Chương 29
Thứ Ba, 1 tháng Bảy
Thứ Tư, 2 tháng Bảy

    
áng hôm sau quay về Hedestad, việc đầu tiên Blomkvist làm là đến nhà Frode hỏi thăm tình hình Vanger. Anh mừng hay tin ông già đã khá lên chút ít trong tuần qua. Ông vẫn còn yếu, mong manh nhưng nay đã có thể ngồi được ở trên giường. Sức khỏe của ông không còn bị coi là đáng ngại nữa.
- Nhờ Chúa, - anh nói, - tôi nhận ra tôi mến ông già thật.
Frode nói:
- Tôi biết thế. Henrik cũng mến anh. Norrland sao?
- Có kết quả những không thỏa mãn. Khoan chút rồi tôi sẽ nói rõ sau. Ngay bây giờ tôi có một câu hỏi.
- Hỏi đi.
- Nếu Henrik chết thì thật sự cái gì sẽ xảy ra với lợi ích của ông ở Millennium?
- Chả có gì cả. Martin sẽ thế chân ở ban lãnh đạo báo.
- Giả định ngộ như tôi không ngừng cuộc điều tra vụ Harriet mất tích thì liệu có cơ là Martin sẽ gây chuyện gì cho Millennium không?
Frode nhìn anh soi mói.
- Có gì đấy?
- Không, thật mà. – Mikael kể với ông câu chuyện giữa anh và Martin đêm Giữa hè. – Khi tôi ở Nosjo, Erika bảo tôi là Martin có gọi cho cô ấy bảo rằng rất cần tôi trở về tòa soạn.
- Tôi hiểu. Tôi đoán là Cecilia ở đằng sau anh ta. Nhưng tôi không nghĩ là Martin sẽ gây áp lực lên anh giống như lên với chính anh ta. Anh ta rất có lương tri. Và nhớ cho là tôi cũng ở trong ban lãnh đạo của một công ty con mà chúng tôi đã lập ra khi mua vào Millennium đấy nhá.
- Nhưng nếu xảy ra chuyện cứ lẵng nhẵng gây khó khăn, thì ông sẽ làm sao lúc ấy?
- Phải trọng sự tồn tại của các cái nghịch. Tôi làm việc cho Henrik. Henrik và tôi đã thành bạn bè trong bốn mươi lăm năm và chúng tôi nhất trí với nhau hoàn toàn trong các vấn đề như thế. Nếu Henrik chết thì có một điểm thực tế là tôi – chứ không phải Martin – sẽ kế thừa cổ phẩn của Henrik ở trong công ty nhỏ. Chúng ta đã có một hợp đồng trong đó chúng tôi cam kết ủng hộ Millennium trong ba năm. Nếu Martin bắt đầu làm cái gì sai – tôi không tin anh ta sẽ làm thế - thì về lý thuyết anh ta có thể nhấn phanh hãm vào một số lượng nhỏ những khác hàng mới đặt thuê quảng cáo.
- Và là máu huyết sinh tồn của Millennium.
- Vâng, nhưng hãy nhìn chuyện đó ở phía này – lo với các trò tầm phào ấy chỉ là phí thì giờ. Hiện Martin đang phấn đấu cho sự sống của ngành công nghiệp mà anh ta đeo đuổi, mỗi ngày làm tới mười bốn giờ đồng hồ. Anh ta không có thời gian cho các thứ khác đâu.
- Tôi hỏi có được không – tôi biết đây không phải là việc của tôi – tình hình chung của tập đoàn như thế nào nhỉ?
Frode nom vẻ nghiêm trọng.
- Chúng tôi có những vấn đề.
- Vâng, ngay một phóng viên tài chính thường thường như tôi mà còn có thể thấy cái đó. Tôi ý nói là nghiêm trọng đến đâu?
- Không được ghi nhớ.
- Giữa chúng ta mà.
- Mấy tuần qua chúng tôi mất hai đơn đặt hàng lớn trong công nghiệp điện tử và sắp bị hất ra khỏi thị trường Nga. Tháng Chín chúng tôi sẽ phải thải 1.600 công nhân viên ở Orebro và Trollhattan. Không phải là một phần thưởng lớn cho những người đã làm việc cho công ty trong nhiều năm. Mỗi lần chúng ta đóng cửa một nhà máy, lòng tin vào công ty lại bị mất đi nhiều hơn.
- Martin đang bị sức ép.
- Anh ta đang như một con bò kéo một cỗ xe đi trên vỏ trứng.
Blomkvist về đến nhà thì gọi Berger. Cô không ở tòa soạn, Malm bảo anh như vậy.
- Chuyện là khi tôi ở Norsjo, Erika có gọi tôi, Martin tìm cô ấy và như tôi nghe nói, thì anh ấy đã động viên Erika đề nghị tôi bắt đầu phụ trách lại công việc biên tập.
- Tôi nghĩ anh nên thế. – Malm nói.
- Tôi biết thế nhưng vấn đề là tôi đã có một hợp đồng với Henrik Vanger mà tôi không thể vi phạm còn Martin thì với tư cách một người ở đây muốn tôi ngừng việc đang làm và rời thị trấn. Vậy đề nghị của anh ấy coi như là có ý định bỏ tôi.
- Tôi biết.
- Chào Erika hộ. Bảo cô ấy là tôi sẽ trở về Stockholm khi tôi xong việc ở trên này.
- Tôi hiểu. Anh say việc như điên, ai chả thấy nhưng tôi sẽ báo chị ấy ý kiến của anh.
- Christer, một cái gì đó đang diễn ra ở trên này, tôi không có ý lùi.
Blomkvist gõ cửa nhà Martin Vanger. Eva mở cửa và chào anh niềm nở.
- Chào, có phải nhà Martin không?
Như để trả lời anh, Martin đi ra với một cái cặp hồ sơ trong tay. Anh hôn má Eva rồi chào Blomkvist.
- Tôi đi làm. Anh muốn nói chuyện với tôi ư?
- Ta có thể nói sau nếu anh gấp.
- Cứ nói đi.
- Tôi chưa làm xong công việc Henrik giao thì tôi chưa trở về tòa soạn. Bây giờ tôi báo với anh việc đó để anh đừng tính đến tôi ở trong ban lãnh đạo trước năm mới.
Martin đu đưa người trước sau một lúc.
- Tôi hiểu. Anh nghĩ là tôi muốn thải anh. – Anh ngừng lại – Mikael, sau đây chúng tay sẽ phải nói chuyện này. Tôi thật sự không có thì giờ hiến mình cho cái thú riêng của tôi ở Millennium, và tôi mong tôi sẽ không bao giờ đồng ý với đề nghị của Henrik. Nhưng tin tôi đi – tôi đang làm hết sức cho Millennium sống sót.
- Tôi không bao giờ nghi ngờ điều ấy.
- Nếu tôi hẹn được một lúc nào đó trong tuần sau chúng ta có thể bàn đến chuyện tài chính và tôi có thể cho anh biết ý kiến của tôi về vấn đề này. Nhưng thái độ cơ bản của tôi là Millennium thật sự không thể cho phép một trong những người chủ chốt của nó lại ngồi chờ đợi ở tít tận trên đảo Hedeby. Tôi thích tờ tạp chí và tôi nghĩ chúng ta có thể cùng nhau làm cho nó mạnh hơn lên nhưng anh phải là then chốt. Chúng ta đã đi đến một xung đột về lòng trung thành ở đây. Hoặc là tôi đi ngược lại mong muốn của Henrik hoặc là việc tôi làm ở ban lãnh đạo Millennium.
Blomkvist mặc bộ quần áo thể thao vào và đi ra ngoài để chạy đến Pháo đài rồi xuống căn nhà gỗ nhỏ của Gottfield trước khi quay về nhà dọc theo bờ nước, chậm bước hơn. Frode đang ngồi ở cái bàn trong vườn. Ông kiên nhẫn chờ Mikael uống hết chai nước và lau mồ hôi trên mặt.
- Nóng thế này nom không được khỏe lắm nhỉ.
- Ồ, không sao. – Blomkvist nói.
- Tôi lầm. Cecilia không phải là người đằng sau Martin. Là Isabella. Bà ta đang bận rộn huy động dòng họ Vanger phang anh và có thể cho anh lên cả giàn hỏa thiêu nữa. Bà ấy được Birger ủng hộ.
- Isabella?
- Bà ta là một người tai quái và nói chung không thích người khác. Ngay bây giờ khi bà ấy ghét anh đặc biệt. Bà ấy đang loan truyền anh là một tay xúc xiểm đang lừa để cho Henrik mướn anh và anh đã bắt ông ấy lao lực quá sức nên mới bị đau tim.
- Tôi hy vọng không ai tin điều đó.
- Vẫn luôn có một ai đó thích tin các lời đồn độc địa.
- Tôi đang cố tìm cái gì xảy ra với con gái bà ấy – thế mà bà ấy lại căm ghét tôi. Nếu Harriet là con gái tôi, tôi sẽ có phản ứng khác đấy.
2 giờ chiều, di động của anh kêu.
- Chào, tôi là Conny Torsson làm việc ở Hedestad Courier. Ông có thì giờ trả lời một vài câu hỏi không? Chúng tôi nghe hóng được là ông đang ở Hedeby.
- Ông Horsson, cái máy của ông bắt tin hơi chậm một tí. Tôi đã ở đây từ mồng một đầu năm.
- Tôi không biết điều ấy. Ông đang làm gì ở Hedestad?
- Viết. Và nghỉ ngày Sabbath theo người Do thái.
- Ông đang làm về việc gì?
- Khi đăng báo ông sẽ biết.
- Ông vừa mới được tha tù…?
- Vâng?
- Ông nghĩ như thế nào về những nhà báo man trá tài liệu?
- Những nhà báo man trá tài liệu là những đứa ngu.
- Vậy theo quan niệm của ông thì ông là đứa ngu à?
- Nhưng sao tôi lại nghĩ thế? Tôi không man trá tài liệu.
- Nhưng ông bị tù vì vu cáo đó.
- Thế ư?
Torsson ngập ngừng đủ lâu để Blomkvist phải cho anh ta một cú.
- Tôi không bị tù vì vu cáo, không vì man trá tài liệu.
- Nhưng ông đăng tài liệu ấy lên.
- Nếu ông gọi tôi để thảo luận về phán xét chống lại tôi thì tôi không có bình luận.
- Tôi thích đi phỏng vấn ông.
- Tôi không có gì để nói với ông về vấn đề này.
- Vậy ông không muốn thảo luận về phiên tòa ư?
- Đúng đấy. – Anh nói và tắt máy. Anh ngồi nghĩ hồi lâu rồi đến với máy tính.
Theo lời chỉ dẫn đã nhận được, Salander lái chiếc Kawasaki qua cầu đến đảo Hedeby. Cô dừng lại ở căn nhà nhỏ đầu tiên bên trái. Cô thật sự đã hết ngô nghê nhưng chừng nào người mướn cô còn đang trả tiền thì nếu có đi lên Bắc cực cô cũng chả mùi. Ngoài ra, cho chiếc Kawasaki phòng một chuyến dài trên đường số E4 thì là nhất quá rồi. Cô gạt chân chống rồi cởi cái dây buộc giữ cái túi đựng đồ lề du lịch của cô.
Blomkvist mở cửa vẫy cô. Anh đi ra quan sát chiếc xe của cô, ngạc nhiên ra mặt.
Anh huýt sáo.
- Cô đi xe máy!
Salander không nói năng. Nhưng cô có ý theo dõi anh khi anh sờ vào ghi đông và thử bộ phận tăng tốc. Cô không thích bất cứ ai mó máy vào đồ lề của mình. Rồi cô trông thấy anh với nụ cười hồn nhiên thật thà, cái mà cô coi là một nét cứu vãn. Phần lớn người thích xe máy thường là cười cỗ xe nhẹ cân của cô.
- Mười chín tuổi tôi đã có một cái xe máy. – Anh nói, quay đi. – Vào đi, để cho cô còn nghỉ ngơi chứ.
Anh đã mượn một cái giường cắm trại của nhà Nilsson. Salander làm một vòng quanh căn nhà nhỏ, nom vẻ ngờ vực nhưng xem ra cô đã thấy thoái mái khi không tìm thấy những dấu hiệu lộ liễu nào về một cạm bẫy gian tà. Anh chỉ cho cô buồng tắm ở đâu.
- Để phòng khi cô cần tắm hay rửa ráy cho mát mẻ.
- Tôi phải thay quần áo. Tôi không ra ngoài loăng quăng với bộ đồ toàn là da này được.
- Ok. Cô tắm còn tôi làm bữa tối nhỉ.
Anh áp chảo sườn cừu với sốt vang đỏ rồi kê bàn ra ngoài nắng chiều trong khi Salander tắm. Cô chân đất đi ra, mặc cái áo yếm đen và váy ngắn bằng vải demin đã cũ. Thức ăn ngửi thơm ngon và cô lấy luôn hai suất lớn. Mê hoặc, Blomkvist liếc trộm một cái vào hình xăm trên lưng cô.
- Năm cộng ba. – Salander nói – Năm vụ trong danh sách của Harriet và ba vụ mà tôi nghĩ là nên có trong danh sách này.
- Nói tôi xem.
- Tôi mới làm cái này mười một hôm nay và tôi không có may mắn để được đào tung lên tất cả các báo cáo. Trong một số vụ, các báo cáo của cảnh sát đã được để vào sở văn khố của quốc gia còn ngoài ra thì vẫn được cất giữ ở cảnh sát quận. Tôi đã đi ba ngày đến cảnh sát của nhiều quận nhưng tôi không có thì giờ xem hết của họ. Năm vụ này đã được nhận diện.
Salander để một chồng giấy bề thế, khoảng 500 trang, lên bàn bếp. Cô nhanh chóng xếp tài liệu ra làm năm đống.
– Ta sắp xếp chúng theo thứ tự thời gian – Cô đưa danh sách cho Blomkvist.
1949 – REBECKA JACOBSSON, Hedestad (30112)
1954 – MARI HOLMBERG, Kalmar (32018)
1957 – RAKEL LUNDE, Lanskrona (32027)
1960 – (MAGDA) LOVISA SJOBERG, Karlstad (32016)
1960 – LIV GUSTAVSSON, Stockholm (32016)
1962 – LEA PERSSON, Liddevalla (31208)
1964 – SARA WITT, Ronneby (32109)
1966 – LENA ANDERSSON, Uppsala (30112)
Vụ đầu tiên trong loạt án này là Rebecka Jacobsson, 1949, chi tiết anh đã biết rồi. Vụ tiếp theo tôi tìm thấy là Mari Holmberg, một gái điếm ba mươi hai tuổi ở Kalmar bị giết ở nhà cô ta tháng Mười 1954. Không biết rõ chính xác bị giết vào lúc nào vì không tìm thấy được ngay thi thể, chắc là chín mười ngày sau.
- Sao cô lại gắn nó vào danh sách Harriet?
- Cô ấy bị trói và bị lạm dụng tệ hại nhưng chết là do bị thắt cổ bằng một cái khăn vệ sinh.
Blomkvist ngồi im một lúc rồi nhìn lên khổ thơ Leviticus 20:18.
“Nếu một người đàn ông nằm với một người đàn bà đang đau ốm và phơi trần truồng người đàn bà ra, làm lộ cái giếng của người đàn bà và người đàn bà cũng để lộ ra máu tháng của mình thì cả hai sẽ bị đồng loại ruồng bỏ”.
Salander gật đầu.
- Harriet cũng gắn thế này. OK. Vụ sau?
- Tháng Năm 1957, Rakel Lunde, bốn mươi lăm tuổi. Chị này làm việc vệ sinh dọn dẹp nhà cửa và là một người vui vẻ có đôi chút kỳ cục ở trong làng. Chị ta xem bói và có thú riêng là xem bói bài, bói tay v.v… Chị sống ở ngoài Landskrona trong một ngôi nhà cách xa tất cả mọi nơi và bị giết một lúc nào đó vào sáng sớm. Người ta tìm thấy chị ấy bị trói trần truồng vào cái khung giá phơi quần áo giặt ở trong vườn sau nhà, mồm bị dán băng kín. Chết vì bị ném đá liên tục. Người đầy vết bầm tím và gãy xương.
- Lạy Chúa. Lisbeth, thật ghê gớm!
- Chuyện còn tồi tệ nữa. Các chữ tắt R.L. là đúng – anh tìm thấy thơ dẫn ở Kinh thánh chưa?
- Quá ư là rõ. “Một người đàn ông hay một người đàn bà làm đĩ hay phù thủy thì sẽ bị xử chết, chúng sẽ bị ném đá, máu sẽ phải nhuộm người chúng”.
- Rồi đến Sjoberg ở Ranmo ngoài Karlstad. Chị này được Harriet gọi là Magda trong danh sách. Tên họ đầy đủ là Magda Lovisa, nhưng người ta gọi chị là Lovisa.
Blomkvist nghe trong khi Salander kể lại những chi tiết kỳ lạ của vụ án mạng ở Karlstad. Khi cô châm thuốc lá, anh chỉ tay vào bao thuốc và cô đẩy nó lại đằng anh.
- Vậy là tên giết người cũng tấn công vào giống vật nữa?
- Trong thơ Leviticus nói nếu một người phụ nữ có chuyện tình dục với một con vật thì cả hai đều phải bị giết.
- Chuyện người phụ nữ này có chuyện tình dục với một con bò xem vẻ là không có.
- Có thể đọc rồi hiểu máy móc câu thơ. Người phụ nữ “lại gần” con vật là cũng đã đủ bị rồi, mà vợ một người chủ trại thì tránh sao được ngày nào mà chả “lại gần”.
- Hiểu.
- Vụ tiếp theo ở danh sách Harriet là Sara. Tôi đã dò ra được là Sara Witt, ba mươi bảy tuổi, sống ở Ronneby. Chị này bị giết hồi tháng Giêng năm 1960, người ta tìm thấy bị trói vào giường, bị hiếp thô bạo nhưng chết là do ngạt thở, bị bóp cổ. Kẻ giết người đã châm lửa, chắc có ý thiêu cháy cho ngôi nhà sụp xuống nhưng lửa đã tự tắt đi phần nào, còn lại thì sau đó rất nhanh lính cứu hỏa đã đến dập tắt được.
- Thế mối liên quan?
- Hãy nghe cái này. Sara Witt là con gái một mục sư vừa là vợ một mục sư. Chồng chị ta cuối tuần ấy đi vắng.
- “Và nếu con gái của bất cứ thầy tế nào, tự làm ô uế nó bằng hành nghề đĩ thì cũng làm ô uế cả chính bố nó; đứa con gái sẽ bị lửa thiêu”. OK. Cái này phù hợp với bản danh sách. Cô bảo cô tìm ra thêm mấy vụ.
- Tôi đã tìm ra ba người phụ nữ khác cũng bị giết trong những trường hợp kỳ lạ tương tự và họ có thể là đã ở trong danh sách của Harriet. Người đầu tiên là một thiếu phụ tên là Liv Gustavsson. Cô này hai mươi tuổi và sống ở Farsta. Là một cô gái thích ngựa – cô chơi đua ngựa và là một tài năng khá hứa hẹn. Cô cũng có một cửa hiệu nhỏ bán các thú cưng cùng với bà chị. Cô được tìm thấy ở trong cửa hiệu. Cô ở lại một mình để vào sổ sách. Cô đã bị hiếp và bị bóp cổ chết.
- Vụ này nghe không giống hẳn như danh sách của Harriet đúng không?
- Giống chứ, bởi vì có một điều này. Tên giết người kết thúc trò man rợ của hắn bằng đem cắm một con vẹt đuôi dài vào âm hộ của cô gái rồi thả xổng hết các con vật ở cửa hiệu ra. Mèo, rùa, chuột bạch, thỏ, chim. Kể cả cá trong bình thủy tinh. Để sáng sau bà chị gặp phải một cảnh kinh hoàng như thế nào.
Blomkvist lưu ý:
- Cô ấy bị giết tháng Tám 1960, bốn tháng sau vụ giết Magda Lovisa, vợ người chủ trại ở Karlstad. Trong hai trường hợp này, hai người phụ nữ đều làm việc với giống vật và cả trong hai trường hợp đều có con vật bị hiến tế. Con bò ở Karlstad có thể đã sống sót – nhưng tôi khó hình dung ra chuyện có thể giết một con bò bằng một con dao. Một con vẹt đuôi dài thì ý tứ có lộ ra trắng trợn hơn. Ngoài ra đã có thêm vật hiến tế nữa.
- Vật nào?
Salander bằng kể chuyện “vụ án mạng bồ câu” của Lea Persson. Blomkvist ngồi lặng im quá lâu đến nỗi Salander phát sốt ruột.
- Tôi chịu cái ý này của cô, - cuối cùng anh nói. – Còn lại một vụ.
- Một vụ mà tôi phát hiện nhờ may. Tôi không biết đã để tuột lỡ mất bao nhiêu rồi.
- Nói tôi nghe về vụ này đi.
- Tháng Hai 1966 ở Uppsala. Nạn nhân là một vận động viên thể dục mười bảy tuổi tên là Lena Andersson. Cô mất tích sau buổi liên hoan lớp học rồi ba ngày sau thì tìm thấy cô ở trong một cái rạch trên bình nguyên Uppsala, xa hẳn ra ngoài thị trấn. Cô đã bị giết đâu đó rồi thi thể bị dìm xuống ở đây. Vụ án mạng này đã khuấy truyền thông đại chúng lên nhưng các trường hợp xác thực xung quanh cái chết của cô không bao giờ được báo cáo. Cô gái đã bị hành hạ kỳ dị. Tôi có đọc báo cáo của nhà bệnh lý học. Cô gái đã bị tra tấn bằng lửa. Hai tay và ngực cô bị đốt tàn nhẫn và khắp người cô đã bị đốt ở nhiều nơi. Người ta tìm thấy vết paraphin trên người cô, tức là cô đã bị đốt bằng nến, nhưng hai tay cô bị cháy thành than thì tức là chúng đã bị giữ lâu ở trên một ngọn lửa lớn hơn. Cuối cùng tên giết người cửa đứt đầu cô ta, ném vào cạnh cái xác.
Blomkvist trắng nhợt mặt lại.
- Chúa ơi. – Anh nói.
- Tôi không tìm ra câu thơ nào trong Kinh thánh hợp với cái đó nhưng có nhiều đoạn bàn đến cúng tế bằng lửa và cúng tế tội lỗi, ở một số nơi người ta còn yêu cầu hiến tế bằng con vật – phần lớn trường hợp là một con bò đực – phải được cắt ra sao cho cái thủ phải rời khỏi thân. Chuyện lửa này lại làm cho tôi nhớ lại vụ án mạng đầu tiên, về Rebecka ở Hedestad đây.
Tối đến, khi muỗi đã bâu lại hàng đàn, họ dọn dẹp cái bàn ngoài vườn, chuyển vào  bếp để nói chuyện nốt.
- Việc anh không tìm được trích dẫn chính xác ở Kinh thánh không hề gì. Không phải là chuyện trích dẫn, mà là đem nhái lố bịch những cái viết trong Kinh thánh thôi – đúng ra là nó lấy các trích dẫn đã bị rút ra khỏi bối cảnh văn bản rồi gắn vào vụ án.
- Tôi đồng ý. Nó cũng không logic nữa cơ. Chẳng hạn lấy câu trích cả hai đều bị cắt rời ra với đồng loại của chúng nếu một ai đó có chuyện tình dục với một cô gái đang thấy tháng. Nếu câu này được hiểu theo kiểu máy móc thì kẻ giết người cũng sẽ phải tự sát.
- Thế thì cái này dẫn đến đâu? – Blomkvist băn khoăn nói.
- Harriet của anh hoặc có một thú vui riêng kỳ lạ hoặc là đã biết rằng có một mối dây giữa các vụ án mạng.
- Giữa 1949 và 1966, có thể cả trước hay sau nữa.Với tôi, không thể nào tin được rằng ít nhất trong mười bảy năm có một hung thủ bạo dâm bệnh hoạn giết người hàng loạt đang tàn sát phụ nữ, thế mà chả có ai nhìn ra mối liên quan nào giữa chúng.
Salander đẩy ghế lùi lại, rót thêm cà phê trong bình trên lò ra. Cô châm một điếu thuốc. Mikael tự rủa thầm và cũng thấu trộm của cô một điếu.
- Không, không thể tin được chuyện ấy. – Cô giơ một ngón tay lên nói. – Trong thế kỷ XX ở Thụy Điển chúng ta có vài chục vụ phụ nữ bị giết mà không tìm ra thủ phạm. Ông Persson, giáo sư tội phạm học, có nói trên tivi một lần rằng các sát nhân hàng loạt theo dây chuyền là hiếm có ở Thụy Điển, nhưng chắc chúng ta cũng có một số đứa chưa bị tóm.
Cô giơ một ngón tay lên nữa.
- Các án mạng gây ra trong một thời gian rất dài và ở khắp đất nước. Năm 1960, hai vụ xảy ra gần nhau những hoàn cảnh lại hoàn toàn khác nhau – vợ một chủ trại ở Karltad và một cô gái hai mươi tuổi ở Stockholm.
Ba ngón tay dựng lên.
- Không có hình mẫu dễ dàng để cho nhận thấy được ngay. Những kẻ sát nhân tiến hành những chỗ khác nhau và không có chữ ký thực sự nhưng có một số điều đã được lặp lại. Những con vật này. Lửa này. Hiếp thô bạo này. Và như anh đã chỉ ra, việc nhái các thơ trích ở Kinh thánh. Nhưng hình như không một thám tử điều tra nào đã giải một vụ án nào theo các trích dẫn ở Kinh thánh.
Blomkvist đang quan sát cô gái. Với thân hình thanh mảnh, chiếc áo yếm đen, những hình xăm và những cái nhẫn xuyên trên mặt, Salander nom lạc chỗ, ít ra thì cũng lạc với một căn nhà khách bằng gỗ ở Hedeby. Trong bữa tối, khi anh tỏ ra chan hòa, thì cô lầm lỳ đến mức thô cứng. Nhưng khi vào việc thì cô, từ cái ngón tay trở đi, cứ như là một nhà chuyên nghiệp. Căn nhà của cô ở Stockholm nom ngỡ cứ như có một quả bom vừa nổ xong, nhưng về đầu óc thì cô cực kỳ giỏi tổ chức.
- Khó nhìn ra mối liên hệ giữa một cô điếm ở Uddevalla bị giết ở trong một khu công nghiệp và vợ một mục sư bị thắt cổ chết, nhà thì bị đốt ở Ronneby. Nếu anh không có cái chìa khóa nà Harriet cho thì cái này là chìa khóa đó.
- Điều này dẫn đến câu hỏi tiếp theo. – Blomkvist nói.
- Harriet dính líu vào tất cả các câu chuyện này như thế nào đây? Một cô gái mười bảy tuổi giữa chốn thâm nghiêm kín cổng cao tường như thế này.
- Chỉ có một câu trả lời, - Salander nói. – Chắc là phải có một liên hệ với gia đình Vanger.
Vào 11 giờ đêm ấy, họ duyệt hết xê ri án mạng và thảo luận các mối liên hệ cũng như các chi tiết dù nhỏ về chỗ giống nhau và khác nhau, bàn nhiều quá đến nỗi đầu Blomkvist quay cuồng. Anh dụi dụi mắt, rồi hỏi Salander có thích đi bộ một lúc không. Vẻ mặt cô cho thấy cô nghĩ kiểu này là một trò phí thì giờ nhưng cô đồng ý. Blomkvist khuyên cô nên mặc quần dài vì muỗi.
Họ đi qua bến tàu nhỏ rồi đi qua dưới gầm cầu và ra ngoài tới mũi đất nhà Martin Vanger. Blomkvist chỉ các ngôi nhà khác nhau và nói về những người sống ở trong đó. Anh hơi khó nói khi tới nhà Cecillia Vanger. Salander tò mò nhìn anh. Họ đi qua chiếc du thuyền máy của Martin và tới mũi đất, họ ngồi xuống một tảng đá và hút thuốc.
- Có thêm một mối liên hệ. – Blomkvist thình lình nói.
- Là gì?
- Tên của họ.
Salander nghĩ một lúc rồi lắc.
- Những tên ấy là ở trong Kinh thánh.
- Không đúng, - cô nói. – Liv với Lena thì ở chỗ nào trong Kinh thánh?
- Có trong ấy đấy. Trong những ngôn ngữ khác là Eva, Liv có nghĩa là sống. và tiếp tục nào – Lena là tắt của cái gì?
Salander ngán ngẩm nhăn mặt. Anh đã nhanh hơn cô. Cô không thích điều đó.
- Magdalena. – Cô nói.
- Cô điếm, người phụ nữ đầu tiên, mary trinh trắng… họ đều ở đây, trong cái nhóm này. Trò này kỳ quái đến mức đầu một nhà tâm lý học khéo cũng phải nháo nhào lên mất. Nhưng có một cái khác nữa liên quan đến những cái tên.
Salander kiên nhẫn chờ.
- Đây rõ ràng là những tên Do thái truyền thống. Gia đình Vanger có một phần khá lớn các lý luận gia về âm mưu và các phần tử Quốc xã cuồng tín bài Do thái. Tôi gặp Harald Vanger chỉ một lần, hắn đứng ở giữa đường chửi con gái hắn là con điếm. Lão chắc chắn có vấn đề với phụ nữ.
Trở lại căn nhà gỗ, họ ăn qua loa bữa nửa đêm và hâm nóng cà phê. Mikael nhìn vào tập giấy gần 500 trang mà điều tra viên cưng của Dragan Armansky đã làm cho anh.
- Đào tung cái này lên chỉ trong một thời gian ngắn như thế, cô thật là tuyệt vời.- Anh nói – Cảm ơn. Cảm ơn cả việc quá bộ lên đến tận đây để báo cáo về chuyện kia.
- Tiếp là chuyện gì bây giờ? – Salander muốn biết.
- Ngày mai tôi sẽ nói với Dirch Frode để thu xếp thanh toán tiền công cho cô.
- Tôi không có ý nói cái đó.
Blomkvist nhìn cô.
- Được, tôi nhận là việc tôi nhờ cô đã được làm xong.
- Tôi làm không phải vì cái đó.
Blomkvist ngả lưng vào tường bếp và bắt gặp cái nhìn của cô gái. Anh không thể đọc được gì trong mắt cô. Trong nửa năm nay anh một mình làm về vụ Harriet mất tích thì đây có một người nữa – một người điều tra có kinh nghiệm – nắm giữ mọi sự. Anh đã bồng bột có quyết định.
- Tôi biết. Chuyện này tôi cũng đã nghĩ đến lắm. Tôi sẽ nói chuyện với Frode. Chúng tôi sẽ mướn cô trong một hay hai tuần làm… trợ lý điều tra viên. Tôi không hiểu ông ấy có trả công như trả cho Armansky hay không nhưng chúng tôi có thể sẽ thu xếp một đồng lương cơ bản khả dĩ sống được cho cô.
Thình lình Salander mỉm cười. Cô không muốn bị gạt ra và cô có thể sẵn sàng làm không lương cho việc này.
- Tôi buồn ngủ. – Cô nói và lập tức đi vào phòng mình, đóng cửa lại.
Hai phút sau, cô lại mở cửa thò đầu ra.
- Tôi nghĩ anh sai. Không phải một tên sát nhân hàng loạt điên loạn đọc sai Kinh thánh. Chính là một dân bình thường hoặc một cha bố láo ghét phụ nữ nào đấy thôi.