Phần II

    
ôm đi phỏng vấn xin việc lần đầu tiên trong đời, tôi còn là một đứa khờ khạo hết chỗ nói.Tôi bước vào một trong những thang máy của công ty Elias Clarknổi tiếng đang chở lên chở xuống những đại ca đại tẩu của giới thời trang. Tôi chưa biết được rằng các cây bút lá cải, các nhân vật có máu mặt trong xã hội và các đầu nậu truyền thông có thế lực nhất lại có những đêm mất ngủ bởi những con búp bê trang điểm tuyệt hảo, quần áo là lượt ngất trời đang lướt nhẹ trên cao trong những chiếc thang máy chạy êm như ru. Tôi chưa bao giờ gặp những cô gái tóc vàng mà lại vàng đến thế, và chẳng biết rằng nhuộm mấy nhành highlight ở thợ làm tóc siêu sao mỗi năm tốn mất 6000 dollar, cũng như người sành điệu chỉ cần liếc qua màu tóc là biết nghệ nhân nào đã nhuộm nó.Tôi cũng chưa khi nào nhìn thấy các chàng điển trai trong áo len cổ lọ ôm khít và quần da chặt cứng khi họ phô diễn cơ thể tuyệt hảo do gian khổ rèn luyện nhưng không phải quá cơ bắp để mất vẻ sexy. Những chiếc túi và đôi giày mà tôi chưa hề nhìn thấy trên một con người bằng xương bằng thịt tự hào khoe nguồn gốc của chúng: Prada!Armani!Versace! Qua người quen của một người quen-cô này là biên tập viên của tờ Chic- tôi nghe nói rằng thỉnh thoảng những trang sức đó có diễm phúc gặp lại những người tạo ra nó trong những thang máy này, một cuộc gặp gỡ nhất định là rất thú vị ngay cả với Miuccia, Giorgio hay Donatella khi nhìn lại đôi giầy cao gót của mốt hè 2002 hoặc chiếc túi đầm hình giọt nước của bộ thời trang Xuân vừa rồi.Tôi biết là sắp có chuyển biến lớn trong cuộc đời mình-chỉ không rõ là nó có theo chiều hướng tốt lên hay không.
Cho đến giờ phút này, tôi đã sống hai mươi ba năm đầu tiên của đời mình như một con bé nhà quê ở một tỉnh lẻ ở Mỹ.Lớn lên ở Avon, Connecticut, thời thơ ấu của tôi bó rập khuôn mĩ mãn: thể thao ở trường, họp nhóm thanh niên,Những cuộc” chè chén” ngây thơ vô hại ở nông trại của các bạn khi phụ huynh vắng mặt.Ở trường, chúng tôi mặc quần áo thể thao, tối thứ bảy thì đóng quần bò, và áo dài đăng ten thì để dành cho các buổi khiêu vũ ngoan ngoãn.Rồi lên đại học!Quả là một thế giới phấn khích sau khi hết bậc phổ thông.Ở đó ai cũng tìm được gì đó cho mình, kẻ cả là nghệ sĩ,kẻ lập dị hay dân nghiện máy tính.Mọi khả năng đều mở ra trước mắt tôi khi lên đại học.Tôi chóng mặt vì không biết chọn theo sở thích tri thức hay nghệ thuật, học một nghành quái dị hay tâm linh kì bí.Chỉ có một môn không thấy trong danh mục các nghành học: Thời trang.Bốn năm trời số phận bắt tôi khoác áo bông và xỏ ủng lặn lội đến lớp học về các nghệ sĩ Pháp theo trường phái ấn tượng hoặc viết những bài dài lê thê về văn học Anh,nhưng chúng không, nói đúng là không hề, chuẩn bị chút xíu nào cho tôi bước chân bước chân vào một nghề đầu tiên sau tốt nghiệp
Tôi cố đầy thời khắc đó càng xa càng tốt.Mấy tháng sau khi thi, trước tiên tôi vay quàng vay xiên một ít tiền và làm một cú du lịch đơn thương độc mã.Tôi đi tàu hỏa xuyên Châu Âu trong một tháng, thăm thú nhiều bãi biển hơn bảo tang, và cũng chẳng thêm giữ liên lạc với một ai khác ở nhà ngoài Alex, bạn trai của tôi từ ba năm nay.Anh biết là chậm nhất là sau đến năm tuần đơn thương độc mã trên đường là tôi chán ngấy đến tận cổ, và do đến tận tháng Chín là lúc bắt đầu đi dậy học, vì không biết giết thời gian kiểu gì nên Alex bất ngờ đón lõng tôi tại Amsterdam.Cho đến lúc ấy tôi đã càn quét xong Châu Âu, và Alex đã từng ở Amsterdam hè năm ngoái. Sau một buổi tối không được thánh thiện cho lắm tại một Coffe Shop chúng tôi dồn toàn bộ chỗ séc du lịch của mình chung làm một và mua cặp vé một chiều bay đi Bangkok.
Hai đứa chúng tôi cày ngang dọc Đông Nam Á, hiếm khi chi quá mười dollar mỗi ngày, và luôn bàn kế hoạch cho tương lai. Alex nóng lòng đợi ngày bắt đầu dạy tiếng Anh ở tại một trong những trường thuộc dạng điểm nóng xã hội của thành phố, mê muội với ý tưởng nhào năn những tâm hồn trẻ thơ cũng như đấu tranh cho người nghèo và chịu thiệt thòi. Đúng là Alex. Cứu cánh của tôi thì không cao cả như vậy:tôi chỉ chăm chăm kiếm cho đươc chỗ làm ở một tạp chí. Không phải bất cứ tạp chí nào, mà cho tờ New York Yorker nổi tiếng. Chẳng phải không biết vừa ra trường mà leo được bậc ấy thì quá chật vật, song tôi quyết tâm sau lần họp lớp thứ năm phải đạt được mục tiêu.Ước vọng lớn nhất của tôi xưa nay vẫn là viết bài cho New York Yorker. Số đầu tiên tôi mua sau khi nghe bố mẹ nói chuyện với nhau về một bài báo rất hay, và mẹ tôi nói “ Thời buổi này không kiếm đâu ra được bài báo viết tử tế như thế “Bố thì phụ họa “Đúng là tuyệt đỉnh.” Tôi thấy mê ngay. Mê những bài bình luận chát chúa, những tranh biếm họa hóm hỉnh, lại còn mê cả cảm giác được thuộc vào một giới độc giả đặc biệt nữa chứ.Cho đến bây giờ đã là bảy năm tôi không bỏ qua một số nào, thuộc làu làu đến từng ban phòng, mọi biên tập viên và tác giả.
Alex và tôi đứng trước ngưỡng cửa của một phần đời sắp mở ra, và bàn bạc xem cả hai sẽ cùng tiến vào ra sao.Mặc dù vậy chúng tôi cũng không vội về nhà làm gì.Linh tính mách bảo chúng tôi đang được sống những ngày thanh thản cuối cùng trước khi bước chân vào vòng điên đảo của thực tế, và vậy là chúng tôi gia hạn thị thực ở Delhi để ngao du thêm vài tuần trên đất nước Ấn Độ kì bí.
Nhưng, đối với cuộc chơi lãng mạn thì không có kết cục nào thảm hại hơn một trận kiết lị amip.Tôi nằm bẹp một tuần liền trong một nhà thương Ấn Độ nhơ nhuốc và cầu khẩn Alex chớ bỏ tôi chết ở cái nơi địa ngục này. Bốn hôm sau chúng tôi bay về tới Newark.Mẹ tôi sầu muộn đặt con gái ngồi trên ghế sau của oto và phóng thẳng về nhà. Xét về mặt nào đó thì ước muốn của những bà mẹ Do Thái như mẹ tôi đã thành hiện thực: mẹ có cớ để lôi tôi đi hết phòng khám này đến phòng khám khác, cho đến khi tin tưởng tuyệt đối rằng lũ kí sinh trùng khốn nạn đã bị tống khỏi cơ thể con bé yêu của mình.Phải đến bốn tuần sau tôi mới có lại cảm giác thoát khỏi bàn tay thần chết, và thêm hai tuần nữa thì tôi lờ mờ nhận ra rằng không thể sống ở nhà được.Bố mẹ thật tuyệt vời nhưng liên tục bị hỏi đi đâu khi ra vào cửa-hoặc đã ở đâu khi về đến nhà- thì dễ phát điên lắm. Tôi gọi điện cho cô bạn Lily và hỏi cô ấy có thể cho tôi tạm trú trên cái đi văng trong căn hộ mini ở Harlem không.Cô ấy đồng ý, thật quá tử tế.
Mồ hôi như tắm, tôi thức dậy trong căn hộ mini ở Harlem.Đầu óc nhức như búa bổ, dạ dày sôi cồn cào, thần kinh căng như dây đàn.Chết rồi- Bệnh lại tái phát-tôi thất kinh.Lũ kí sinh trùng đã tìm được đường quay lại, và tôi sẽ không giũ nổi chúng cho đến khi cuối đời. Biết đâu lại có những di chứng gì kinh khủng hơn? Có thể tôi mắc một chứng bệnh sốt xuất huyết hiếm và có thể tiến triển chậm?Sốt rét? Hay thậm chí vi khuẩn Ebola? Tôi nằm cứng đơ, đang chuẩn bị tinh thần đón nhận cái chết sắp tới thì những hình ảnh đêm qua chợt hiện ra.Một quán bar đặc khói thuốc đâu đó ở East Village. Những âm thanh quỷ quái có tên là Jazz Fusion Music. Một thứ đồ uống màu hồng chóe trong ly chuyên rót Martini-khiếp, tởm quá. Bạn bè ghé qua chào mừng tôi quay về cố hương.Một lời chúc, một ngụm rượu, lại một lời chúc tiếp theo. Ơn chúa, thì ra không phải một dạng sốt xuất huyết hiếm hoi, mà chỉ là một cơn váng đầu sau cuộc phê.Tôi không ngờ rằng với mười cân thịt sút sau trận kiết lị thì tửu lượng giảm đi trông thấy.Với 52 kg và chiều cao 1,75 mét thì lẽ ra không nên tham gia một đêm đạp phá như vậy ( tuy vậy sau này nghĩ lại thì té ra những số cân đo ấy quá hợp lí khi làm cho một tạp chí thời trang.)
Tôi dũng cảm duỗi tứ chi ê ẩm trên chiếc đi văng trên đó tôi đã co quắp ngủ từ một tuần nay, tập trung tuần bộ tinh thần nén cơn buồn nôn trực trào lên. Không khó khăn lắm để làm quên trở lại đất Mỹ với những đồ ăn, cách hành xử, vòi hoa sen tắm đã lâu đời.Duy chỉ có việc ăn nhờ ở đậu này thì hơi khó tiêu. Nếu sống tằn tiện và vét nốt mấy đồng tiền Thái và Ấn Độ còn sót lại thì khoảng một chục hôm nữa thì là tôi nhẵn túi, và cách duy nhất để xin được tiền phụ huynh là quay trở về cái vòng luẩn quẩn vô tận với những lời ca thán. Chỉ nghĩ đến đấy là tôi lao ngay ra khỏi ổ, và cái ngày định mệnh của tháng Mười một ấy với việc không đầy một tiếng nữa là phải có mặt trong cuộc phỏng vấn đầu tiên trong đời. Cả tuần vừa qua, khi người ngợm còn uể oải,dặt dẹo, tôi ườn xác trên cái đi văng nhà Lily cho đến khi cô ta phải tống tôi ra khỏi nhà, ít nhất mỗi ngày vài tiếng đồng hồ. Không biết phải làm gì cho hết thì giờ, tôi mua một vé tàu điện ngầm, lãng đãng di cả một ngày ngang dọc thành phố và nộp hồ sơ xin việc ở tòa soạn của tất cả các tập chí lớn: sơ yếu lí lịch và một tấm là đơn khá cẩu thả trình bày rằng tôi muốn làm trợ lý biên tập và nhặt nhạnh vài kinh nghiệm đầu đời trong nghề viết lách.Tôi còn quá mệt mỏi và ốm yếu để quan tâm xem có ai đọc mấy thứ đó không, huống hồ là hy vọng sẽ được gọi đến phỏng vấn. Song hôm qua điện thoại của Lily réo chuông, và kì diệu thay, một người ở phòng nhân sự Elias Clark muốn gọi tôi tới “ hàn huyên”. Tôi không chắc đó có là một cuộc phỏng cấn thật sự hay không, nhưng trong trạng thái cuả tôi từ “ hàn huyên” nghe sướng tai hơn.
Tôi chiêu một vài viên thuốc đau đầu với một cốc Pepto và bới trong đống quần áo để tìm ra một chiếc áo khoác và quần, trong không hẳn hợp nhau lắm một cách lí tưởng nhưng ít nhất cũng quấn quanh được bộ xương còm nhom của tôi.Một chiếc áo sơ mi màu lam cái khuy, tóc buộc đuôi ngưa trông không đến nỗi khó coi, một đôi giày sục khá xơ xác, thế là đủ bộ. Không ngon mắt lắm, tôi biết, thậm chí hơi phản cảm, nhưng buộc phải chấp nhận thôi.Chẳng nhẽ họ đuổi hay nhận mình chỉ vì bộ cánh bên ngoài sao, tôi nghĩ bụng.Rõ rồi. Tôi còn ngây thơ lắm.
Tôi có mặt đúng mười một giờ để vào phỏng vấn.Và tái mặt khi trông thấy một loạt những thân hình mảnh mai chân dài đến nách đang đứng chờ thang máy. Họ nói như không để môi mọc da non, đẹm vài tiếng gót giày cao gót kêu lách cách đanh nhọn trên nền nhà.Lũ cẳng sếu kia, tôi nghĩ bụng. Quá hoàn hảo ( thang máy đến rồi) Hít vào, thở ra tôi tự nhủ, không được nôn ra ở đây, không được nôn, mi đến đây để chuyện trò đôi chút về việc làm trợ lí biên tập, rồi quay bề ngay với chiếc đi văng nhà Lily. Mi không được nôn.Vâng, tất nhiên tôi thích làm việc cho Reaction! The buzz cũng hay đấy, tất nhiên.Sao cơ °°? Tôi được phép chọn sao? Được °°, cho phép tôi suy nghĩ một hôm nữa để quyết định giữa mấy chỗ ấy và MAison vous.Rất hân hạnh!
Mấy giây sau, một biển in chữ KHÁCH được dán xộc xệch trên bộ cánh cũng khá xộc xệch của tôi trước khi tôi lao người vào thang máy ( KHi tôi kịp nhận ra rằng tất cả khách khứa đều chỉ dán hờ hững nó trên túi, và thậm chí vứt luôn vào sọt rác, chỉ có hạng lơ quơ, quê mùa mới dán nó lên ngực-thì đã quá muộn.) Thang máy lên cao, cao, và cao nữa, một chuyến bay qua không gian và thời gian và vẻ khêu gợi vô tận, tới…cửa phòng nhân sự.
Tôi cho phép mình được thư giãn một chút trong khi chiếc thang máy nhẹ lướt lên cao. Mùi nước hoa khêu gợi trộn lẫn với hương vị da thuộc tươi rói làm cho chiếc thang máy hoàn toàn vô hồn chợt thoáng về sexy. Chúng tôi lướt qua các tầng gác dừng lại để thả ra các mỹ nhân đến với Chic, mantra, The Buzz và Coquette. Cửa thang máy nhẹ nhàng mở ra, để tầm mắtb phóng tới bộ phận lễ tân trang hoàn màu trắng. Bàn ghế lịch thiệp, đường nét đơn giản, thách thức bất kỳ ai dám ngồi lên đó. Không thể tưởng tượng ra ai đó lỡ tay làm vấy bẩn lên đệm trắng! Trên tường bao quanh lối đi nổi bật những hàng chữ đen quen mắt viết tên của các tạp chí mà đứa trẻ con nào ở Mỹ cũng biết, nhưng không ai tin là tất cả đều quần tụ trong một tòa nhà chọc trời duy nhất này. Những tấm cửa kính mờ dày cộp chắn mọi ánh mắt không mời.
Tuy rắng cho đến nay chưa làm công việc gì hơn là vài lần đi bán kem sữa chua, tôi cũng nghe đủ chuyện từ các bạn cùng học ngày xưa và đã đi làm được vài tháng để biết là thế giới của công việc không như thế này. Hoàn toàn không. Ở đây tuyệt đối vắng bóng những đèn tuýp xanh lét kinh tởm và thảm trải trơ lì với vết giày. Thay vì những bà thư ký cổ hủ núp thu lu sau bàn giấy là các cô gái trẻ mượt mà với gò má cao và trang phục ngất trời. Hãy quên khẩn trương khái niệm đồ dùng văn phòng! Mấy trang bị cơ bản như sổ ghi giờ hẹn, sọt rác, sách vở, đơn giàn là không được phép có mặt nơi đây. Nỗi sửng sốt về những ma trận trắng toát hoàn hảo của tôi chợt biến mất ở tầng sáu, khi một giọng cay độc xoáy vào tai tôi.
" Con khốn nạn ấy chứ gì? Tớ không thể chịu được nó nữa. Ai nghĩ chuyện ấy cơ chứ? Tớ nói thật đấy - AI NGHĨ RA CHUYỆN ẤY?" Một cô gái trước mặt tôi rít lên. Cô ta chừng 25 tuổi, với chiếc váy da rắn và băng vải cũn cỡn che ngực nom như sắp tới sàn nhảy chứ không phải giữa thanh thiên bạch nhật ở văn phòng.
" Tớ biết rồi, biết rồồồi. Cậu có biết là 6 tháng qua tớ đã phải chịu đựng những gì không? Con khốn nạn. Nó còn có gu thẩm mỹ khá tanh tưởi nữa chứ. " Cô bạn gái vừa phụ họa vừa lắc quầy quậy mái đầu cắt tỉa rất ưa mắt.
Ơn Chúa, rốt cuộc tôi cũng lên đến tầng định tìm, và cửa thang máy mở ra không tiếng động. Thú vị đấy, tôi nghĩ bụng. Tuy nhiên, so với một ngày bình thường của một nữ sinh viên bình thường thì mức đánh giá " thú vị " có lẽ hơi bị thấp. Choáng? Không, thế thì hơi quá. Dễ thương, thân thiện, ấm áp? Không, không đúng hẳn. Một nơi để ta đáng nở một nụ cười thỏa mãn và làm việc tử tế? Hoàn toàn sai! Nhưng, nếu ai tìm sự nhanh nhạy, mảnh mai, kiểu cách, tân tiến và sành điệu đến ngộp thở, thì, Elisa Clark là thiên đường.
Các đồ trang sức lộng lẫy và lớp phấn phủ hết chê của cô gái lễ tân trước phòng nhân sự quả là không giúp gì xoa dịu mặc cảm tự ti ngày càng tăng lên của tôi. Cô mời tôi ngồi và " cứ tự nhiên ngắm qua mấy ấn phẩm của công ty". Thay vì làm việc đó, tôi điên đầu lên để cố ghi nhớ tất cả tên các tạp chí mà công ty xuất bản - cứ làm như người ta sẽ thách đố tôi chuyện ấy. Kìa! tôi đã biết Stephen Alexander của Reaction, tất nhiên, và nhớ được tên Tanner Michel của The Buzz cũng dễ thôi. Thật ra thì đó cũng là hai sản phẩm duy nhất đáng chú ý của nhà xuất bản này nên tôi cảm thấy khá vững tâm.
Một phụ nữ nhỏ nhắn xưng tên là Sharon ra đón tôi. " Chị là người muốn đến làm việc ở tạp chí này, đúng không? " Bà ta hỏi trong khi dẫn tôi diễu qua một hàng búp bê chân dài nom giống hệt nhau vào văn phòng bày biện tinh giản và lạnh lẽo của mình, " Vừa rời ghế đại học thì quả là lắm vấn đề, chị biết đấy. Cả trăm người tranh nhau xin làm một nhúm công việc. Mà mấy chỗ làm còn trống ấy thì cũng chẳng được hưởng mức lương hậu hĩnh lắm đâu, chắc chị hiểu tôi muốn nói gì."
Tôi đưa mắt nhìn xuống bộ cánh rẻ tiền chắp vá cùng đôi giày quê kệch của mình và tự hỏi tại sao lại dẫn xác đến đây làm gì. Khôn ngoan thì kiếm mấy gói bim bim và thuốc lá đủ dùng cho nửa tháng rồi rúc về cái đi văng của Lily là hơn. Quá luẩn quẩn với ý nghĩa ấy, tôi không nhận ra bà ta khẽ nói tiếp" Tuy nhiên tôi được phép tiết lộ với chị, đây là một dịp may bất ngờ. Nhưng chị phải nhanh tay kẻo tuột mất."
A ha. Hệ thống báo động của tôi tức khắc được khởi động, trong lúc tôi cố đón ánh mắt của bà ta. Cơ hội? Nhanh tay? Đầu óc tôi tỉnh như sáo. Bà ta định giúp mình? Có cảm tình với mình? Nhưng tại sao? Tôi đã mở miệng nói câu nào đâu cơ chứ - cớ gì mà bà ấy có cảm tình với mình được? Và chẳng hiểu tại sao giọng bà ta chuyển sang ngọt như mía lùi, chẳng khác gì một tay bán ô tô cũ đang mời khách hàng?
" Chị có thể cho tôi biết tên chủ bút của Runway được không?" Bà hỏi tôi, lần đầu tiên nhìn thẳng vào mắt tôi từ lúc tôi ngồi xuống ghế.
Chấm hết. Không gì khác ngoài dấu chấm hết to tướng. Trong đầu tôi hoàn toàn trống rỗng. Thật không ngờ là tôi bị bà ta thách đố. Cả đời tôi chưa hề giở tờ Runway ra bao giờ, thật bất công khi gặp đúng câu hỏi này. Ai đọc Runway làm gì cơ chứ, nó chẳng qua chỉ là một tạp chí thời trang, chắc là không có lấy một bài viết tử tế trong đó, trừ mấy người mẫu nhom nhem như suy dinh dưỡng và ảnh quảng cáo bóng bẫy. Tôi lúng búng như ngậm hột thị. Tên tuổi các chủ bút mà lúc nãy tôi cố nhồi nhét vào óc nhảy múa loạn xạ trong đầu và chắp lại thành những cặp đôi khập khiễng. Tôi tin là tôi biết tên bà chủ bút - ai mà chẳng biết. Có điều là nó không chịu nảy ra trong óc.
" À, vâng, ngay lúc này tôi không nhớ ra. Nhưng tôi biết tên bà ấy quá đi chứ, dĩ nhiên tôi biết, ai chả biết cái tên đó. Chỉ tội ngay lúc này thì tôi không nhớ ra."
Bà săm soi nhìn tôi một hồi, cặp mắt nai dán chặt vào khuôn mặt tôi đang tứa mồ hôi. " Miranda Priestley," bà thì thào với giọng pha lẫn sùng kính và khiếp đảm. " Bà ấy là Miranda Priestley."
Cả hai cùng im lặng. Dường như cả một phút đằng đẵng chúng tôi im lặng nhìn nhau. Nhưng rồi Sharon rõ ràng quyết định lờ đi lỗi lầm trầm trọng này của tôi. Ngày đó tôi chưa biết là Sharon đang vất vả ra sao để tìm ra một chân trợ lý mới cho Miranda cũng như không thể chịu nổi cảnh cả ngày lẫn đêm bị sếp gọi điện tra hỏi đã có ứng cử viên tiềm năng nào chưa. Cắn răng tìm một ai khả dĩ vừa lòng Miranda. Và nếu tình cờ chỉ có một hy vọng cỏn con là chính tôi sẽ đỡ bớt gánh nặng đó thì cố nhiên Sharon không được phép cầu toàn quá mức.
Sharon nhếch mép mỉm cười và cho biết bây giờ tôi sẽ đi gặp hai trợ lý của Miranda. Những hai trợ lý?
“ Đúng thế,” Sharon uể oải xác nhận. “ Tất nhiên Miranda cần hai trợ lý. Trợ lý chính Allison vừa được lên chức biên tập viên về thẩm mỹ của Runway, và trợ lý trẻ là Emily sẽ thế chỗ Allison, nghĩa là chỗ cô ấy sẽ trống cho một người mới vào! Andrea, tôi biết là chị vừa rời ghế đại học nên chắc là chưa thể biết tường tận các công việc của giới báo chí…” bà ngưng giọng đầy kịch tính để tìm chữ nào cho hợp. “ Nhưng tôi có linh cảm muốn nói, đúng hơn là phải nói cho chị biết rằng một cơ hội ngàn vàng đang mở ra trước mắt chị. Miranda Priestley…” bà lại dừng lần nữa đầy kịch tính, tựa như đang kính cẩn nghiêng mình trước mặt bà sếp tưởng tượng,” Miranda Priestley là người đàn bà có ảnh hưởng lớn nhất trong công nghiệp thời trang và thực sự là một trong những chủ bút tạp chí danh giá nhất thế giới. Toàn thế giới! Cơ may được làm việc cho một nhân vật như thế, được quan sát công tác biên tập và tiếp kiến những cây bút và người mẫu nổi tiếng, được hỗ trợ nhất cử nhất động của bà hằng ngày – quả là nghìn năm có một. Chắc là tôi khỏi phải nhấn mạnh với chị rằng hàng triệu cô gái sẵn sàng xin chết để được làm việc này.
“ Thế ạ, vâng, tôi muốn nói là nghe rất tuyệt.” tôi thoáng ngạc nhiên tại sao Sharon phải dỗ tôi làm một công việc mà hàng triệu người khác sẵn sàng xin chết vì nó. Nhưng bây giờ tôi không có thì giờ để cân nhắc. Sharon nhấc điện thoại nói một câu ngắn rồi tiễn tôi luôn ra phía thang máy để đi phỏng vấn ở chỗ hai trợ lý của Miranda,
Bản thân Sharon đã nói giông giống như một robot, nhưng còn thua xa Emily. Sau khi xuống đến tầng 17, tôi vật vã nửa tiếng ngồi đợi ở khu lễ tân trắng toát sang trọng của Runway cho đến lúc một cô gái cao kều bước ra khỏi cánh cửa
Kính. Cô ta mặc chiếc váy da đến nửa bắp chân, mái tóc đỏ bất trị buộc cao lên thành một búi trễ nãi nhưng vô cùng quyến rũ. Cô có nước da trắng xanh mịn màng không một vết tàn nhang và lưỡng quyền ấn tượng nhất mà tôi từng thấy. Không hề mỉm cười, cô ngồi xuống bên tôi, nhìn tôi từ đầu tới chân, nghiêm nghị nhưng thoáng chút tò mò. Hời hợt. Do cô ta không tự giới thiệu nên tôi đoán đó là Emily. Đột ngột cô cất tiếng giải thích cho tôi về công việc phải làm. Cái giọng đều đều của cô cho tôi biết nhiều hơn nội dung những lời kể lể: có lẽ cô ca bài này đến hàng chục lần rồi, và cũng chẳng trông đợi gì ở tôi hơn các ứng cử viên khác, nói cho cùng thì chỉ tốn thì giờ vô ích với tôi mà thôi.
“ Mệt lắm, đó là điều chắc chắn. Ngày làm việc kéo dài 14 tiếng, không phải thường xuyên như thế, nhưng cũng chẳng hiếm, ” cô mở máy, mắt vẫn không nhìn tôi. “ Và quan trọng là chị phải biết sẽ không được giao nhiệm vụ biên tập nào cả. Là trợ lý trẻ cho Miranda nghĩa là sẵn sàng làm bất cứ việc gì bà cần. Từ đặt mua loại giấy viết vẫn được ưa thích hay theo chân bà đi shopping. Ít nhất thì cũng luôn có thay đổi. Tôi định nói là hằng ngày, hằng tuần, hằng tháng chị như cái bóng của người đàn bà độc nhất vô nhị này. Đúng thế, độc nhất vô nhị. ” Giọng cô nhẹ như gió thoảng; lần đầu tiên từ khi bắt đầu nói chuyện, có chút sức sống hiện ra trong điệu bộ của cô.
“ Nghe hay đấy,” tôi nói – và cũng tin như vậy. Các bạn cùng học với tôi nay đã trải qua sáu tháng trong môi trường công tác thực tế, ai cũng than vãn ngán ngẫm, bất kể họ làm ở nhà băng, công ty quảng cáo hay nhà xuất bản – tất cả đều kêu khổ. Ở đâu cũng rên rỉ về ngày làm việc lê thê, đồng nghiệp đểu giả và những trò hành hạ ở nơi làm việc, song cái khổ nhất là không khí buồn tẻ. So với những đòi hỏi hồi còn ở trường thì công việc được giao hôm nay thật ngu xuẩn, vô dụng và đáng đem dạy con khỉ làm thì hơn. Họ ngồi hàng tiếng đồng hồ để nhập thông số vào kho dữ liệu, gọi điện chào hàng tới những người ghét bị quấy rầy, lập danh mục các dữ liệu vô dụng trên màn hình computer hoặc điều tra nghiên cứu hàng tháng trời những đề tài chẳng ai cần để rốt cuộc chứng tỏ cho sếp biết là mình có làm việc. Ai trong bọn họ cũng có cảm giác là trong có mấy tháng từ khi tốt nghiệp đến giờ họ chỉ ngu thêm đi và chẳng thấy tia sáng nào cuối đường hầm. Bản thân tôi cũng không mặn mà chuyện thời trang, nhưng thà suốt ngày làm cái gì đó vui vẻ còn hơn ôm lấy một công việc tẻ nhạt.
“Vâng, việc thú vị đấy. Rất thú vị. Tôi nói thật đấy. Rất hân hạnh được làm quen với chị. Bây giờ tôi đi gọi Allison cho chị gặp. Bà ấy rất hay.” Chưa nói dứt câu, cô ta đã biến mất sau cửa kính cùng chiếc váy da sột soạt và những lọn tóc phất phới, và một thân hình thon thả khác xuất hiện.
Phải nói rằng Allison, cựu trợ lý chính của Miranda vừa lên chức, là một cô gái da màu cực kỳ ấn tượng. Tôi vẫn nhớ là cô ta quá gầy, và ngạc nhiên về phần bụng của cô hóp vào và xương hông trồi hẳn ra. Nhưng còn ngạc nhiên hơn là được mặc hở bụng ở nơi làm việc. Cô mặc một cái quần da màu đen bó chặt, áo trên màu trắng xù bông ( hay lông? ) bó căng ngực để hở đến năm phân trên rốn. Mái tóc dài, đen như mực, phủ xuống lưng như một tấm mền dày lóng lánh. Móng tay và móng chân sơn trắng và như phát sáng từ bên trong, đôi xăng đan cao gót hở ngón nối thêm bảy phân vào thân hình 1.80 mét của cô. Người cô đồng thời trộn lẫn nét khêu gợi khó tả, sự lõa lồ e ấp và quý phái. Song tôi chỉ thấy lạnh lẽo, theo đúng nghĩa đen, chả gì thì cũng đã cuối tháng Mười một.
“ Xin chào, tôi là Allison. Nhưng chắc chị biết rồi,” cô mở đầu và nhón ra mấy sợi vải của chiếc áo cũn cỡn vương trên bắp đùi teo tóp. “ Tôi vừa được nâng lên chức biên tập, và đó là nét thực sự tuyệt vời trong khi làm việc cho Miranda. Thế đấy, ngày thì dài và công việc thì căng thẳng, nhưng cực kỳ thú vị và hàng triệu cô gái sẵn sàng xin chết vì nó đấy. Miranda là một phụ nữ, chủ bút và con người tuyệt vời, bà luôn thực sự chăm chút những cô gái làm việc cho mình. Hãy làm việc cho Miranda một năm, chị sẽ tiết kiệm hàng năm trời vất vả bon chen ở những nơi khác. Nếu có năng khiếu, chị sẽ được Miranda đưa ngay lên đỉnh cao, và …” Cứ thế, cô tiếp tục huyên thuyên và chẳng thèm bận tâm lồng vào lời nói của mình một chút gì tương tự như niềm phấn khích giả tạo. Trong mắt tôi thì cô ta không hẳn là ngu, nhưng ánh mắt của cô hơi có quầng sương đờ đẫn của những tín đồ theo một tà giáo nào đó hay những kẻ bị tẩy não. Tôi tin là nếu tôi ngủ quay ra đó, lấy ngón tay ngoáy mũi hay đứng dậy đi mất thì cô ta cũng chẳng nhận ra.
Rồi cuộc trò chuyện ấy cũng xong; lúc Allison đi kiếm người tiếp tục phỏng vấn thì tôi gần như lả đi vì mệt mỏi trên cái ghế đệm ở phòng lễ tân kém thân thiện. Mọi thứ diễn ra nhanh quá, tuột mất khỏi tầm kiểm tra, làm tôi quay cuồng đầu óc. Tôi không biết Miranda Priestly là ai thì có sao đâu? Có vẻ như tất cả đều chịu ấn tượng rất sâu đậm về bà ta thì phải. Dĩ nhiên, đây chỉ là một tạp chí thời trang chứ không phải thứ gì đó ghê gớm, nhưng làm việc ở Runway rõ ràng còn thú vị gấp bội so với mấy tờ báo thương mại kinh tởm nào khác, đúng không nào? Sau này, nếu tôi tới xin việc ở The New Yorker thì cái tên Runway trong lý lịch công tác sẽ gây nhiều tín nhiệm hơn là một nơi làm việc vớ vẩn nào đó, ví dụ như tờ Cơ khí thường thức chẳng hạn. Vả lại; chẳng phải hàng triệu cô gái sẵn sàng xin chết để được làm việc này hay sao?
Sau khi tôi vẩn vơ với những suy tưởng đại loại như thế mất thêm nửa giờ nữa, lại thêm một cô gái cao kều và ốm nhom khác tiến vào phòng lễ tân. Cô xưng tên mình, nhưng tôi chẳng để ý mà chỉ tập trung dán mắt vào người cô ta. Cô mặc một chiếc váy bò chật ních, rách tơi tả, áo sơ mi trắng trong suốt và xăng đan quai nhỏ tí màu bạc. Cô có nước da rám nắng tuyệt đẹp, móng tay nuột nà, và khoe nhiều da thịt theo cái lối không một ai đầu óc bình thường dám làm khi ngoài trời có tuyết rơi. Khi cô ra hiệu cho tôi đứng dậy và theo cô đi qua cửa kính, tôi mới thực sự ý thức được bộ dạng của mình trong mấy món đồ quê kệch phát khiếp và mái tóc èo uột. Không có lấy một món đồ trang sức hay son phấn cho tử tế. Cho tới tận bây giờ tôi vẫn rùng mình nhớ lại hôm ấy đã ăn mặc ra sao, lại còn cắp theo một thứ gì từa tựa như cái cặp đựng tài liệu nữa chứ. Tôi vẫn đỏ mặt phừng phừng khi nhớ lại cảnh mình đã ngơ ngác đứng giữa những người mẫu hào nhoáng và kiểu cách nhất NewYork City. Mãi về sau, khi đã mon men sán lại gần được đẳng cấp của bọn họ thì tôi mới biết rằng họ khoái trá bình phẩm tôi ra sao giữa các vòng phỏng vấn.
Sau khi dò xét tôi từ chân lên đầu, cô nàng đẹp dã man nọ dẫn tôi tới gặp bà Cheryl Kenston, tổng biên tập của Runway và là một người đồng bóng dễ mến. Cuộc nói chuyện với bà có vẻ như cũng lê thê không dứt, nhưng lần này tôi chú ý lắng nghe. Lý do là bà ta có vẻ yêu công việc của mình thực sự. Bà say sưa nói về chuyện chủ nghĩa của tạp chí, về các bài báo tuyệt vời mà bà được đọc, các cây bút do bà quản lý và các biên tập viên dưới quyền bà.
“ Tôi tuyệt đối không dính gì đến mảng thời trang của tạp chí”, bà tự hào tuyên bố, “ chị muốn biết gì thì tốt nhất nên đi hỏi người khác.”
Khi tôi thú thực là thật ra tôi thích làm những việc như ở chỗ bà, vì tôi không hề thích thú gì và cũng chẳng có những kiến thức nền về chuyện thời trang, nụ cười của bà nở đến tận mang tai. “ Thế hả Andrea, vậy thì chị đúng là người chúng tôi cần tìm cũng nên. Tôi nghĩ là đã đến lúc chị làm quen Miranda rồi đấy. Và nếu tôi được phép cho chị một lời khuyên: hãy nhìn thẳng vào mắt bà ta, và đừng ngại nói tốt về chính mình. Bà ấy ưa những người như thế.”
Cứ như đã hẹn trước, cô nàng đẹp dã man lượn vào đưa tôi đến văn phòng của Miranda. Đoạn đường từ sau cách cửa kính mờ của tổng biên tập qua phòng các trợ lý đi chưa hết nửa phút, song tôi cảm thấy mọi cặp mắt đều dồn vào mình. Một mỹ nương đứng cạnh máy photocopy quay hẳn người lại để dò xét tôi, cũng như một anh chàng điển trai nhưng lộ rõ vẻ đồng tính, và anh ta cũng chỉ chăm chú quan sát cách ăn mặc của tôi. Tôi đến trước ô cửa dẫn tới tiền sảnh dành cho các trợ lý của Miranda, vừa toan bước vào thì Emily giật phắt chiếc túi xách của tôi và quẳng xuống gầm bàn của cô. Tôi sững lại một tích tắc để hiểu ra thông điệp Ôm thứ này vào thì thà nghỉ ở nhà cho khỏe. Rốt cuộc thì tôi cũng vào đến phòng Miranda: thoáng đãng, rộng rãi, cửa sổ choán hết tường để ánh sáng tràn vào. Ngoài ra, tôi không nhớ lại được chi tiết nào trong căn phòng gây ấn tượng cho tôi hôm ấy, vì tôi không thể rời mắt khỏi bà.
Do chưa nhìn thấy Miranda Priestly trên bất cứ tranh ảnh nào nên tôi ngạc nhiên khi thấy bà mảnh khảnh như vậy. Bà chìa tay ra, những ngón tay thật nữ tính, mềm mại, dài và thanh nhã như một nghệ sĩ dương cầm. Bà phải ngửa đầu lên mới nhìn thẳng được vào mắt tôi, nhưng bà không đứng dậy khi chào. Mái tóc nhuộm vàng tuyệt hảo của bà chải thành một búi trang nhã sau gáy, lồng vừa vặn để tạo vẻ thoải mái, nhưng cũng đủ chặt để không tuột sợi nào ra. Và ngay cả khi không mỉm cười thì bà vẫn không làm cho người ta phải e sợ. Thậm chí còn có vẻ dịu dàng và yếu ớt đằng sau chiếc bàn to tướng màu đen. Tôi chẳng ngại chuyện bà không mời ngồi mà điềm nhiên tự lôi lại cho mình một trong mấy chiếc ghế cứng màu đen dành cho khách. Giờ thì bà ta chăm chú quan sát những nỗ lựa của tôi cố tỏ vẻ tự tin và bặt thiệp với ánh mắt đượm về thích thú. Có thể bà là người cao ngạo và khó gần, được thôi, nhưng tôi không nghĩ rằng bà thuộc loại xấu xa và nhỏ nhen. Bà lên tiếng trước.
“ Vì sao chị tìm đến Runway, Aan-dree-aa?” Bà hỏi với ngữ điệu tiếng Anh của giới quý phái, mắt vẫn không rời khỏi tôi.
“ Tôi xin được phỏng vấn ở chỗ bà Sharon, và được biết là bà cần một trợ lý riêng.” Tôi bắt đầu, giọng vẫn hơi run. Thấy bà gật đầu, tôi tự tin thêm một chút. “ Và sau khi nói chuyện với Emily, Allison và Cheryl, tôi nghĩ rằng tôi biết rõ là bà cần tìm nhân viên như thế nào, và tôi tin mình rất thích hợp công việc đó,” tôi nói, trong đầu vẫn nhớ những gì Cheryl dặn. Bà ta thoáng vẻ lắng tai, nhưng vẫn lạnh nhạt.
Và đó là lúc mà tôi muốn giật lấy công việc này bằng được, giống như khi người ta cầu mong có được thứ gì quá xa vời. Nó không giống như xin vào trường luật hay có một bài viết được in trong tạp chí của trường, mà trong trạng thái cắn răng tấn tới của tôi đó là một thử thách thực sự, khiến tôi thành một kẻ trí trá liều mạng – dù không xuất sắc lắm. Từ phút đầu bước chân vào đây tôi đã rõ rằng mình không thuộc dạng hợp cạ với Runway, tôi biết quần áo tóc tai của tôi không đúng mốt, nhưng tệ nhất là quan điểm của tôi đối với nghề này. Tôi không biết gì về thời trang, mà cũng chẳng thèm biết làm gì. Cần gì cơ chứ. Nhưng chính vì thế mà tôi phải có chỗ làm này bằng được. Vả lại, chẳng phải hàng triệu cô gái sẵn sàng xin chết vì nó hay sao?
Tôi trả lời tiếp những câu hỏi của Miranda về cá nhân mình với một vẻ cả quyết và tự tin đến nỗi chính tôi cũng phải ngạc nhiên. Không có cả thì giờ để e sợ nữa. Thêm vào đó, bà ta cũng có vẻ rất dễ chịu và cho tới lúc đó tôi chẳng biết gì không hay về bà. Cuộc trò chuyện chỉ hơi chựng lại khi bà hỏi tôi biết ngoại ngữ nào. Khi biết tôi nói tiếng Do Thái cổ, bà ngừng lời, xòe tay chống lên mặt bàn và lạnh lùng hỏi: “ Tiếng Do Thái à? Tôi lại hy vọng chị biết tiếng Pháp, hoặc tối thiểu một thứ tiếng nào đó hữu dụng hơn.” Suýt nữa thì tôi xin lỗi, nhưng kìm lại được.
“ Tiếc là tôi không nói được lấy một câu tiếng Pháp, nhưng tôi nghĩ rằng đó không phải là vấn đề lớn.”
Miranda chắp hai tay lại.
“ Trong hồ sơ thấy chị đã học ở đại học Brown?”
“ Vâng, ngành tiếng Anh, tôi đi sâu môn sáng tác. Viết văn luôn là nỗi đam mê của tôi.” Sến quá! Tôi thầm mắng mình. Mình có nhất thiết phải dùng từ “ đam mê” không?
“ Ra thế, chị mê viết lách đến nỗi không quan tâm gì đến thời trang hay sao?” Bà uống một ngụm nước suối rồi nhẹ nhàng đặt cái ly xuống. Rõ ràng bà ta thuộc loại phụ nữ biết uống mà không làm dính một vệt son ghê tởm trên miệng ly. Và bất cứ thời điểm nào, ngày cũng như đêm, luôn có cặp môi đánh son hoàn hảo.
“ Ồ không, không phải! Tôi nghiện thời trang là đằng khác,” tôi nói dối lem lẻm. “ Tôi đang cố gắng học hỏi thêm về thời trang, và tin là một ngày đẹp trời được viết về đề tài này thì tuyệt quá.” Có trời mới biết tại sao tôi lại tuôn ra mấy lời như thế. Cứ như tôi là một người khác đứng bên cạnh và nghe mình lải nhải.
Câu chuyện cứ thế nhàn nhạt trôi đi, cho đến khi bà ta đặt câu hỏi cuối cùng về các tạp chí thời trang mà tôi thường đọc. Tôi hăng hái rướn ra phía trước và bắt đầu kể: “ Tôi đặt mua dài hạn The New Yorker và Newsweek, nhưng tôi thường xuyên xem The Buzz, thỉnh thoảng đọc Time nhưng thấy tờ ấy khá khô khan, còn U.S.News thì bảo thủ quá. Tất nhiên đôi khi tôi cũng ngó qua tờ Chic ngớ nhẩn, và từ khi đi du lịch về tôi đọc tất cả các tạp chí du lịch và …”
“ Chị có đọc Runway không?” Bà ngừng nói, tì người lên bàn và săm soi tôi kỹ hơn lúc nãy.
Chuyện xảy ra nhanh quá, bất ngờ quá, chộp đúng lúc tôi thiếu cảnh giác nhất. Tôi ngớ ra, không kịp nói dối hay giải thích lòng vòng.
“Không.”
Mười giây im lặng nặng như chì. Miranda ra hiệu cho Emily tiễn tôi ra khỏi phòng. Tôi tin là mình được nhận vào làm.