Thỉnh bà Vũ Hậu đều liền đắn đâyThỉnh ông Nguyên soái Chinh TâyCùng bà Vương mẫu sum vầy một khiThỉnh ông Phật tổ A DiThập phương chư Phật phù trì giúp ông Lại mời công chúa Ngũ LongBình Nam ngũ hổ hội đồng an dinhThỉnh trong thiên tướng, thiên binhCùng là tam phủ Ðộng-Ðình xích lânThỉnh trong khắp hết quỉ thầnCũng đều xuống chốn dương trần vui chơiCho người ba đạo phù trờiUống vào khoẽ mạnh như lời chẳng sai,Tiểu đồng vâng lĩnh theo lờiLấy phù trợ lại toan bài thuốc thangVào nhà thưa với thầy NgangPháp phù đã đũ thày toan phương nào?Ngang rằng còn bạc trong baoThời ngươi khá lấy mà trao cho thàyÐồng rằng: Tôi hãy ở đâyBệnh kia dầu khá mình này bán điTriệu Ngang biết chẳng còn chiKiếm lời tráo chác đuổi đi khỏi vòngỞ đâu hàng xóm khó lòngE khi mưa nắng ai phòng đỡ che Ðồng rằng: Trong gói vắng hoeBởi tin nên mắc, bởi lo nên lầmNhững lo chạy hết một trămMột ve khô xép, ruột tằm héo donThương thay tiền mất tật cònBơ vơ đất khách thon von thế nàyThôi thôi gắng gượng khỏi đâyTôi đi khuyên giáo đỡ ngày gạo rauVân Tiên chi xiết nỗi sầuTiểu đồng dìu dắt qua cầu Lá BuônÐương khi mưa gió luông tuồngNgười buồn lại gặp cảnh buồn khá thươngXiết bao ăn tuyết nằm sươngMàn trời chiếu đất dặm trường lao đaoDẫu cho tài trí bậc nàoGặp cơn nguy biến biết sao cho thườngBơ vơ lạ khách tha hươngNhân tình nào biết ai thương mà nhờTiên rằng: đi đã ngất ngơTìm cây cối bụi bờ nghỉ chân Ðồng rằng: Chốc nữa khỏi rừngTìm nơi quán xá sẽ dừng nghỉ ngơiNon Tây vừa khuất mặt trờiTớ thày dìu dắt tới nơi Ðại đềTrường thi một lũ vừa vềTrịnh Hâm xem lại thấy kề hỏi thămAnh về nay đã hai rằmCớ sao mang bệnh còn nằm nơi đâyTiên rằng:Tôi vốn chẳng mayChẳng hay chư hữu khoa này thể nao?Hâm rằng: Tử Trực đỗ caoTôi cùng Bùi Kiệm đều vào cử nhânMột tôi về trước viếng thânHai người trở việc có lần đi sauÐương cơn hoạn nạn gặp nhauNgười lành nỡ bỏ người đau sao đànhTừ đây tới quận Ðông thànhTrong mình có bệnh bộ hành sao xongLần hồi đến chốn giang trungTìm thuyền ta sẽ tháp tùng với nhau Tiên rằng: Tình trước ngãi sauCó thương xin khá giúp nhau phen nàyHâm rằng: Anh tạm ngồi đâyTiểu đồng ngươi tới trước này cùng taVào rừng kiếm thuốc ngoại khoaPhòng khi sóng biển phong ba bất kỳTiểu đồng vội vã ra điMuốn cho đặng việc quản gì lao đaoTrịnh Hâm trong dạ gươm đaoBắt người đồng tử trói vào gốc câyTrước cho hùm cọp ăn màyHại Tiên phải dụng mưu này mới xongVân Tiên ngồi những đợi trôngTrịnh Hâm về nói tiểu đồng cọp ănVân Tiên than khóc nằm lănCó đâu điạ hãm thiên băng thình lìnhBấy lâu đất khách lưu linhMột thày một tớ lộ trình nuôi nhauNày đà hai ngã phân nhauCòn ai nâng trước, đỡ sau cho mình Hâm rằng: Anh chớ ngại tìnhTôi xin đưa tới Ðông thành thời thôiVân Tiên chi xiết lụy rơiBuồm đà theo gió chạy xuôi một bềTiểu đồng bị trói khôn vềKêu la chẳng thấu bốn bề rừng hoangPhần mình còn mất chi màngCám thương họ Lục suối vàng bơ vơXiết bao nhưng nỗi vật vờÐò giang nào biết, bụi bờ nào hayVân Tiên hồn có linh ràyÐem tôi theo với đỡ chân tay cùngVái rồi lụy nhỏ ròng ròngÐêm khuya ngồi dựa cội tòng ngủ quênSơn quân ghé lại một bênCắn dây mở trói cõng lên ra đàngTiểu đồng thức dậy mơ màngXem qua dấu vết ràng ràng mới hayNửa mừng nửa lại sợ thayChạy ra chốn cũ kiếm thầy Vân Tiên Mặt trời vừa khỏi mái hiênNgười buôn kẻ bán chợ phiên rộn ràngHỏi thăm bà quán giữa đàngBữa qua có mấy người tang chăng là?Quán rằng: Thôi đã ra maKhi mai xóm làng người đà đi chônTiểu đồng nghe nói kinh hồnHỏi rằng biết chỗ nào chôn chỉ chừngTay lau nước mắt rưng rưngXẩy nghe tiếng nói đầu rừng lao xaoTiểu đồng vội vã bước vàoXóm làng mới hỏi: Thằng nào tới đây?Ðồng rằng tớ tới kiếm thầyChẳng hay người thác mả này là ai?Người rằng: Một gã con traiỞ đâu khôn biết, lạc loài tới đâyChân tay, mặt mũi tốt thayÐau chi nên nỗi nước này khá thương.Tiểu đồng chẳng kịp hỏi hanNằm lăn bên mả khóc than một hồi Người người xem thấy thương ôiKêu nhau vác cuốc đều lui ra đàngTiểu đồng nằm giữa rừng hoangChe chòi giữ mả lòng toan trọn bềMột mình ở đất Ðại ÐềSớm đi khuyên giáo, tối về quảy đơmDốc lòng trả nợ áo cơmSống mà trọn nghĩa, thác thơm danh hiềnThứ này đến thứ Vân TiênNăm canh ngồi dựa be thuyền thở thanTrong khăn lụy nhỏ be thuyền thở thanCám thương phận tớ mắc nàn khi khôngLênh đênh thuyền giữa biển ÐôngRiêng than một tấm cô bồng ngẩn ngơÐêm khuya lặng lẽ như tờNghênh ngang sao mọc, mịt mờ sương bayTrịnh Hâm khi ấy ra tayVân Tiên bị ngã xô ngay xuống vờiTrịnh Hâm giả tiếng kêu trờiCho người thức dậy lấy lời phôi pha Trong thuyền ai nấy kêu laÐều thương họ Lục, xót xa tấm lòngVân Tiên mình lụy giữa dòngGiao long dìu đỡ vào trong bãi rầyVừa may trời đã sáng ngàyÔng chài xem thấy vớt ngay lên bờHối con vầy lửa một giờÔng hơ bụng dạ, mụ hơ mặt màyVân Tiên vừa ấm chân tayNgìn ngơ hồn phách như say mới rồiNgỡ là mình phải nước trôiHay đâu còn hãy đặng ngồi dương gianNgư ông khi ấy hỏi hanVân Tiên thưa hết mọi đàng gần xaNgư rằng: Người ở cùng taHôm mai hẩm hút một nhà cho vuiTiên rằng: Ông lấy chi nuôiThân tôi như thể trái mùi trên câyMay mà trôi nổi đến đâyKhông chi báo đáp, mình này trơ trơ Ngư rằng: Lòng lão chẳng mơDốc lòng nhân nghĩa, há chờ trả ơnNước trong rửa ruột sạch trơn Một câu danh lợi chi sờn lòng đâyRày doi mai vịnh vui vầyNgày kia hứng gió, đêm này chơi trăngMột mình thong thả làm ănKhoẻ quơ chài kéo, mệt quăng câu dầmNghêu ngao nay chích mai dầmMột bầu trời đất vui thầm ai hayKinh luân đã sẵn trong tayThung dung dưới thế, vui say trong trờiThuyền nan một chiếc ở đờiTắm mưa chải gió trong vời Hàn GiangTiên rằng: Vậy cũng một làngVõ công người ở gần đàng đây chăng?Ngư rằng: Nhà ở cũng gầnKhỏi ba khúc vịnh thời lần đến nơiTiên rằng: Xưa đã gá lờiSui gia bao nỡ đổi dời chẳng thương Vợ chồng là đạo tào khươngChi bằng tới đó tìm phương gửi mìnhTrăm năm muốn trọn ân tìnhÐương khi hoạn nạn ai đành bỏ nhauChút nhờ cứu tử ơn sâuXin đưa tới đó trước sau cho tròn.Ngư rằng: Làm đạo rạ conCũng như sợi chỉ mà lòn trôn kimSợ bay mà mỏi cánh chimBơ vơ cảnh lạ khôn tìm cây xuaE khi chậm bước tới trưaChớ tin sông cũ bến xưa mà lầmMấy ai ở đặng hảo tâmNắng đun chóp nón mưa dầm áo tơiMấy ai hay nghĩ sự đờiChú thích:1.Vũ Hậu: Vũ Chiếu, vợ Ðường Cao Tông, Cao Tông chết, con là Trung Tông lên kế ngôi, được mấy tháng, bà phế con tự lập làm vua, đổi hiệu nhà Ðường là nhà Chu. Sau bọn Trương Giản Chi phù Trung Tông phục lại ngôi vua, tôn hiệu bà là Tắc Thiên đại thánh hoàng đế, người sau nhân gọi là Vũ Tắc Thiên.2.Nguyên soái Chinh Tây: theo chính sử, Tiết Nhân Quí, một tướng tài đời Ðường Thái Tông, thường đánh Ðông dẹp Tây, phá được các nước Cao-Ly, Khiết-Ðan, Ðột-khuyết. Người sau đã nhân sự tích náy diễn thành tiểu thuyết Chinh Ðông chinh Tây.3.Vương mẫu: tức Tây Vương mẫu, cũng là gọi là Kim mẫu, một bà tiên lãnh đạo tất cả các nữ tiên, ở cõi Dao trì (nơi Vương mẫu ở có ao ngọc gọi là Dao trì), thường có nhiều chuyện giao thiệp với trần gian.4.A Di: tức A Di Ðà, tên hiệu vị Phật tổ chí tôn ở thế giới cực lạc phương Tây. Di Ðà nguyên là một quốc vương xuất gia, sau khi mãn quả thành phật, do công đức tu hành, Di Ðà đã tạo được một cõi quảng đại trang nghiêm, trong đó chỉ có vui sướng không có khổ sở, gọi là thế giới cực lạc, những chúng sinh ở thập phương, người nào nhất tâm niệm phật, tu phật, đều được Di Ðà tiếp dẫn về thế giới ấy.5. Công chúa Ngũ Long: tức Thành Long, Hắc Long, Bạch Long, Xích Long, Hoàng Long, năm vị công chúa (năm con gái Long vương) trong truyện "Thuyết Ðường", năm vị này tu tiên ở núi Ngũ-long, có nhiều phép lạ, từng bày ngũ trận "Ngũ hành" giúp nước Tây phiên đánh nhau với quân nhà Ðường.6.Bình Nam ngũ hổ: năm tướng mạnh như hổ đi đánh phương Nam trong tiểu thuyết "Ngũ Hổ Bình Nam". An dinh: đóng yên dinh trại, nói đến tụ họp nơi bàn dinh7.Tam phủ: Thiên phủ, Ðịa phủ, Thủy phủ.8.Ðộng Ðình: tên một cái hồ lớn đẹp có tiếng ở tỉnh Hồ-Nam Trung-Quốc. Xích lân: không rõ tác giả tác giả dùng điển gì. Xích lân: nguyên nghĩa là vẩy đỏ, có lẽ chỉ thần "rồng" hay "cá" có vẩy đỏ, một vị thủy thần ở Ðộng-Ðình, mà phải thỉnh vị thần gì ở hồ ấy.9.Dương trần: cõi dương bụi bặm, tức cõi đời.10.Pháp phù:phép và bùa để chữa bệnh11.Tráo chác: trở tráo, đổi chác, tức là lừa dối, trở mặt.12.Vắng hoe: ở đây là cạn hết tiền.13.Khuyên giáo: đi quyên tiền, đi xin.14.Cầu Lá buôn: buôn (có chỗ viết là buôm) là một thứ cây gồi, cây cọ ở miền Nam, lá dùng làm nón và áo tơi. Trung-quốc thì không có địa danh Lá Buôn, nhưng ở tỉnh Biên Hòa, có cái rạch (sông nhỏ) gọi là rạch Lá Buôn, trên có một các cầu gọi là cầu Lá Buôn, đường quan lộ từ Huế vào Gia Ðịnh đi qua cái cầu này. (Theo Gia định Thống chí của Trịnh Hoài Ðức).15.Hai rằm: hai tháng.16.Chư hữu: các bạn17.Viếng thân: thăm cha mẹ.18.Trở việc: bận việc19.Giang trung: giữa sông tức là nơi có sóng nước, nơi bến đò.20.Tháp tùng: chữ "tháp" chính âm là "đáp", nói đáp thuyền mà đi cùng. Tiếng này rất phổ biến ở Nam bộ.21.Trong dạ gươm đao: do câu chữ Hán "Phúc trung hữu kiếm": trong bụng có gươm, nói tâm địa bất nhân, hiểm ác.22.Ðịa hãm thiên băng: đất sụp trời sụp. Tai biến rất lớn.23.Lưu linh: trôi nổi lạc loài, nay đây mai đó.24.Suồi vàng: do chữ Hán "hoàng tuyền", tức cõi chết. Ðây nói tiểu đồng nghĩ thương cho Vân Tiên không ai dìu dắt nuôi nấng chắc đã chết rồi.25.Ðò giang nào biết, bụi bờ nào hay: nói hồn Vân Tiên - cái hồn mù mắt - vật vờ không biết lối mà đi.26.Cội tòng: gốc cây thông27.Sơn quân: vua núi, tức là cọp.28.Ràng ràng: rõ ràng.29.Người tang: người mặc quần áo tang, chỉ Vân Tiên.30.Quảy đơm: cúng lễ31.Be thuyền: mạn thuyền32.Mắc nàn khi không: bỗng dưng mắc nạn33.Cô bồng: cô: lẻ loi, bồng: mui thuyền. Nói chiếc thuyền lẻ loi một mình.34.Vời: khoảng nước rộng.35.Phôi pha: chữ phôi pha dùng ở câu này có nghĩa: làm cho nhẹ chuyện đi, che lấp việc đi.36.Giao long: con rồng nước, rồng bể, có tính hung tơn hay gây sóng gió. Vân Tiên và tiểu đồng đều là người rất tốt, nên giao long hay sơn quân cũng cảm thông mà đến cứu giúp. Sông Cửu-long có nhiều cá sấu, cũng gọi là giao long.37.Bãi rầy: bãi này.38.Hối: giục vội. Vầy lửa như nghĩa nhóm lửa39.Nước trôi: nói chết bị nước cuốn đi.40.Hẩm hút: hẩm: hư hỏng, biến chất (gạo hẩm, đường hẩm). Hút: (tiếng miền Nam, nói về gạo) không trắng, không ngon. Danh từ hẩm hút dùng để chỉ thứ gạo xấu, thức ăn người nghèo, cũng như nói rau cháo. Câu này nói: tuy nhà nghèo, nhưng thây mật vui vẽ.41.Trái mùi: trái chím lắm. Vân Tiên nói: trái cây chín mùi, tất phải rụng, cũng như thân mình, bệnh hoạn ốm yắu nhiều, tất phải chết, sẽ phụ cả công ơn của ngư ông.42.Doi: dải đất thòi ra ngoài bể, ngoài sông (doi bể, doi sông).43.Chích: cái hồ, cái đầm.44.Kinh luân: ông ngư nói: ông có tài chài lưới, cũng chẳng kém gì người trị nước có tài kinh luân.45.Dưới thế: dưới đời46.Tắm mưa chải gió: tắm mình bằng mưa, chải đầu bằng gió. Do câu chữ Hán "Trất phong mộc vũ": chải gió gội mưa, chỉ sự cần lao dầu dãi ở ngoài trời.47.Gá lời: như nói hứa lời.48.Sui gia: thân gia, dâu gia, hai nhà gả con cho nhau.49.Cứu tử: cứu cho khỏi chết.50.Sợi chỉ lòn trôn kim: lòn tức là luồn. nói: sợi chỉ phải vừa với trôn kim, cũng như con rạ phải hợp với nhà vợ. Ông ngư sợ rằng: ngày nay Vân Tiên đã tang tóc sa sút lại đeo tật bệnh, chắc sẽ bị nhà vợ ruồng rẫy mà không nhận nữa.51.Nắng đun: đun: nung đốt, nắng đun cũng như nói nắng nung. Chóp nón: hai chữ này có lẽ là "nón chóp" chép lộn đi. ở dưới đặt chữ "áo tơi", thì đây phải đặt chữ "nón chóp", văn mới sóng nhau, vậy nên đổi làm "nón chóp" cho được đúng nghĩa, đúng văn. Nón chóp là thứ nón lá hình chóp, hình chum chúp.