnh Tiểu quân khu tí hin! Mẹ vợ nhìn tôi, nói: Nó bao giờ cũng bênh bố nó chằm chặp, chống lại tôi. Phụ tử tình thâm mà lại! - Tôi nói. Vợ tôi nguýt tôi một cái đổ đình đổ chùa. Mẹ vợ tôi nói, tiết mục ầm ĩ nhất hôm ra đảo, là dồn con trâu mộng lên thuyền.
Bà nói, con trâu có linh tính, cái giác quan thứ sáu ấy càng rõ ở con trâu mộng (chưa bị thiến). Nó biết đưa nó lên thuyền nghĩa là như thế nào? Vì vậy nó vằn mắt lên, thở phì phì ra sức cưỡng lại khiến ông chú loạng choạng chỉ chực ngã. Mẹ vợ nói, một tấm gỗ hẹp bắc lên thuyền, nối bờ với thuyền như một cây cầu chênh vênh, phía dưới là nước biển ngầu đục. Con trâu dừng lại ở đầu cầu, dứt khoát không chịu trèo lên dù chỉ nửa bước. Ông chú vận hết sức bình sinh kéo cái thừng, vòng sẹo bằng kim loại ở mũi con trâu lôi dài mũi nó ra, gần như có thể bị sứt bất cứ lúc nào, chắc chăn là đau vô cùng nhưng con trâu vẫn không chịu bước lên cầu, sứt mũi thì nghĩa lý gì so với cái chết! Mẹ vợ bảo, mấy ông chú nhất tề xông tới đủn con trâu lên thuyền, nhưng đủn mấy nó cũng không nhúc nhích, trái lại, một ông chú bị nó đá hậu một phát ở đùi, phải đi cà nhắc.
Mẹ vợ tôi nói, chú út không những có sức khoẻ hơn các anh, mà trí tuệ cũng hơn hẳn. Chú cầm lấy chạc, dắt trâu đi dạo trên bờ biển, vừa đi vừa nói chuyện với nó. Dấu chân người và trâu hằn trên cát. Sau đó, chú cởi áo ngoài trùm kín đầu con vật, một mình chú dắt con trâu lên thuyền. Con trâu bước lên cầu, tấm ván uốn thành hình cánh cung. Con vật biết đang bước trên con đường nguy hiểm nên rất thận trọng, bốn chân nhịp nhàng có vẻ thành thục như con sơn dương của đoàn xiếc biểu diễn trò leo dây. Trâu lên thuyền, người cũng lên thuyền, tấm ván cất đi, cánh buồm căng gió. Chú Út cởi chiếc áo trên đầu con trâu, nó run nhu cầy sấy, bốn chân nhấc lên đặt xuống, rống lên một tiếng thê thảm. Đất liền mờ dần, đảo đã gần kề, từng đám mây mù bao quanh trên đỉnh như lầu son gác tía chốn Bồng Lai.
Mẹ vợ tôi nói, ông thân sinh ra bà cùng các chú neo thuyền ở một góc đảo, cho trâu lên bờ. Người nào người ấy sắc mặt nghiêm trang kính cẩn. Vừa đặt chân lên hoang đảo đầy gai góc, con trâu bỗng trở nên ngoan ngoãn như con cừu, vằn đỏ tan biến, mắt trâu trở lại màu xanh của nước biển, đồng màu với mắt các ông chú.
Mẹ vợ tôi kể, khi các ông cập đảo thì đã hoàng hôn, ráng chiều nhuốm hồng mặt biển, trên đảo chim bay từng đàn, tiếng kêu đau màng nhĩ. Họ qua đêm ngoài trời trên đảo, một đêm không có chuyện gì. Sáng sớm hôm sau, ăn sáng xong, ông ngoại vợ tôi bảo: Làm đi! Vậy là công việc thu hái tổ yến gian nan và bí ẩn, bắt đầu.
Trên đảo có rất nhiều hang tối. Mẹ vợ nói, ông ngoại vợ cho bầy hương án trước một cửa hang lớn, ông thắp hương lạy ba lạy, rồi ra lệnh: Sát sinh! Sáu người em ùa tới vật ngã con trâu mộng. Điều kỳ lạ là con trâu khoẻ như thế mà không hề chống cự, cứ như nó tự ngã xuống chứ không phải bị vật ngã. Nó nằm yên, cái cổ khoẻ mạnh gác lên tảng nham thạch, đầu to bự với cặp sừng màu thép gắn với cổ một cách thô thiển như một mối hàn vụng. Tư thế của con trâu chứng tỏ nó tình nguyện làm vật hi sinh cung tiến thần linh. Mẹ vợ tôi hiểu mang máng rằng, các tổ yến trong hang đều thuộc quyền sở hữu của thần linh, ông thân sinh mẹ vợ tôi cùng các chú dùng con trâu mộng làm vật đổi chác. Thần linh trong hang đã ăn thịt trâu thì hẳn là quái vật hung dữ. Nghĩ vậy, mẹ vợ tôi sợ run lên. Sau khi vật ngã con trâu, các chú đứng sang một bên. Mẹ vợ tôi trông thấy ông thân sinh rút từ thắt lưng một chiếc búa sắc lẹm, cầm bằng cả hai tay đi về phía con trâu. Trái tim bà như bị một bàn tay hộ pháp bóp chặt, mỗi lần đập lại lỗi nhịp, tưởng như không thể đập tiếp. Ông thân sinh mẹ vợ tôi miệng khấn lầm rầm, ánh mắt nhớn nhác hiện rõ trên cặp mắt đen rầm. Mẹ vợ tôi bỗng thấy thương ông và thương cả con trâu, cảm thấy người đàn ông gầy như con mắm trước mặt cũng đáng thương như con trâu nằm dài bên tảng nham thạch, kẻ giết và kẻ bị giết đều không tự nguyện, nhưng không thể cưỡng lại một áp lực kinh khủng, đành phải làm. Mẹ vợ tôi nhìn miệng hang hình thù quái gở, nghe tiềng gió vi vu từ trong đó vọng ra, cảm nhận lưồng âm khí tuôn ra từ miệng hang, chợt linh cảm thấy rằng, bố đẻ của bà và con trâu đều sợ thần linh trong động. Bà trông thấy con trâu nhắm tịt mắt, vành mi dài khép chặt như một sợi chỉ, một con nhặng xanh đậu trên khoé mắt đang liếm láp gì đấy, mẹ vợ tôi bứt rứt vì con nhặng, nhưng con trâu vẫn không động cựa. Ông thân sinh mẹ vợ tôi đi đến bên con trâu, nhìn quanh như người mất hồn. Ông cụ nhìn gì nhỉ? Mẹ vợ tôi nói, thực ra ông chẳng nhìn thấy gì cả, khi ngẩng lên mới thấy tâm trạng ông hoàn toàn trống rỗng. Ông cụ chuyển búa sang tay trái, nhổ bọt vào lòng bàn tay phải, sau đó chuyển búa sang tay phải, nhổ bọt vào lòng bàn tay trái, cuối cùng, hai tay cầm búa, ông cụ xê dịch đôi chân để đứng cho vững, hít vào một hơi dài, nín thở, mặt đanh lại, hai mắt mở to, giơ cao búa rồi chém xuống một nhát cực mạnh. Mẹ vợ tôi nghe thấy một tiếng “bụp”, nghe thấy tiếng thở ra, ông cụ lảo đảo đứng không vững, một lúc lâu mới chậm rãi rút lưỡi búa ra. Con trâu ọ lên một tiếng, mấy bận định ngóc đầu dậy nhưng không nổi vì cơ cổ đã bị chém đứt. Sau đó là từng bộ phận trên cơ thể nó luân phiên co giật, hình như không phải chi phối từ não. Ông thân sinh mẹ vợ tôi lại giơ búa lên chém tiếp rất mạnh, mở rộng vết thương trên cổ, mỗi nhát chém đều kèm theo một tiếng “hự”, động tác vẫn rất chính xác, sau mỗi nhát, vết thương sâu thêm một ít, cuối cùng máu đen vọt ra, mùi tanh của máu lập tức xộc thẳng vào mũi mẹ vợ. Ông cụ thân sinh hai tay đầy máu, chiếc búa cũng trơn tuột, phải luôn lấy cỏ lau cán búa chứng tỏ nó cũng dính máu. vết thương càng sâu rộng thì máu vọt ra càng mạnh, bắn đầy mặt ông cụ. Khí quản đã bị chém đứt, bọt máu đùn ra từng đông kèm theo những tiếng ọc ọc. Mẹ vợ tôi lấy tay chặn họng, quay đi. Khi nhìn lại, thấy ông cụ đã chém đứt cổ con trâu. Ông cụ quẳng búa, bê cái sỏ bằng hai bàn tay đầy máu đặt lên hương án. Mẹ vợ tôi không hiểu nổi chuyện hai mắt trâu lúc sống thì nhắm tịt, nhưng sau khi chết thì lại mở thao láo, con ngươi xanh màu nước biển, in bóng những người đứng xung quanh. Mẹ vợ nói, sau khi sửa cho ngay ngắn cái đầu trâu, ông cụ lùi lại mấy bước, miệng lẩm nhẩm khấn vái gì đó, rồi ông sụp xuống lạy ba lạy về phía cửa hang. Các chú đều quì bên tảng nham thạch, dập đầu lạy như bổ củi.
Nghi thức tế thần linh đã xong, ông ngoại vợ tôi cùng các em ông khuân dụng cụ vào hang, để lại mẹ vợ bên ngoài trông nom thuyền và đồ dạc. Mẹ vợ nói, sau khi vào trong hang, họ như đá chìm đáy biển, không thấy tăm hơi đâu cả. Đứng trước cái đầu trâu mắt mở trừng trừng và con trâu cụt đầu máu me vung vãi, mẹ vợ tôi sợ rủn người. Nhìn trời biển mênh mông, đất liền ẩn hiện trên đầu sóng, những con chim không biết tên bay lượn trên đảo. Mấy con chuột bự từ kẽ đá chui ra vừa kêu chí chí vừa trèo lên mình trâu, mẹ vợ định đuổi chúng đi, nhưng chúng đã nhảy dựng lên, cao đến nửa mét, tấn công lại. Hình dung móng vuốt của chúng cào vào ngực nó sẽ như thế nào, mẹ vợ vừa khóc vừa chạy vào trong hang.
Mẹ vợ vừa khóc vừa chạy trong hang tối tìm bố và các chú. Chợt thấy phía trước sáng rực, bảy cây đuốc xuất hiện trên đầu mẹ. Mẹ kể, khi thu hoạch trái vụ, ông thân sinh tẩm dầu thông vào cành cây rồi bó lại thành cây đuốc, mỗi cây dài nửa mét, một đầu có cán để miệng ngậm khi trèo. Trông thấy đuốc lửa, mẹ vợ lập tức ngừng khóc, bầu không khí thiêng liêng và nghiêm cẩn làm bà nghẹn họng, cảm thấy so với công việc của bố và các chú nỗi sợ của bà có thấm gì!
Đây là một cái hang cực lớn, cao chừng sáu mươi mét, rộng khoảng tám mươi mét - Mẹ vợ dùng con mắt bây giờ để ước lượng căn cứ vào ấn tượng hồi nhỏ, còn dài bao nhiêu thì không đoán nổi. Trong hang nước chảy róc rách, có những giọt nước rơi thánh thót, gió lạnh ù ù. Mẹ vợ ngẩng nhìn ánh lửa soi tỏ mặt ông thân sinh, soi tỏ mặt các chú, nhất là khuôn mặt của chú Bảy, bộ mặt hấp dẫn ánh lên màu hổ phách, gây ấn tượng âu sắc không thể quên, chẳng khác rượu hương cau của bà quả phụ La Fontaine thanh phế thải nhiệt, dư vị đọng mãi nơi cổ họng, vượt xa các loại rượu nói tiếng khác. Chú Bảy ngậm cây đuốc đôi lúc bắn tia lửa hoa cà, dán mình trên kẽ đá đưa lưỡi dao về phía vật trắng màu sữa. Đó là một tổ yến.
Mẹ vợ nói, thật ra điều làm mẹ ngạc nhiên đến sững sờ không phải bảy cây đuốc trên cao, cũng không phải bộ mặt vô cùng hấp dẫn bừng sáng dưới ánh đuốc của chú Bảy, mà là bầy yến Kim Ti bay đầy hang. Chúng sợ ánh đuốc nhưng không dám bỏ đi vì sợ mất tổ. Chúng bay trong hang như hoa nở đầy núi, như đàn bướm lượn tròn, chít chít chít chít, hàng vạn tiếng kêu ứa máu. Qua tiếng kêu, mẹ vợ tôi nhận ra lũ yến đang nổi giận. Ngay trên đầu mẹ vợ, ông thân sinh của mẹ bắc cây sào tre dài lên vách hang, trên đó có mười mấy tổ yến đã khô. Ông cụ ngẩng mặt lên, đầu quấn khăn trắng, lai lỗ mũi nở rộng, mặt đỏ lựng như lợn sữa quay. Cụ đưa lưỡi dao nhọn ra phía trước, chỉ một nhát cắt rời một tổ yến, bỏ luôn vào tay đãy đeo chéo thắt lưng. Mấy vật đen đen rơi xuống dưới chân mẹ vợ, lấy tay sờ thì đó là những quả trứng vỡ, lòng đỏ lòng xanh vương vãi. Thấy vậy, mẹ vợ rất buồn. Nhìn cha mình chỉ dựa vào mấy chiếc sào tre yếu ớt tiến hành một công việc vô cùng nguy hiểm, mẹ vợ cũng rất buồn. Lũ yến từng đàn từng lũ xông vào như định dập tắt cây đuốc của ông cụ để bảo vệ tổ và những đứa con. Nhưng bị ngọn lửa uy hiếp, khi gần chạm đuốc chúng vội ngoặt gấp, cánh loé màu xanh biếc. Mẹ vợ nói, ông thân sinh của mẹ không đếm xỉa lũ yến, chỉ chú mục vào lấy tổ, từng cái một.
Cây đuốc đã cháy hết, ông thân sinh cùng các chú theo sào tre tụt xuống đất. Các vị tụm lại một chỗ châm cây đuốc mới, trút số tổ yến lấy được vào tấm vải trắng trải dưới đất. Thường thì ông thân sinh mẹ vợ chỉ lấy tổ yến trong khoảng thời gian tàn một cây đuốc, còn lại ba cây thì các chú lấy tiếp, ông ngồi trông tổ yến, để phòng lũ chuột tha đi, đồng thòi cũng là để ông nghỉ ngơi cho lại sức vì ông đã già. Khi thấy mẹ vợ xuất hiện trước mặt, ông cụ vừa ngạc nhiên vừa mừng, trách mẹ vợ sao dám tự tiện vào trong hang, mẹ vợ nói sợ ở ngoài một mình. Khi mẹ vợ nói “sợ”, ông thân sinh mẹ vợ tái mặt, đánh mẹ một bạt tai, quát: Câm mồm! Mẹ vợ nói, bàn tay ông cụ dính nhơm nhốp, đầy nước rãi yến. về sau mẹ vợ mới biết, khi đã ở trong hang, tuyệt đối không được nói những từ “ngã”, “trượt”, “chết”, “sợ”, nếu vi phạm, khó có thể yên lành. Bị một cái tát, mẹ vợ khóc oà. Trên cao chú Bảy dỗ: Yến Ni đừng khóc, lát nữa chú bắt cho một con yến nhỏ.
Mẹ vợ nói, bây giờ kiếm đâu ra những tổ yến to như thế? Đó là những tổ yến kỳ cựu. Mẹ vợ nói, chim yến có tập tính làm tổ mới bên trên tổ cũ, nếu không bị lấy đi, tổ yến to như một cái nón. Tất nhiên khi tổ yến không bị phá thì gần như thuần nước dãi con yến, không tạp, chất lượng cao.
Chú Bảy chĩa con dao ba cạnh sáng quắc về phía trước, người chú dài ra một cách đáng sợ, như một con rắn! Mẹ vợ nói, trông thấy mồ hôi trên tóc chú rỏ từng giọt xuống đất. Con dao của chú đã cận kề tổ yến khổng lồ. Chạm rồi, chạm rồi! Người chú dài thêm một chút nữa, con dao đã lách vào chân tổ và cứa nhiều nhát, mồ hôi trên người chú chảy đầm đìa. con yến lón từ phía tổ bay tới đặc biệt dũng mãnh, bất kể sống chết, dùng thân mình đập ba lần liên tiếp vào mặt chú Bảy. Mẹ vợ nói, tổ yến bám vách đá rất chắc, đặc biệt là tổ lâu năm, như mọc ra từ vách đá. Vì vậy công việc của chú Bảy vô cùng gian khổ, chú không đếm xỉa đến cuộc tấn công của lũ yến, tâm không rối, tay không run, nghiên chặt răng, nhắm tịt mắt, kiên trì bám trụ, cắn môi đến bật máu, tự mình nếm vị mặn của máu mình.
Mẹ vợ nói, trời ơi, lâu dễ đến hàng trăm năm, cái tổ yến khổng lồ mới nghiêng sang một bên rồi trễ xuống, chỉ một nhát nữa là rơi. Nó trắng như một khối bạch kim!
- Cố lên, chú Bảy! - Mẹ vợ không nén nổi, kêu to. Người chú dướn lên cùng với tiếng kêu của mẹ vợ, chiếc tổ yến bị cắt rời vách đá nhẹ nhàng bay xuống, rất lâu mới đáp xuống đất, giữa ông cụ thân sinh và mẹ vợ. Cùng rơi với tổ yến, có chú Bảy tài nghệ phi thường của mẹ vợ. Như trên đã nói, chú thường nhảy từ độ cao hơn chục mét trở lại không bao giờ bị thương. Nhưng lần nay thì quá cao, tư thế lại không thuận, chú ngã cắm đầu xuống đất, óc chú bắn đầy chiếc tổ yến khổng lồ. Cây đuốc rơi xuống vẫn cháy một lúc mới bị nước trong hang dập tắt.
Mẹ vợ nói, chú Bảy chết được năm năm thì ông thân sinh mẹ vợ cũng tan xác trong một hang đá, nhưng công việc thu hái tổ yến không vì có người chết mà dừng. Bà không thể nối nghiệp cha, cũng không muốn ăn báo cô các chú. Một đêm hè nóng nực, mẹ vợ địu tổ yến dính óc chú Bảy lên lưng, bước lên con đường mưu sinh đầy gian truân. Năm ấy bà mới mười bốn tuổi.
Mẹ vợ nói, thông thường thì bà không thể trở thành một cao thủ về súp yến, vì mỗi lần dùng kim khều tạp chất ở tổ yến, trước mắt bà lại hiện ra cảnh tượng rụng rời trước kia. Bà trân trọng từng tổ yến, vì đằng sau mỗi tổ là máu và nước mắt - của yến và của người - vậy nên bà tích luỹ được những kinh nghiệm lạ lùng về tổ yến. Nhưng bà vẫn còn chỗ lấn cấn, đó là mối quan hệ giữa tổ yến và óc người khiến bà không thoải mái, nhưng từ khi thành phố Rượu phát minh ra món đặc sản Trẻ thịt nổi tiếng, thì nỗi bứt rứt ấy mới tiêu tan.
Mẹ vợ tỏ ra lo lắng, nói: Từ sau những năm 90, nhu cầu về tổ yến tăng đột ngột, nhưng nghề hái tổ yến ở miền nam Trung Quốc gần như tàn lụi. Những người làm nghề này dùng thang lên xuống bằng thuỷ lực và đèn chiếu hiện đại, không những lấy không sót một tổ mà còn bắt cả yến con. Thực ra, Trung Quốc không còn tổ yến, phải nhập từ các nước Đông Nam Á, dẫn đến giá cả tăng vọt, thị trường Hồng Kông hai ngàn năm trăm đô la Mĩ một kilô tổ yến, và còn lên nữa. Giá yến lên cao khiến nước ngoài thu hái tổ yến như điên. Năm xưa ông thân sinh mẹ vợ mỗi năm chỉ hái có một lần, vậy mà bây giờ Thái Lan thu hoạch tới bốn lần. Cứ đà này thì hai mươi năm nữa trẻ con không biết tổ yến là cái gì! - Mẹ vợ húp cạn súp yến trong bát, nói.
Tôi nói, thực ra hiện nay ở Trung Quốc bất quá một nghìn đứa trẻ được ăn tổ yến, không hơn. Với đông đảo người dân, tổ yến không bức thiết cho lắm, lo làm gì cho mệt!