ường Phong nghỉ ngơi một ngày ở Quảng Châu, sáng ngày 20 tháng 6 anh đặt chân tới Hồng Kông. Ra khỏi sân bay quốc tế Hồng Kông, tắc xi chở Đường Phong lao thẳng tới nhà tang lễ Hồng Kông số 679 đường Anh Hoàng, Bắc Giác đảo Hồng Kông. Khi Đường Phong tới nơi, tiền sảnh nhà tang lễ đã đông kín những nhân vật quan trọng trong giới chính trị, những tinh anh của giới doanh nghiệp, bạn bè thân hữu gần xa tới tham dự tang lễ của Lương Vân Kiệt. Đường Phong không biết mình được coi là gì của Lương Vân Kiệt, vì anh chỉ mới tiếp xúc với ông có vài lần, thời gian gặp mặt cộng lại cũng không quá một tiếng đồng hồ, nhưng lại là người tận mắt chứng kiến ông bị đâm chết trong con ngõ mưa… Trong Lễ đường Cơ Ân, tiếng nhạc đám ma trầm buồn vang vọng, một bức di ảnh rất lớn của Lương Vân Kiệt treo cao trong điện, Đường Phong theo dòng người chầm chậm tiến vào lễ đường, cúi vái ba vái trước di ảnh. Người nhà của Lương Vân Kiệt đứng bên cạnh cảm tạ, Đường Phong chú ý thấy, người đàn ông trung niên đầu tiên đứng bên trái di ảnh, tuy chít khăn tang, nét mặt u sầu, nhưng không che giấu được sự tinh anh trên khuôn mặt, xem ra quả là một nhân sỹ có sự nghiệp thành đạt. Khỏi phải hỏi, đây chắc chắn là con trai của Lương Vân Kiệt, chủ tịch hội đồng quản trị đương nhiệm của tập đoàn Tân Sinh Hồng Kông – Lương Dũng Tuyền. “Xin đừng quá đau buồn!” - Đường Phong và Lương Dũng Tuyền bắt tay nhau, đây là một đôi tay rắn chắc nhưng cũng rất thô ráp, Đường Phong trong lòng kinh ngạc, Lương Dũng Tuyền được nuôi dưỡng trong một môi trường đầy đủ điều kiện, sao lại có đôi tay thô ráp như vậy? Lương Dũng Tuyền nhìn Đường Phong, vẻ mặt trấn tĩnh, đáp lời cảm ơn. Đường Phong nhanh chóng theo dòng người rời khỏi nhà tang lễ. Ra đến bên ngoài, Đường Phong thở phào một hơi, xem ra cho tới lúc này, hành động của anh cũng được coi là thuận lợi! Đường Phong vừa bước đi vô định trên vỉa hè dành cho người đi bộ, vừa tính toán xem làm cách nào để tới gặp được Lương Dũng Tuyền. Đương lúc tính toán, Đường Phong bất giác đi vào một con đường nhỏ có phần vắng vẻ, đột nhiên, trước mặt lướt qua một người đàn ông cơ thể tráng kiện mặc bộ vest, đeo kính râm, chặn ngang đường. Người này nói bằng tiếng phổ thông cứng nhắc: “Đường tiên sinh, ông chủ chúng tôi mời ngài đến phủ làm khách, hy vọng ngài có thể ghé qua!” Đường Phong thấy người này cũng khá khách khí, anh định thần, hỏi lại: “Ông chủ của các anh là ai? Hình như ở Hồng Kông tôi không có người quen”. “Đi rồi ngài sẽ biết”. Một chiếc Mercedes lập tức lao tới, đỗ xịch bên cạnh Đường Phong. Hai người đàn ông cao to từ trong xe chui ra, không nói năng gì, xốc nách Đường Phong ấn vào trong xe. Đường Phong ra sức giãy giụa, bỗng thấy một vật lạnh toát, cứng đơ kề sát sau lưng mình, và anh biết đó là – một khẩu súng. “Đừng làm khó chúng tôi, chúng tôi chỉ thực thi theo mệnh lệnh” - Người cầm súng cục cằn đe dọa Đường Phong. Đường Phong bị kẹp lên xe, chiếc Mercedes lao như bay xuyên qua những con đường lớn nhỏ trên đảo Hồng Kông, chẳng mấy chốc, đã tới núi Thái Bình. Trong vòng bốn ngày, Đường Phong đã bị hai nhóm người ép lên xe, lần trước là hội Triệu Vĩnh, lần này lại là hội nào đây? Là hội đâm chết Lương Vân Kiệt, mưu sát Lâm Hải tại Quảng Châu? Hay là… nếu đúng là hội người đó, mình sẽ rắc rối đây! Trên đường đi, Đường Phong không rối bời trong những suy nghĩ, mãi cho tới khi chiếc Mercedes dừng lại trước cửa một biệt thự sang trọng trên núi Thái Bình. Mấy người cao to dẫn Đường Phong vào một phòng sách rồi lui ra, Đường Phong tiến lại đẩy cửa phòng để sách đi ra thì phát hiện cửa phòng đã bị khóa bên ngoài. Đường Phong quay người lại quan sát căn phòng này. Phòng sách rất lớn, trang trí nội thất xa xỉ, tấm rèm cửa dày cộm được kéo lên không để ánh sáng lọt vào, hai chùm đèn soi sáng toàn bộ phòng sách, Đường Phong bước tới cạnh bàn đọc sách, phát hiện trên chiếc bàn sang trọng này, ngoài hai tờ báo của ngày hôm nay ra, chỉ có một khung ảnh. Anh cầm khung ảnh lên chăm chú nhìn, trong khung ảnh là một tấm ảnh thiếu nữ. Khuôn mặt thiếu nữ trên tấm ảnh khá xinh xắn, điềm tĩnh tự nhiên, nhưng không mất đi vẻ quyến rũ. Đường Phong chăm chú ngght:10px;'>
Giáo sư La đọc tới đây rồi im bặt. Lương Viện thúc giục: “Giáo sư, sao ông không đọc tiếp ạ?” “Hết rồi, ông đã đọc hết rồi.” “Cái gì? Phần chữ chính chỉ có mấy chữ này thôi sao?”, mọi người vô cùng thất vọng. “Đúng vậy, phần chữ chính của kệ tranh ngọc này chỉ có 21 chữ”. Đường Phong nghe mấy câu chữ Tây Hạ mà giáo sư La phiên dịch, bỗng nhiên kinh ngạc: “Mấy… mấy câu này hình như tôi đã được nghe qua, đúng rồi, chính là bảy bức thư đó, thư của viện sỹ Alekseev viết cho Menshikov, ở cuối bức thư đó, Alekseev đột nhiên viết thêm một đoạn, nói rằng năm đó, trước khi Ivanovich Ivanov chết, đã từng nhắc tới mấy câu thơ, chính là mấy câu này”. “Đúng! Đường Phong, khi tôi phiên dịch ra mấy câu này, tôi cũng đã rất ngạc nhiên, điều đó cho thấy năm đó Ivanovich Ivanov đã từng giải mã được mấy câu thơ này, đáng tiếc sau đó ông đã qua đời, không thể tiếp tục nghiên cứu được nữa”. “Vậy bài thơ đó nghĩa là gì nhỉ? Có liên quan gì tới kệ tranh ngọc?” - Đường Phong hỏi. “Câu thơ này thuật lại địa điểm mà chắc là thời kỳ đầu người Đảng Hạng đã từng sinh sống, ‘bạch cao hà’, tôi cho rằng đó là chỉ lưu vực Bạch Hà thuộc tây bắc Tứ Xuyên hiện nay, đây vốn là nơi tụ tập sinh sống của người Đảng Hạng thời kỳ đầu, còn Hắc Đầu Thạch Thất rất có khả năng chính là nơi cất giấu một trong ba kệ tranh ngọc còn lại. Nếu như suy đoán của tôi đều chính xác thì sẽ có ý nghĩa học thuật vô cùng trọng đại đối với việc viết lại toàn bộ lịch sử Tây Hạ.” - Có thể nhận thấy, giáo sư La đã cất cao giọng khi nói tới đây. “Nói như vậy, tìm thấy Hắc Đầu Thạch Thất chính là mục tiêu tiếp theo của chúng ta rồi!” - Triệu Vĩnh vừa nói vừa đưa ánh mắt thăm dò về phía Hàn Giang. Mọi người đều nhìn Hàn Giang, nhưng Hàn Giang vẫn im lặng, và Đường Phong lại là người cất lời: “Các vị, không phải tôi nghi ngờ trình độ nghiên cứu của giáo sư La, nhưng chỉ dựa vào chút chứng cứ hiện giờ liền suy đoán là có bốn kệ tranh ngọc, rồi lại nói Hắc Đầu Thạch Thất gì đấy có cất giấu các kệ tranh ngọc khác, thì tôi vẫn chưa thể tin được. Hơn nữa, chúng ta cũng không biết vị trí cụ thể của Hắc Đầu Thạch Thất này ở đâu thì đi tìm thế nào đây?” Giáo sư La rất bình tĩnh nói: “Tôi đã nói rồi, tất cả những điều này đều chỉ là suy đoán của cá nhân tôi, nhưng cậu hỏi vừa rồi khiến tôi nhớ ra, trên kệ tranh ngọc có một chứng cứ có thể chứng minh cho phán đoán của tôi, có thể các bạn vẫn chưa biết trên kệ tranh ngọc này còn có một chữ Hán”. “Ồ! Trên kệ tranh ngọc có một chữ Hán, sao tôi không nhìn thấy nhỉ?” - Đường Phong tỏ rõ vẻ nghi ngờ. Giáo sư La xoay kệ tranh ngọc chếch đi một chút rồi, chỉ lên vách bên cạnh kệ tranh ngọc và nói với mọi người: “Mời các vị xem, ở đây có một chữ Hán rất nhỏ”. Mọi người quây lại gần hơn, chăm chú quan sát, quả nhiên, tất cả đều nhận ra, trên vách bên cạnh kệ tranh ngọc, có một chữ “Bạch” nho nhỏ. “Chữ ‘Bạch’ này lại nói lên điều gì đây?” - Đường Phong thắc mắc. “Nói lên điều gì? Chữ ‘Bạch’ này thực ra là tên của kệ tranh ngọc!” “Tên? Tên của nó không phải là kệ tranh ngọc nổi gân cổ chạm châu báu Tây Hạ sao?” - Đường Phong cảm thấy đầu óc càng mụ mị hơn trước. “Tôi đã từng nói rồi, tôi suy đoán tổng cộng có bốn kệ tranh ngọc, chỉ tới khi nào ghép bốn kệ tranh ngọc này lại với nhau mới có thể hoàn toàn biết được trên kệ tranh ngọc viết những gì, mới có thể nhìn rõ bản đồ phía sau kệ tranh ngọc. Vậy thì, người chế tác lúc tạo ra bốn kệ tranh ngọc này, nhất định đã đánh số hiệu cho từng kệ tranh ngọc. Chữ ‘bạch’ viết bằng chữ Hán này, chính là số hiệu của kệ tranh ngọc này hoặc là tên của nó: tên gọi đầy đủ của kệ tranh ngọc này chắc phải là: kệ tranh ngọc nổi gân cổ chạm châu báu Tây Hạ tên Bạch”. “Kệ tranh ngọc nổi gân cổ chạm châu báu Tây Hạ tên Bạch? Vậy những kệ tranh ngọc khác thì đánh số hiệu gì đây?” - Đường Phong hỏi. “Hãy nghe tôi từ từ nói, mọi người biết rồi đấy, tên gọi ‘Tây Hạ’ này là tên gọi trong sử thi Hán văn, vốn không phải là quốc hiệu, mà người Đảng Hạng tự đặt. Quốc hiệu mà người Đảng Hạng tự đặt, trong giới học thuật có rất nhiều cách nói khác nhau. Rất nhiều học giả đều cho rằng, người Đảng Hạng tự xưng quốc gia của mình là ‘Đại Bạch Cao Quốc’ hoặc ‘Bạch Cao Đại Quốc’. Còn có một cách nói khác, cho rằng người Đảng Hạng tự xưng quốc gia mình là ‘Bạch Cao Đại Hạ Quốc’, tên gọi này là do học giả nước Nga Evgenij Ivanovich Kychanov nghiên cứu Tây Hạ, căn cứ vào cuốn “Đại tàng kinh Tây Hạ văn” được bảo tồn trong viện bảo tàng nhân loại học tại Stockholm Thụy Điển, phiên dịch từng chữ thành chữ Hán mà có được. Bản thân tôi cũng đồng ý hơn với cách nói này. Lại nói về kệ tranh ngọc trước mặt chúng ta, từ những văn tự khắc trên bề mặt có thể phán đoán, kệ tranh ngọc này chắc là kệ đầu tiên trong bốn kệ tranh ngọc, bởi vì, đối chiếu với bốn chữ ‘Bạch, Cao, Đại, Hạ’ mà tôi suy đoán, ba kệ tranh ngọc còn lại sẽ lần lượt là kệ tranh ngọc chữ ‘Cao’, kệ tranh ngọc chữ ‘Đại’, kệ tranh ngọc chữ ‘Hạ’ ”. Suy đoán của giáo sư La khiến mọi người tăng thêm lòng tin, và dường như đã càng lúc càng cận kề hơn với chân tướng của sự việc. Giáo sư La tiếp tục nói: “Tôi bổ sung thêm một điểm, nếu như chúng ta thực sự tìm ra Hạn Hải Mật Thành, vậy thì ở đó sẽ có gì đây? Kho báu, cái này đương nhiên là có, thậm chí còn có rất nhiều rất nhiều kỳ châu dị bảo, nhưng tôi lại không hứng thú với kho báu. Năm 1908, Coats Ivanov đã phát hiện ra Hắc Thành và đã khai quật với con số lên tới hàng vạn văn vật Tây Hạ. Tôi nghĩ cái Hạn Hải Mật Thành này chắc chắn sẽ to hơn Hắc Thành, còn trọng đại, hoành tráng hơn thì tôi không dám tưởng tượng. Ở đó có thể chôn giấu bao nhiêu di sản văn hóa, làm chấn động thế giới, có lẽ sẽ có một bộ “Đại tàng thư” hoàn chỉnh bằng chữ Tây Hạ, có lẽ sẽ có vô số tượng phật tinh xảo, còn huy hoàng hơn cả Đôn Hoàng vĩ đại, có lẽ còn có rất nhiều những kỳ tích mà chúng ta có nghĩ cũng không nghĩ tới…” - giáo sư La đã không thể giấu được sự hưng phấn, ông đã hoàn toàn say sưa trong Hạn Hải Mật Thành của mình. Cuối cùng, Hàn Giang đứng thẳng dậy, tổng kết với mọi người: “Tôi cho rằng, suy đoán của giáo sư La là hợp tình hợp lý, mục tiêu tiếp theo của chúng ta là bắt buộc phải vượt mặt đối thủ, tìm đủ bốn kệ tranh ngọc, giải mã bí mật của Hạn Hải Mật Thành”. “Nhưng, bước tiếp theo chúng ta phải hành động thế nào đây?” - Đường Phong hỏi Hàn Giang. Hàn Giang không trả lời, giáo sư La lên tiếng: “Muốn tìm kệ tranh ngọc Hắc Đầu Thạch Thất, tôi lại nhớ tới một manh mối. Vào thập niên 20, 30 của thế kỷ trước, nhà thám hiểm người Mỹ Joseph Rock hoạt động sôi nổi tại khu vực phía tây Tứ Xuyên. Rồi vào những năm cuối đời, trong một bài viết của mình, ông đã nhắc tới thông tin sau chuyến khảo sát núi tuyết Minya Konka nằm ở tận cùng tây bắc Tứ Xuyên, do một trận lở bùn đá đáng sợ nên ông đã tới nhầm một đào nguyên ngoại thế. Ở đó non xanh nước biếc, dân chúng hồn hậu, người dân sùng bái đạo Phật, nhưng lại gìn giữ một số lượng lớn phong tục tôn giáo nguyên thủy. Thủ lĩnh địa phương và Lạt ma tiếp đãi Rock vô cùng nhiệt tình, cuối cùng đã dẫn ông ra khỏi đào nguyên bên ngoài nhân gian đó. Rock nhiều năm sinh sống tại Trung Quốc, am hiểu sâu sắc văn hóa Trung Quốc, ông phát hiện ra phong tục tập quán và tướng mạo của những người sinh sống ở đó rất khác biệt so với cư dân của khu vực phía tây Tứ Xuyên khác. Bởi vậy ông cho rằng, cư dân ở đây là từ nơi khác di cư tới. Tiếp đó Lock đã táo bạo suy đoán: của cư dân ở đó chính là hậu duệ của người Đảng Hạng di cư tới khu vực phía tây Tứ Xuyên, để chạy trốn sự truy sát của thiết kị binh Mông Cổ”. Đường Phong nghiêng đầu ngẫm nghĩ hồi lâu rồi hỏi lại giáo sư La: “Tôi cũng từng nghe qua tại khu vực Xuyên Tây có hậu duệ người Đảng Hạng, nhưng trong trí nhớ của tôi, đó hình như là chỉ khu vực Mộc Nhã. Rock đã từng cho rằng, người Mộc Nhã chính là hậu duệ của người Đảng Hạng, nhưng sau này vì ông tới đào nguyên ngoại thế đó nên đã thay đổi quan điểm. Ông cho rằng cư dân sống ở đó càng giống hậu duệ của người Đảng Hạng hơn. Sau này Rock vẫn muốn đi tìm lại vùng đào nguyên đó, nhưng ông đi khắp hang động vách núi thuộc dải tây bắc Tứ Xuyên mà cũng không tìm thấy vùng đào nguyên ngoại thế này. Vậy là, Rock đã gọi vùng đất đó là ‘Shangri La cuối cùng’, trở thành điều tiếc nuối cuối cùng của cuộc đời ông”. “Lẽ nào Lock không để lại vật gì đó, như một tấm ảnh chẳng hạn?” - Đường Phong hỏi. Giáo sư La lắc lắc đầu, “Không có, bản thân ông nói rằng, trước khi ông đi vào vùng đào nguyên ngoại thế đó, ông đã gặp phải một trận lở bùn đá đáng sợ. Ông đã thất lạc những người đồng hành khác, máy ảnh cùng những thiết bị khác mà ông mang theo cũng bị trôi theo bùn đá, bởi vậy không thể lưu lại hình ảnh hay tài liệu gì. Còn về lần đi lạc đó, ông chỉ để lại những dòng ghi chép ngắn gọn. Trong đoạn ghi chép này, Rock còn đặc biệt nhắc tới ngọn núi ở gần đó mà người địa phương sùng bái, và kể lại trong hang núi trên tuyết sơn có cất thánh vật của họ. Điều này hình như có mối liên hệ nào đó với Hắc Đầu Thạch Thất trong truyền thuyết”. “Ý ngài là Hắc Đầu Thạch Thất rất có khả năng ở đó?” - Lương Viện ngạc nhiên hỏi. Giáo sư La khẽ gật đầu, đáp: “Khả năng này rất lớn, nếu giống như Rock từng suy đoán, ở đó có hậu duệ của người Đảng Hạng sinh sống, vậy thì, hang núi mà người địa phương thường nói rất có khả năng chính là Hắc Đầu Thạch Thất. Còn bản thân tôi vô cùng ngưỡng mộ Lock, ông là một nhà thám hiểm rất cẩn thận và nghiêm túc, đồng thời cũng là một học giả, tôi nghĩ độ tin cậy trong những lời nói của ông khá cao”. Đường Phong hình như đã hiểu ra ý của giáo sư La, “Giáo sư La, ý của ông là muốn chúng tôi đi tìm kiếm đào nguyên ngoại thế mà Lock gọi là ‘Shangri La cuối cùng’, tìm kiếm hậu duệ của người Đảng Hạng ở đó, tìm hiểu tình hình liên quan tới Hắc Đầu Thạch Thất?” “Đúng vậy, hiện nay đây chính là manh mối duy nhất của chúng ta, tôi tin chắc địa danh đó thực sự tồn tại” - Giáo sư La nói rất kiên định. Đường Phong nhìn nhìn giáo sư La, rồi lại nhìn Hàn Giang, như muốn nghe ý kiến của anh. Hàn Giang trầm tư hồi lâu, lúc này mới cất lời: “Tôi tin tưởng vào phán đoán của giáo sư La, tìm thấy đào nguyên ngoại thế mà Rock đã từng đến, chính là mục tiêu của chúng ta”. Hàn Giang lại nhìn một lượt mọi người đang ngồi bên dưới, đưa ra mệnh lệnh: “Hành động lần này của chúng ta phải tiến hành trong tình trạng bảo mật, do tôi và Đường Phong thực thi, những người khác ở lại đây trấn thủ, khi tôi không có mặt, công việc ở đây do Triệu Vĩnh phụ trách”. Nói xong, Hàn Giang quay ra bàn giao cho Triệu Vĩnh: “Sau khi tôi đi phải luôn luôn giữ liên lạc với tôi, đồng thời đảm bảo tốt viện trợ…” - Hàn Giang đang nói thì Lương Viện liền ngắt lời anh, hỏi thẳng thừng: “Sao lần hành động này không cho tôi đi theo?” Hàn Giang quay đầu lại nhìn Lương Viện, nghiêm mặt nói: “Lần hành động này, rất có khả năng chúng ta phải thâm nhập vào hang sâu trên tuyết sơn, có khi còn gặp phải sự công kích của kẻ thù, cô là con gái, sao mà đi được!” “Vậy thì tôi làm gì?” “Cô hãy ở đây chăm sóc giáo sư La, đợi tôi trở về.” Lương Viện vẫn muốn tranh luận nhưng Hàn Giang không buồn để ý đến cô nữa, anh cùng Triệu Vĩnh đi ra khỏi mật thất, chỉ còn lại Lương Viện bĩu môi, đứng ngây trước cửa… Đường Phong thấy bộ dạng Lương Viện như vậy, không nhịn cười, đúng lúc đó thì bị Lương Viện nhìn thấy, cô trợn mắt lườm Đường Phong một cái, nói không chút hào khí: “Anh cứ cười đi, không cho tôi đi, tôi cũng sẽ đi bằng được, hừm! Từ bé đến lớn, chưa có ai từng ngăn cản được bổn cô nương”. Đường Phong thu lại nụ cười, cũng bắt chước điệu bộ của Hàn Giang, nghiêm mặt nói với Lương Viện: “Tiểu thư Lương, đây không phải là nơi để cô dở thói đỏng đảnh đâu nhé, tôi thấy cô nên ở lại đây chăm sóc giáo sư La đi”. Lương Viện bị Đường Phong chọc tức như vậy bèn đẩy xe lăn của giáo sư La, thở hổn hển bỏ đi, trong mật thất chỉ còn lại Đường Phong. Đường Phong đứng bên cửa sổ, vén một góc tấm rèm cửa dày cộm lên, phía xa xa, những dãy núi tĩnh mịch, trong lòng Đường Phong bỗng đột nhiên trào lên một dự cảm không lành.