áng thứ Ba Salander vào sổ đăng ký tội phạm của cảnh sát tìm Alexander Zalachenko. Hắn không ở trong danh sách, điều này không lạ vì theo như cô biết thì hắn không bị kết án về một tội nào ở Thụy Điển, thậm chí còn không có ở cả đăng ký công cộng. Chui vào sổ đăng ký tội phạm, cô dùng căn cước của chánh thanh tra Douglas Skiold ở cảnh sát Malmo. Cô hơi chột dạ khi thình lình máy của cô khẽ boong một tiếng và một biểu tượng trên thanh trình đơn bắt đầu nhấp nháy ra hiệu có người đang tìm cô ở chương trình tán gẫu ICQ. Phản ứng đầu tiên của cô là rút phích điện tắt máy. Rồi cô nghĩ lại. Skiold không có chương trình ICQ ở máy ông ta. Rất ít người có tuổi dùng nó. Có nghĩa là có người đang tìm cô. Và chả có bao lăm khả năng để mà phải lựa chọn. Cô bấm chương trình ICQ đánh mấy chữ: <Dịch Bệnh, cậu muốn gì?> <Vò vẽ, Khó tìm cậu quá. Cậu không check mail ư?> <Sao tìm ra tớ?> <Skiold. Tớ cũng có danh sách y chang cậu. Tớ cho rằng cậu đang dùng một trong các căn cước có quyền cao nhất.> <Cậu muốn gì?> < Cậu đang tìm gã Zalachenko nào vậy?> <LLC.C> <?> <Lo lấy chuyện cậu.> <Có gì thế?> <Mặc kệ tớ, Dịch Bệnh.> <Tớ nghĩ tớ có một khuyết tật xã hội như cậu nói. Nếu tớ tin vào giấy tờ thì hình như tớ cũng hoàn toàn bình thường y chang cậu.> <Cần giúp không?> ------- Salander do dự. Trước thì Blomkvist nay lại Dịch Bệnh. Những người muốn đến cứu cô không thể chấm hết được ư? Dịch Bệnh, vấn đề là anh ta là một vật cấm cung nặng tạ rưỡi gần như chỉ chuyên qua mạng Internet mà giao lưu với Salander và làm cho Salander trông cứ như là kỳ quan của các cao thủ xã hội vậy. Cô không trả lời thì Dịch Bệnh lại đánh một dòng nữa: <Vẫn đấy chứ? Có cần giúp ra nước ngoài không?> <Không.> <Sao bắn họ?> <Thôi, quên đi.> <Cậu định bắn nhiều người nữa thì như vậy tớ có phải lo lắng không? Chắc tớ là người duy nhất dò được ra lõng cậu.> <Đừng dây vào tớ thì không phải lo với lắng.> <Tớ không lo. Tìm tớ trên hotmail nếu cần cái gì. Vũ khí? Hộ chiếu mới?> <Cậu là đồ mắc bệnh xã hội.> <Ý cậu nói là so với cậu phải không?> ------- Salander thoát chương trình ICQ, ngồi xuống sofa suy nghĩ. Phút sau cô gửi cho địa chỉ hotmail của Dịch Bệnh một email. Công tố viên Richard Ekstrom, người dẫn dắt cuộc điều tra sơ bộ, sống ở Taby. Ông ta có vợ và hai con và có một kết nối mạng với gia đình qua băng thông rộng. Tớ muốn vào máy xách tay hay máy của nhà ông ta. Tớ muốn đọc ông ta đúng với thời gian. Không cho tiếp cận được ổ cứng bằng chương trình sao chép. Cô biết Dịch Bệnh hiếm khi ra khỏi nhà ở Sundbyberg cho nên cô hy vọng anh đã chăm bón được dăm ba đứa tuổi teen lớ ngớ làm công việc điền dã. Không cần ký vào thư. Mười lăm phút sau đã được hồi đáp: <Cậu trả bao nhiêu?> <10.000 vào tài khoản cậu + các chi phí và 5.000 cho trợ lý của cậu.> <Tớ sẽ dây vào.> ------- Sáng thứ Năm cô được email của Dịch Bệnh mang một địa chỉ FTP mật. Salander mừng. Cô không ngờ chưa tới hai ngày đã có kết quả. Ở vào một thời gian mà một phần mềm đơn giản chưa được tạo ra thì “giáp lá cà” một máy tính khác, dù bằng chương trình xuất sắc của Dịch Bệnh cùng phần cứng do anh đặc biệt thiết kế ra cũng là một quá trình cần cù đòi hỏi bạn phải cho các bit thông tin trườn vào một máy tính một kilobyte cho tới khi một chương trình phần mềm đơn giản được tạo dựng. Nó được tiến hành nhanh đến đâu tùy thuộc vào Ekstrom dùng luôn hay thưa máy tính của ông ta, và rồi thường thường lại sẽ phải mất vài ngày nữa để chuyển tất cả các dữ liệu sang một ổ cứng bản sao. Bốn mươi tám giờ đồng hồ không chỉ là ngoại lệ mà còn là một điều không thể có được về mặt lý thuyết. Salander bị ngợp. Cô boong gọi ICQ của anh: <Cậu làm như thế nào hả?> <Bốn máy tính trong căn hộ nhà ông ta. Cậu tưởng tượng nổi không - họ không có tường lửa. An ninh zero. Tớ chỉ làm có mỗi việc cắm phích điện vào cáp và tải ngược lên. Tớ chi mất 6.000 curon. Cậu cáng nổi không?> <Nổi, cộng một thưởng nữa về làm nhanh.> ------- Nghĩ một lúc rồi cô chuyến 30.000 curon vào tài khoản của Dịch Bệnh qua Internet. Cô không muốn anh hoảng hồn trước các khoản tiền quá nhiều. Rồi cô thoải mái ngồi lên chiếc ghế Verksam Ikea mở máy tính xách tay của Ekstrom. Trong một giờ cô đọc hết các báo cáo của thanh tra Bublanski gửi Ekstrom. Salander ngờ chuyện các báo cáo loại này về kỹ thuật là không được phép rời khỏi trụ sở cảnh sát. Nó một lần nữa chứng minh cho cái lý thuyết nói rằng không có hệ thống an ninh nào địch nổi được một nhân viên ngu ngốc. Qua máy tính của Ekstrom cô lượm được vài mẩu thông tin quan trọng. Thứ nhất, cô phát hiện thấy Armansky đã phân công cho hai người của ông tham gia không công vào nhóm điều tra của Bublanski, như vậy thực tế là An ninh Milton đang đỡ đầu cho việc cảnh sát săn lùng cô. Nhiệm vụ của hai người là giúp sức bắt Salander bằng mọi cách có thể. Cảm ơn lắm nha, Armansky. Tôi nhớ đấy nha. Khi thấy hai người là ai, cô cau mày. Cô coi Bohman như người thẳng ruột ngựa và ông đối xử với cô hoàn toàn tao nhã. Hedstrom thì là một gã sa đọa không ra gì, khai thác vị trí ở An ninh Milton để lừa tiền một trong các khách hàng của công ty. Salander có một đạo lý phân minh rành mạch. Cô chả chống tí nào lại việc lừa tiền khách hàng của công ty - nghĩ rằng họ đáng bị như thế - nhưng cô, nếu nhận một việc mà cô cam kết giữ bí mật thì cô sẽ không bao giờ vi phạm nó. Salander nhanh chóng phát hiện ra người xì thông tin cho báo chí chính lại là Ekstrom. Điều này đã rõ ràng ở một thư điện tử trong đó ông trả lời các câu hỏi truy tiếp về cả bản báo cáo tâm thần của Salander lẫn mối quan hệ giữa cô và Miriam Wu. Mẩu tin có ý nghĩa thứ ba là tình hình nhóm Bublanski không biết một chút nào hết về chỗ họ cần tìm Salander. Cô lý thú đọc những biện pháp nào đã được đem dùng và những địa chỉ nào đã được đặt vào chế độ kiểm soát lỏng lẻo. Đó là một danh sách ngắn. Lundagatan, dĩ nhiên, nhưng cả địa chỉ của Blomkvist, địa chỉ cũ của Miriam Wu ở St Eriksplan và Kvarnen, nơi người ta đã thấy hai cô bên nhau. Sao ta lại phải dây vào Miriam? Sai lầm quá. Thứ Sáu, nhóm của Bublanski cũng đã tìm ra mối liên hệ với Những Ngón tay Ma quỷ. Cô nghĩ như thế có nghĩa là nhiều địa chỉ nữa sẽ bị thăm viếng. Cô cau mày. Vậy là các cô gái trong nhóm cũng sẽ tan biến đi khỏi vòng bè bạn của cô tuy từ ngày trở về Thụy Điển cô chưa hề tiếp xúc với họ. Càng nghĩ về tất cả các chuyện này cô càng thấy bối rối. Ekstrom đã xì ra đủ thứ thượng vàng hạ cám cho báo chí. Mục tiêu của ông ta đã rõ. Ông đang xây dựng tên tuổi và vào ngày ông ban lệnh chống cô thì ông làm lễ thi công cho công trình này. Nhưng tại sao ông không xì ra bản báo cáo năm 1991, bản báo cáo đã dẫn cô tới chỗ bị khóa, bị trói ở bệnh viện Thánh Stefan. Sao lại giấu đi câu chuyện này? Cô lại trở lại máy tính của Ekstrom, soi xét từng tư liệu. Cô châm thuốc hút khi đã đọc xong hết. Cô không tìm thấy qua một quy chiếu nào tới các sự kiện của năm 1991 trong máy tính của ông. Chuyện này lạ, nhưng chỉ có thể giải thích được rằng ông không biết đến bản báo cáo đó của cảnh sát. Trong một lúc cô như thất thần. Rồi cô nhìn vào máy tính PowerBook của cô. Đây chính là cái thứ mà tay Kalle Ba Láp Blomkvist này có thể sẽ ngoạm sâu vào đây. Cô mở lại máy tính để vào ổ cứng của anh và tạo một tư liệu [MB2]. Công tố viên E. xì tin cho báo chí. Hỏi ông tại sao không xì bản báo cáo của cảnh sát. ------- Thế là đủ để cho anh ta nổ máy rồi. Cô ngồi kiên nhẫn chờ hai giờ cho Blomkvist vào mạng. Anh đọc email của anh và phải mất mười lăm phút anh mới nhận thấy có tư liệu của cô và lại phải thêm năm phút nữa anh mới hồi đáp được bằng một tư liệu [Bí ẩn]. Anh không cắn câu. Thay vì vậy, anh lại nài rằng anh muốn biết ai đã giết bạn của anh. Cái lý này Salander hiểu được. Cô cho mềm đi đôi chút và trả lờí bằng [Bí ẩn 2]. Nếu là tôi thật thì anh làm gì? ------- Câu này ngụ ý là một câu hỏi riêng tư. Anh trả lời bằng [Bí ẩn 3]. Nó làm cô cảm động. Lisbeth, nếu đúng thế, thì như họ đang nói là cô đã đi vượt khỏi ngưỡng, và vậy thì cô có thể nhờ Peter Teleborian giúp. Nhưng tôi không tin cô giết Dag và Mia. Tôi hy vọng và cầu xin là tôi đúng. Dag và Mia sắp xuất bản tường trình của họ về buôn bán tính dục. Tôi nhận thấy cái đó có thể là nguyên nhân của vụ án mạng. Nhưng tôi chả có gì hết để đi tiếp nữa. Tôi không hiểu đã có gì không phải giữa hai chúng ta, nhưng đã một lần chúng ta bàn về tình bạn. Tôi nói tình bạn xây dựng trên hai cái - tôn trọng và tin cậy. Cho dù không ưa tôi, cô vẫn có thể dựa vào tôi và tin tôi. Tôi không chia sẻ bí mật của cô với bất cứ ai. Ngay cả đến chuyện xảy ra với các tỉ bạc ở Wennerstrom. Tin tôi, tôi không là kẻ thù của cô. M. ------- Thoạt tiên cô cáu điên lên vì Blomkvist nhắc đến Teleborian. Rồi cô nhận ra thấy anh chưa thử mở một trận đấu. Anh không biết Teleborian là ai và anh chắc chỉ thấy hắn trên tivi, nơi ông tình cờ đến như một chuyên gia có trách nhiệm, được quốc tế kính trọng. Nhưng điều làm cho cô thực sự choáng là việc Blomkvist nhắc tới các tỉ curon của Wennerstrom. Cô không biết anh làm sao moi ra được thông tin này. Cô chắc chắn tuyệt đối rằng cô không hề phạm sai sót và không ai trên thế giới này lại có thể biết được cái việc cô đã làm. Cô đọc đi đọc lại bức thư mấy lần. Việc nhắc tới tình bạn làm cho cô không dễ chịu. Cô không biết nên đáp lại chuyện đó như thế nào. Một lúc sau cô tạo [Bí ẩn 4]. Tôi sẽ nghĩ đến điều đó. ------- Cô tắt máy tính ra ngồi ở ghế bên cửa sổ. Kho hậu cần pan pizza cũng như vụn bánh mì và cái vỏ pho mát cuối cùng đã hết sạch mấy hôm rồi. Ba ngày vừa qua cô sống sót bằng một gói yến mạch ăn liền mà cô nổi cơn lên mua với cái ý lơ mơ rằng cô cần ăn thêm thực phẩm có nhiều dinh dưỡng hơn. Cô phát hiện thấy một cốc yến mạch, một ít nho khô cô đổ vào một cốc nước rồi cho vào lò vi sóng, một phút sau đã hóa ra thành một suất cháo đặc nóng sốt ngon miệng. Không phải chỉ vì thiếu thực phẩm mà cô động binh. Cô có chuyện phải tìm. Không may nó lại không là thứ mà cô có thể làm được trong khi vẫn rúc ở trong nhà. Cô đến tủ đứng lấy ra bộ tóc giả màu vàng và hộ chiếu Na Uy của Irene Nesser. Quý cô Nesser không có thật trong đời. Cô có bề ngoài giống Salander và cô đã đánh mất hộ chiếu ba năm trước. Nhờ Dịch Bệnh, nó đã đến tay cô và khi cần đến cô đã dùng căn cước Nesser trong gần mười tám tháng qua. Cô tháo khoen ra khỏi lông mày, để nó lên đồ trang điểm ở gương buồng tắm. Cô mặc quần jean sẫm màu, một áo thun ấm áp màu nâu với một chút chấm phá màu vàng, đi bốt có đế. Cô có cả một thùng bình xịt Mace và lấy ra một bình con con. Cô cũng tìm khẩu súng bắn điện mà cô chưa đụng đến một năm nay rồi cắm nó vào ổ điện cho sạc. Cô để một bộ quần áo thay vào ba lô đeo vai. 11 giờ đêm thứ Sáu, chín ngày sau các vụ án mạng, Salander rời căn nhà của cô ở Mosebacke. Cô đi bộ đến nhà McDonalc’s trên đường Hornsgatan. Ở đây có vẻ như cô ít tình cờ vồ phải một bạn đồng nghiệp cũ nào ở An ninh Milton ở chỗ gần Slussen hay Medborgarplatsen. Cô ăn một bánh Mac Bự và uống một lon đại Coke. Cô lên xe bus số 4 ngang qua Vasterbron sang St Eriksplan. Cô đi bộ tới Odenplan rồi đúng sau nửa đêm thì thấy mình ở ngoài cửa chung cư của Bjurman trên đường Upplandsgatan. Cô tin rằng tòa nhà không bị theo dõi nhưng cô nhìn thấy ánh đèn trong cửa sổ một căn hộ ở cùng tầng cho nên cô đi bộ đến Vanadisplan. Một giờ sau, lúc cô quay lại, ánh đèn đã tắt. Cô nhón đầu ngón chân lên gác, không bật đèn. Cô cắt băng dán của cảnh sát niêm phong căn hộ bằng con dao Stanley, mở cửa khẽ như tờ. Cô bật đèn gian sảnh, cô biết bên ngoài không nhìn thấy ánh đèn này, rồi bật một cây bút đèn pin để vào buồng ngủ. Các bức rèm chớp đều đã được hạ xuống cả. Cô lia loang loáng tia sáng đèn lên chiếc giường ố máu. Cô nhớ cô đã suýt chết trên chiếc giường này và thình lình cảm thấy rất hài lòng rằng Bjurman đã ra khỏi cuộc đời của cô mãi mãi. Cô đến đây thăm hiện trường gây án là để tìm trả lời cho hai câu hỏi. Thứ nhất, cô không biết quan hệ giữa Bjurman và Zala. Cô đinh ninh rằng có nhưng qua những gì tìm thấy ở máy tính của Bjurman thì cô không thể giải đáp được điều này. Thứ hai là một câu hỏi cứ gậm nhấm day dứt cô. Trong lần thăm đêm ít tuần trước, cô để ý thấy Bjurman đã lấy đi tư liệu về cô ở một cặp hồ sơ, nơi ông ta giữ tất cả tài liệu về sự giám hộ của ông. Các trang bị mất là bản báo cáo vắn tắt của cái công ty đã làm chuyện tổng kết tình trạng tâm thần của Salander. Bjurman không còn cần đến các trang đó nữa và có thể ông đã thanh toán hồ sơ và vất bỏ nó đi rồi. Nhưng luật sư thường không bao giờ vất bỏ tài liệu liên quan đến một trường hợp chưa giải quyết xong. Mà các giấy tờ này đã từng ở tệp hồ sơ liên quan đến cô, nhưng cô không tìm thấy chúng ở bàn làm việc của ông ta hay bất cứ đâu gần đó. Cô thấy cảnh sát đã thu dọn đi các hồ sơ xử lý trường hợp của cô cũng như một vài thứ khác. Cô bỏ thêm hai giờ nữa ra tìm kiếm từng li từng tí khắp căn hộ, biết đâu cảnh sát để sót lại cái gì. Nhưng cuối cùng cô kết luận họ không để sót lại cái gì cả. Trong bếp cô tìm thấy một ngăn kéo đựng các thứ chìa khóa cũng như một chìa chung của chung cư, một chìa khóa móc cho tới khi tìm thấy chỗ tàng kho của Bjurman. Trong đó có ít đồ gỗ, một tủ đầy quần áo cũ, ván trượt tuyết, một ắc quy xe hơi, các thùng các tông để sách và vài ba đồ bà dằn khác. Cô không phát hiện ra cái gì đáng chú ý cho nên xuống gác, mở cửa vào ga ra xe bằng chiếc chìa chung. Cô lần mò ra chiếc Mercerdes của ông rồi sau ít phút cũng không tìm thấy gì đáng giá ở đó nốt. Cô không ngại đến văn phòng của Bjurman. Lần đến căn hộ này ít tuần trước, cô vừa mới đến đó và cô biết trong hai năm qua ông ta ít đến văn phòng. Salander quay về căn hộ của Bjurman, ngồi nghĩ ngợi trên sofa. Một lúc cô đứng lên đi lại ngăn kéo chìa khóa trong gian bếp. Cô nghiên cứu từng chiếc chìa một. Một bộ chìa thuộc về ổ khóa cửa trước và khóa chết cứng, nhưng một chìa khác thì đã gỉ và kiểu cổ. Cô cau mày. Rồi cô ngước mắt lên một ngăn giá bên trên quầy bếp, ở đó Bjurman để khoảng hai chục gói hạt cây, các hạt dùng cho vườn cỏ. Lão có một căn nhà gỗ nhỏ để nghỉ hè. Hay một miếng đất ở đâu đó. Mình quên mất chỗ này. Cô mất ba phút tìm ra một biên lai, lâu đã sáu năm ở trong quyển sách thu chi cho biết ông đã trả công sửa xe, lại một ít phút nữa để tìm ra một sổ bảo hiểm cho một bất động sản ở gần Stallarholmen bên ngoài Mariefred. 5 giờ sáng, cô dừng lại ở cửa hàng 7 - Eleven mở cửa 24 giờ tại chóp đỉnh của Hamtverkargatan mạn trên gần Fridhemsplan. Cô mua một ôm bánh pan pizza, ít sữa, bánh mì, pho mát và một vài món chủ yếu khác. Cô cũng mua một tờ báo sáng với một đầu đề làm cô ngẩn ra. NGƯỜI PHỤ NỮ BỊ TRUY NÃ ĐÃ TRỐN RA NƯỚC NGOÀI? Vì lý do nào đó tờ báo không nêu tên cô ra. Thay vào đó, cô được gọi là “người phụ nữ 26 tuổi”. Bài báo nói một nguồn tin từ cảnh sát cho hay cô ta có thể đã trốn ra nước ngoài và hiện có thể đang ở Berlin. Có vẻ cảnh sát đã nhận được tin mảnh mách rằng người ta đã trông thấy cô ở Kreuzberg, trong một “câu lạc bộ giải phóng phụ nữ - vô chính phủ”, cô được miêu tả là đã tụ bạ với đám trẻ liên kết với mọi thứ từ khủng bố tới chống toàn cầu hóa và tôn thờ Satan. Salander lên xe bus số 4 về Sodermalm, xuống xe ở Rosenlundsgatan rồi đi bộ về nhà ở Mosebacke. Cô pha cà phê, làm một sandwich, xong xuôi thì đi ngủ. Cô ngủ một mạch cho tới chiều. Khi tỉnh dậy, cô đánh giá tình hình vệ sinh trong nhà, kết luận lẽ ra đã phải thay chăn gối, khăn rải giường. Cô bỏ cả tối thứ Bảy dọn dẹp căn hộ. Cô mang thùng rác ra và nhặt nhạnh báo chí vào hai túi nhựa, đặt chúng vào một cái tủ ở lòng giếng cầu thang. Cô gom một đống quần áo lót và áo phông để giặt rồi một đống quần jean. Cô xếp đầy bát đĩa vào máy rửa bát và bật máy. Rồi cô hút bụi và lau sàn nhà. Đến 9 giờ tối thì mồ hôi tong tỏng trên người cô. Đổ đầy xà phòng tạo bọt vào bồn tắm, cô nằm dài ra nhắm mắt nghĩ lơ ma lơ mơ. Cô tỉnh dậy lúc nửa đêm, nước đã lạnh. Bò ra khỏi bồn tắm, lau khô người mò về giường lăn quay ra ngủ. Sáng Chủ nhật, mở máy tính đọc thấy tất cả các trò ngu ngốc viết về Miriam Wu, Salander tức điên tức cuồng. Cô thấy mình thật tệ và có lỗi. Và tội ác của Miriam chỉ vì là chỗ quen biết của... Salander? Bạn? Người yêu sao? Cô hoàn toàn không biết chữ gì là thích đáng nhất để tả ra mối quan hệ của cô với Mimmi, nhưng cô nhận ra thấy bất kỳ chữ nào mà cô chọn thì quan hệ ấy chắc chắn cũng đã là chấm hết. Cô sẽ phải giập thêm một cái tên ra khỏi cô, giảm bớt đi nhanh chóng danh sách các chốn quen biết của cô. Điều đó dẫu sao cũng đã viết lên trên báo chí, cô không thể tưởng tượng được bạn cô sẽ lại còn muốn dính dáng chút gì nữa với một Salander tâm thần kia. Cô khùng lên vì chuyện này. Cô ghi vào đầu cái tên Tony Scala, tay nhà báo đã khơi mào ra tất cả, cũng quyết định một ngày sẽ đối mặt với tay phụ trách chuyên mục xấu xa đã được in hình với một chiếc jacket kẻ ô cờ, hắn có một bài báo nhắc đi nhắc lại cái tên gọi giễu cợt Mimmi là “con ô môi S&M”. Số lượng người Salander cần xử lý cứ lớn lên. Nhưng trước hết cô phải tìm Zala. Điều gì xảy ra khi cô gặp hắn, cô không biết. Blomkvist bị điện thoại gọi dậy lúc 7 rưỡi sáng Chủ nhật. Anh thò tay cầm lấy máy và ngái ngủ trả lời. - Chào. - Berger nói. - Ừm. - Mikael nói. - Một mình hay có ai? - Không may là một mình. - Vậy thì em gợi ý là đi tắm một cái rồi uống một chút cà phê. Mười lăm phút nữa anh có khách. - Ai? - Paolo Roberto. - Tay đấm bốc? Vua các vị vua ấy à? - Anh ấy đã gọi em và nói chuyện nửa giờ. - Sao lại ra thế? - Sao lại gọi em ư? À, bọn này quen nhau đủ để chào nhau hê-lô, em đã phỏng vấn anh ấy khi anh ấy đóng trong phim của Hildebrand, và trong mấy năm qua cũng có ít lần vập phải nhau. - Anh không biết chuyện đó. Nhưng anh hỏi là tại sao lại đến thăm anh? - Tại vì... nhưng thôi, tốt hơn là để anh ấy tự nói rõ. Blomkvist chỉ kịp vừa tắm và mặc quần xong thì chuông cửa réo. Anh mở cửa, bảo võ sĩ quyền Anh ngồi vào bàn trong khi anh tìm một sơ mi sạch sẽ và pha hai cà phê espresso đúp mà anh cho vào một thìa sữa. Paolo Roberto ngắm tách cà phê, hơi bị ấn tượng. - Anh muốn nói chuyện với tôi? - Blomkvist nói. - Erika Berger gợi ý cho tôi. - Tôi hiểu. Anh nói đi. - Tôi biết Lisbeth Salander. Blomkvist nhướng lông mày. - Anh biết? - Thấy Erika nói anh biết cô ấy, tôi cũng khá ngạc nhiên. - Tôi thấy tốt nhất là anh bắt đầu nói từ đầu. - OK. Chuyện thế này. Sau một tháng ở New York tôi về nhà vào ngày hôm kia và thấy ảnh của Lisbeth trên tất cả các tờ báo mẹ nó trong thành phố. Báo viết một lô các chuyện mẹ nó bậy bạ về cô ấy, và không có đứa mẹ nó nào nói được cho một lời hay hay về cô ấy. - Anh mới nổ mà đã ba lần “mẹ nó” rồi đấy. Paolo Roberto cười thành tiếng. - Xin lỗi. Tôi thực sự không nhịn được. Thật ra gọi Erika là vì tôi cần nói mà không biết gọi ai. Do nhà báo bị chết ở Enskede làm cho Millennium mà do tôi tình cờ lại biết Erika, thế là tôi gọi cô ấy. - Vậy rồi? - Cho dù Salander có bị mất trí hoàn toàn mà làm các thứ cảnh sát nói là cô ấy làm thì cô ấy cũng phải có được cơ hội chứ. Chúng ta tình cờ có pháp luật ở cái đất nước này, không ai bị kết tội mà lại không được có ngày ra cãi trước tòa sất cả. - Tôi cũng tin như thế. - Tôi biết điều đó qua Erika. Khi tôi gọi cô ấy, tôi nghĩ dân ở Millennium cũng đang đuổi theo Lisbeth để róc da đầu cô ấy đây, xét vì tay Svensson kia đang viết cho anh. Nhưng Erika nói anh khẳng định Salander vô tội. - Tôi biết Lisbeth. Tôi thấy cô ấy không thể nào là một kẻ điên loạn giết người được. Paolo Roberto cười tướng lên: - Cô ấy là một con gà con mẹ nó đồng bóng... nhưng là một người tốt. Tôi khoái cô ấy. - Sao anh biết cô ấy? - Tôi đấm bốc với cô ấy khi cô ấy mới mười bảy. Blomkvist nhắm mắt một lúc ngắn rồi mở ra nhìn nhà vô địch quyền Anh. Salander luôn luôn đầy bất ngờ như vậy. - Dĩ nhiên Salander đấm với Paolo Roberto. Cùng một hạng với nhau. - Tôi không nói đùa. - Tôi tin anh chứ. Cô ấy một lần bảo tôi cô ấy dùng đấm để đấu với đám trẻ ở một câu lạc bộ quyền Anh nào đó. - Để tôi nói anh nghe chuyện xảy ra làm sao. Mười năm trước, tôi làm huấn luyện viên cho đám thanh thiếu niên muốn đánh bốc ở câu lạc bộ Zinken. Lúc ấy tôi đã có tên tuổi, người đứng đầu đám thanh thiếu niên của câu lạc bộ nghĩ tôi sẽ có sức lôi cuốn lớn cho nên chiều chiều tôi đến đánh đấm với bọn trẻ. Quay ra thế nào tôi ở lại đấy hết hè và cả một phần mùa thu nữa. Họ mở một chiến dịch, dán biểu ngữ bích chương lên đủ thứ, cố dụ đám trẻ con địa phương tập quyền Anh. Họ đã thu hút được nhiều đứa trẻ mười lăm mười sáu và cả một số nhiều tuổi hơn nữa. Hoàn toàn là những trẻ con nhà di dân. Đấm bốc là một trò dễ dạy và dễ làm rầm rầm lên. Hỏi tôi đi. Tôi biết mà. - Tôi tin anh. - Rồi một hôm, giữa mùa hè, cô gái xương xẩu này ở đâu thòi ra không biết nữa. Anh biết cô ấy nom thế nào chứ, đúng không? Cô ấy đến câu lạc bộ nói muốn học bốc. - Tôi hình dung ra được khung cảnh. - Cả đám non chục đứa trẻ nặng cân gấp đôi và lớn nhiều hơn cô gái cười ầm lên. Tôi cũng cười. Chẳng phải chuyện nghiêm túc mà là đùa cô ấy một tí. Chúng tôi cũng có một lớp cho con gái và tôi đã nói một cái gì ngu ngốc rằng bọn gà nhép chỉ được phép đấu vào các thứ Năm hay đại khái tương tự gì đó. - Cá là cô ấy không cười. - Đúng, không cười. Cô ấy nhìn tôi trừng trừng với đôi mắt đen láy. Rồi cô ấy nhặt đôi găng bốc ai vất ở quanh đó. Đôi găng không buộc thì phải và to quá cỡ tay cô ấy. Nhưng chúng tôi không cười nữa. Anh biết ý tôi nói gì chứ? - Nghe không thấy hay. Paolo Roberto lại cười. - Vì mình là huấn luyện viên nên tôi đi tới làm ra vẻ như đánh cô ấy, anh biết đấy, để nắn gân mà. - Ái chà... - Đúng. Bất thình lình cô ấy quất cho tôi một cú vào giữa mặt. Tôi vừa mới đùa cô ấy và không hề chuẩn bị. Cô ấy làm liền cho hai ba quả nữa tôi mới kịp chặn lại. Muốn gì thì cô ấy không có thể lực cho nên đánh cũng như bằng lông thế thôi. Nhưng khi tôi chặn lại thì cô ấy thay đổi chiến thuật. Cô ấy bốc theo bản năng, đấm trúng thêm vài quả nữa. Rồi tôi tập trung chặn đỡ và phát hiện thấy cô ấy nhanh hơn mẹ nó con thằn lằn. Nếu cô ấy to hơn, khỏe hơn, tôi đã có một ván đấu bữa ấy. - Tôi không lạ. - Rồi cô ấy lại đổi chiến thuật và quạng cho tôi một cú trúng ngay chỗ hiểm. Cú này thì tôi ngấm đòn. Blomkvist ngượng nghịu cau mặt. - Rồi tôi đánh lại, trúng mặt cô ấy. Tôi muốn nói là không hẳn là một cú đấm mạnh hay gì đó mà chỉ là một cái độp nhẹ. Rồi cô ấy đá vào tôi. Muốn gì thì là hoàn toàn ngông rồ rồi. Tôi to gấp ba, nặng gấp ba và cô ấy chả có cơ may nào vậy mà cô cứ uýnh tôi tựa như mạng sống của cô ấy nó trông chờ ở đấy vậy. - Anh đã chọc giận cô ấy. - Sau tôi mới nhận ra. Và tôi xấu hổ. Tôi muốn nói là chúng tôi rong cờ gióng trống, thượng biểu ngữ bích chương để cố hút đám trẻ vào thì đây cô ấy đến xin học đánh nghiêm túc và rồi cô ấy lại đâm sầm phải một đám đàn ông đàn ang đứng đó trêu đùa cô ấy. Bị đối xử như thế tôi cũng mất kiềm chế như cô ấy thôi. - Nhưng ta phải nghĩ kỹ rồi hãy uýnh chác với Paolo Roberto chứ! - À, vấn đề của Salander là quả đấm không mùi mè gì. Cho nên tôi bắt đầu tập với cô ấy. Chúng tôi cho cô ấy vào lớp con gái trong chừng hai tuần, cô ấy thua dăm ba ván vì sớm muộn thì một người nào đó cũng sẽ ăn đòn thôi, lúc ấy chúng tôi như kiểu dừng lại đưa cô ấy đến một phòng có khóa, vì cô ấy khùng đến nỗi bắt đầu cả đá lẫn cắn, cứ đánh vung bọn tôi lên. - Nghe ra thì đúng chất Lisbeth đấy. - Cô ấy không bao giờ bỏ cuộc. Nhưng cuối cùng cô ấy làm quá nhiều đứa con gái ngán ngẩm nên huấn luyện viên đá cô ấy ra. - Rồi thì? - Hoàn toàn không thể đấu bốc với cô ấy. Cô ấy chỉ có mỗi phong cách mà chúng tôi gọi là Phương thức của Kẻ Tiêu diệt. Cô ấy cứ là cố chẹn cứng đối phương lại, bất kể đó là khởi động hay đấu giao hữu. Đám con gái về nhà đều bị băng bó vì bị cô ấy đá. Lúc ấy tôi bèn có một ý. Tôi có chuyện với một thằng tên là Samir. Nó mười bảy, ở Syrie đến. Tay bốc tốt, người tập tành vạm vỡ, nó có quả đấm táp mặt tốt... nhưng nó lại không di chuyển được. Nó cứ đứng im suốt trận. Thế là tôi bảo Salander đến câu lạc bộ một buổi chiều vào lúc tôi đang dạy Samir. Cô ấy thay quần áo và lên đài với cậu ta, mũ bảo vệ đầu, che miệng đủ lệ bộ. Thoạt đầu Samir không chịu đánh vì cô ấy như mẹ nó “con gà nhép”, nó phun ra tất cả các lời lẽ bố láo của bọn ta đây đàn ông thường dùng. Tôi bèn bảo cậu ta, nói to cho ai cũng nghe thấy, đây không là trận đấu và tôi đặt giải 500 curon là cô ấy sẽ chẹt cứng khư được cậu ta. Với Salander thì tôi nói đây không là buổi tập và Samir có thể đánh cô sứt đầu mẻ trán máu me đầm đìa. Cô ấy nhìn tôi không tin. Samir còn vẫn đứng đó bô lô ba la thì chuông réo. Lisbeth hiên ngang đi đến đấm một quả vào mặt cậu ta, khiến cậu ta ngã phệt đít xuống. Đến lúc này tôi dạy cô ấy đã cả một mùa hè rồi, cơ bắp cô ấy đã bắt đầu cứng cáp và quả đấm đã có một ít sức lực. - Tôi cá là chàng trai người Syrie của anh thích. - À, sau đó cả tháng liền bọn họ vẫn còn nói đến trận đánh tập này. Samir bị rách môi. Cô ấy thắng điểm, cô ấy có sức lực, hơn nữa cô ấy thực sự có thể làm cho cậu ta bị thương. Sau đó Samir thất vọng quá đến nỗi cậu ta bắt đầu đánh vung lên thật lực. Tôi sợ chết lên vì cậu ta có thể giáng cho một thôi và chúng tôi phải gọi xe cứu thương đến. Cô ấy bị vài vết bầm tím khi chặn vài cú đánh bằng vai, còn cậu ta thì muốn dồn cô ấy vào dây thừng quanh đài vì cô ấy không chịu nổi sức mạnh cậu ta đấm. Nhưng đúng là không có chỗ nào mà bảo được rằng cậu ta đã suýt đánh trúng cô ấy. - Giá mà tôi được xem trận ấy. - Hôm ấy đám con trai câu lạc bộ bắt đầu vị nể Salander. Và đặc biệt Samir. Thế là tôi bắt đầu đưa cô ấy lên đài đánh đấm với bọn lớn hơn, nặng hơn rất nhiều. Ấy là vũ khí bí mật của tôi và đó là cách tập luyện lớn. Chúng tôi bố trí các lớp sao cho mục tiêu của Salander là quạng trúng được năm quả vào các chỗ khác nhau trên cơ thể - hàm, trán, dạ dày... Bọn con trai đấu với cô phải tự vệ và phải chống đỡ ở các chỗ đó. Hóa ra đấu bốc với Salander lại thành ra một thứ gây dựng tên tuổi. Y như chơi nhau với một con ong vò vẽ vậy. Chúng tôi thật lòng gọi cô ấy là “vò vẽ”, cô ấy trở thành tay đấu cưng của câu lạc bộ. Tôi nghĩ cô ấy cũng thích câu lạc bộ vì một hôm cô ấy đến tập, cổ có xăm một con ong vò vẽ. Blomkvist mỉm cười. Anh nhớ khá rõ con vò vẽ. Nó là một phần miêu tả của cảnh sát về cô. - Việc ấy kéo dài được bao lâu? - Mỗi tuần một tối trong ba năm. Ở đấy tôi chỉ làm trọn thời gian trong mùa hè còn sau đó thì thưa thớt. Người huấn luyện tiếp Salander là huấn luyện viên trẻ Putte Karlsson. Rồi Salander đi làm, không thường xuyên đến nữa, nhưng tới năm ngoái thì cô ấy ở đấy ít nhất một tháng một lần. Một năm tôi gặp cô ấy vài lần và có những buổi tập đấu với cô ấy. Tập tử tế, sau đó cả hai đều đổ mồ hôi. Cô ấy ít nói chuyện với ai. Khi không tập đấu thì cô ấy tập trong hai giờ với túi nặng, tập hết cường độ tựa hồ nó là kẻ thù của cô ấy vậy.