Trước đèn xem chuyện Tây MinhGẫm cười hai chữ nhân tình éo leHỡi ai lẵng lặng mà ngheDữ răn việc trước, lành dà thân sauTrai thời trung hiếu làm đầuGái thời tiết hạnh là câu trau mìnhCó người ở quận Ðông ThànhTu nhân tích đức sớm sinh con hiềnÐặt tên là Lục Vân TiênTuổi vừa hai tám, nghề chuyên học hànhTheo thầy nấu sử sôi kinhTháng ngày bao quản sân Trình lao đaoVăn đà khởi phụng đằng giaoVõ thêm ba lược sáu thao ai bìXẩy nghe mở hội khoa thiVân Tiên vào tạ tôn sư xin về:"Bấy lâu cửa Thánh dựa kềÐã tươi khí tượng lại xuê tinh thầnNay đà gặp hội long vânAi ai mà chẳng lập thân buổi này.Chi lăm bắn nhạn ven mâyDanh tôi đặng rạng, tiếng thầy bay xaLàm trai trong cõi người taTrước lo báo bổ, sau là hiển vang"Tôn sư bàn luận tai nànGẫm trong số hệ khoa tràng còn xaMáy trời chẳng dám nói raXui thầy thương tớ xót xa trong lòngSau dầu tỏ nỗi đục trongPhải toan một phép để phòng hộ thânRày con xuống chốn phong trầnThầy cho hai đạo phù thần đem theoChẳng may mà gặp lúc nghèoXuống sông cũng vững, lên đèo cũng anTôn sư trở lại hậu đàngVân Tiên ngơ ngẩn lòng càng sanh nghiChẳng hay mình mắc việc chiTôn sư người dạy khoa kỳ còn xaHay là bối rối việc nhàHay là đức bạc hay là tài sơBấy lâu ra sức công thưHội này chẳng gặp còn chờ hội naoNên hư chẳng biết làm saoChi bằng hỏi lại lẽ nào cho minhÐặng cho rõ nỗi sự tìnhNgõ sau ngàn dặm đăng trình mới anTôn sư ngồi hãy thở thanNgó ra trước án thấy chàng trở vôHỏi rằng: Vạn lý trường đồSao chưa cất gánh trở vô việc gìHay là con hãy hồ nghiThầy bàn một việc khoa kỳ ban trưaVân Tiên nghe nói liền thưaTiểu sinh chưa biết nắng mưa thế nàoSong đường tuổi hạc đã caoXin thầy nói lại âm hao con tườngTôn sư nghe nói thêm thươngDắt tay ra chốn tiền đường coi trăngNhân cơ tàng sự dặn rằng: Việc người chẳng khác việc trăng lên trờiTuy là soi khắp nơi nơiKhi mờ, khi tỏ, khi vơi, khi đầySau con cũng tỏ lẽ nàyLựa là trước phải hỏi thầy làm chiSố con hai chữ khoa kỳKhôi tinh đã rạng, tử vi thêm lòaHiềm vì ngựa chạy đằng xaThỏ vừa ló bóng, gà đà gáy tanBao giờ cho tới bắc phangGặp chuột ra đàng, con mới nên danhSau dầu đặng chữ hiển vinhMấy lời thầy dạy tiền trình chẳng saiTrong cơ bĩ cực thái laiGiữ mình cho vẹn việc ai chớ sờnVân Tiên vội vã tạ ơnTrăm năm dốc giữ keo sơn một lời.Ra đi vừa rạng chân trờiNgùi ngùi ngó lại nhớ nơi học đườngTiên rằng: Thiên các nhất phương Thầy đeo đoạn thảm, tớ vương mối sầuQuản bao thân trẻ dãi dầuMang đai Tử Lộ quảy bầu Nhan UyênBao giờ cá nước gặp duyênÐặng cho con thảo phỉ nguyền tôi ngayKể từ tách dặm đến nayMỏi mê tính đã mấy ngày xông sươngÐoái nhìn phong cảnh thêm thươngVơi vơi dặm cũ, nẻo đường còn xaChi bằng kiếm chỗ lân giaTrước là tìm bạn sau là nghĩ chânViệc chi than khóc tưng bừngÐều đem nhau chạy vào rừng lên nonTiên rằng: Bớ chú cõng conViệc chi nên nỗi bon bon chạy hoàiDân rằng: Tiểu tử là aiHay là một lũ sơn đài theo taoTiên rằng: cớ sự làm saoHãy dừng gót lại mà trao một lờiDân nghe tiếng nói khoan thai Kêu nhau đứng lại vài lời phân quaNhân rày có đảng lâu laTên là Ðỗ Dự, hiệu là Phong LaiNhóm nhau ở chốn sơn đàiNgười đều sợ nó có tài khôn đươngBây giờ xuống cướp thôn hươngThấy con gái tốt qua đường bắt điXóm làng chẳng dám nói chiCảm thương hai gã nữ nhi mắc nàn.Con ai vóc ngọc mình vàngMá đào mày liễu dung nhan lạnh lùngE khi mắc đảng hành hungUổng trang thục nữ sánh cùng thất phuThôi thôi chẳng dám nói lâuChạy đi cho khỏi kẻo âu tới mìnhVân Tiên nổi giận lôi đìnhHỏi thăm lũ nó còn đình nơi naoTôi xin ra sức anh hàoCứu người cho khỏi lao đao buổi này.Dân rằng: Lũ nó còn đây Qua xem tướng bậu thơ ngây đã đànhE khi họa hổ bất thànhKhi không mình lại xô mình xuống hang.Vân Tiên ghé lại bên đàngBẻ cây làm gậy nhắm làng xông vô.Kêu rằng: Bớ đảng hung đồChớ quen làm thói hồ đồ hại dânPhong Lai mặt đỏ phừng phừngThằng nào lại dám lẫy lừng vào đây.Trước gây việc dữ tại màyTruyền quân bốn phía phủ vây bịt bùngVân Tiên tả đột hữu xungKhác nào Triệu Tử mở vòng Ðương dangLâu la bốn phía vỡ tanÐều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngayPhong Lai trở chẳng kịp tayBị Tiên một gậy thác rừng thân vongDẹp rồi lũ kiến chòm ong,Hỏi: Ai than khóc ở trong xe này?Thưa rằng: tôi thiệt người ngay Sa cơ nên mới lầm tay hung đồTrong xe chật hẹp khôn phôCúi đầu tôi lạy cứu cô tôi cùngVân Tiên nghe nói động lòng,Ðáp rằng: Ta đã trừ dòng lâu laKhoan khoan ngồi đó chớ raNàng là phận gái ta là phận traiTiểu thư con gái nhà aiÐi đâu đến nỗi mang tai bất kỳChẳng hay tên họ là chiKhuê môn phận gái việc gì đến đây?Trước sau chưa hãn dạ nàyHai nàng ai tớ ai thầy nói ra?Thưa rằng: Tôi Kiều Nguyệt NgaCòn con tì tất tên là Kim Liên.Quê nhà ở quận Tây XuyênCha làm tri phủ ngồi miền Hà-khêSai quân đem bức thư vềRước tôi qua đó định bề nghi giaLàm con đâu dám cãi cha Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đànhChẳng qua là sự bất bìnhHay vầy cũng chẳng đăng trình làm chiLâm nguy chẳng gặp giải nguyTiết trăm năm cũng bỏ đi một hồiTrước xe quân tử tạm ngồiNgõ chi tiện thiếp lạy rồi sẽ thưaChút tôi liễu yếu đào thơGiữa đường lâm phải bụi dơ đã phầnHà khê qua đó cũng gầnXin theo cùng thiếp đền ân cho chàngGặp đây đương lúc giữa đàngCủa tiền chẳng có, bạc vàng cũng khôngTương câu báo đức thù côngLấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi.Vân Tiên nghe nói liền cườiLàm ơn há dễ trông người trả ơnNay đà rõ đặng nguồn cơnNào ai tính thiệt so hơn làm gìNhớ câu kiến ngãi bất vi Làm người thế ấy cũng phi anh hùngÐó mà biết chữ thủy chungLựa là đây phải theo cùng làm chiNguyệt Nga biết ý chẳng điHỏi qua tên họ một khi cho tường.Thưa rằng: Tiện thiếp đi đườngChẳng qua quân tử quê hương nơi nào?Phút nghe lời nói thanh taoVân Tiên há nỡ lòng nào phôi phaÐông Thành vốn thiệt quê taHọ là Lục thị tên là Vân Tiên.Nguyệt Nga vốn đấng thuyền quyênTai nghe lời nói tay liền rút trâmThưa rằng: Nay gặp tri âmXin đưa một vật để cầm làm tinVân Tiên ngơ mặt chẳng nhìnNguyệt Nga liếc thấy càng thìn nết naVật chi một chút gọi làThiếp thưa chưa dứt chàng đà làm ngơCủa này là của vất vơ---1.Truyện Tây Minh không rõ lai lịch, hoặc một tiểu thuyết cũ của Trung Quốc, hoặc là tác giả bịa ra, đó còn là một điều nghi vấn. Xét trong sách Tính-lý, Tây Minh là một bài triết là do Trương Tái nhà nho học đời Tống soạn ra, luận về đạo hiếu và đạo nhân, có lẽ Nguyễn Ðình Chiểu mượn đầu đề ấy mà đặt tên cho truyện để nêu cao cái bản lĩnh hiếu và nhân của Lục Vân Tiên, mà tựu trong là phản ánh cái bản lĩnh của mình.2. Dữ răn việc trước, lành dà thân sau: câu này ý nói là người nghe nên trông gương nhân vật trong chuyện mà răn sợ điều lành đạ hưởng phúc yên về sau.3.Trau mình: sửa mình (tiếng miền Nam). Trau có nghĩa là làm cho tốt hơn, đẹp hơn.4.Ðông Thành: tên một huyện ở tỉnh An-huy, Trung Quốc. Những địa danh trong truyện Lục Vân Tiên không chắc chắn là chỉ những địa điểm ở Trung Quốc. Ở tỉnh An-giang (Châu-đốc) xưa kia cũng có Ðông-Thành và con sông Ðông-Thành.5.Tu nhân tích đức: sửa điều nhân, chứa điều đức, nghĩa là làm cho lòng thương người, trí làm lành của mình ngày càng tăng thêm.6.Nấu sử sôi kinh: học kinh và sử nhiều lần cho thật chín.7.Sân trình: sân nhà họ Trình (tức anh em Trình Hiệu hiệu Minh Ðạo và Trình Di hiệu Y Xuyên, là hai nhà đại nho đời trước thuật các sách nho giáo, dạy được nhiều học trò hiền tài ở thời bấy giờ). Người ta thường nói cửa Khổng (Khổng Tử) sân Trình là chỉ những người theo nèn nếp đạo nho hay những trường học tậo đạo nho.8.Khởi phụng đằng giao: con phượng trỗi dậy, con rồng bay cao, chỉ văn chương xuất sắc lỗi lạc.9.Ba lược sắc thao: do chữ Hán Tam lược, Lục thao, tên hai quyển sách nói về cách dùng binh.10.Xẩy nghe: chợt nghe, sực nghe.11.Tôn sư (si): thầy học đáng kính trọng. Chữ sư chính âm đọc là chữ si, ta đọc chệnh ra sư.12. Cửa thánh: chỉ trường học đạo thánh, cũng như cửa Khổng.13. Khí tượng: cái nghĩa cũ: cái khí thế, cái dáng cách biểu hiện ra bên ngoài. -nghĩa mới: hiện tượng của không khí, như mưa gió, nóng lạnh v.v... Ðây dùng nghĩa cũ. Xuê: xinh tốt, đẹp đẽ (tiếng miền Nam). ý Vân Tiên nói: những đạo đức và nghề văn nghề võ mà thầy trau giồi cho bản thân tôi nó đã dành chứa ở phần tinh thần bên trong và biểu lộ ra phần khí tượng bên ngoài một cách tốt tươi.14.Long Vân: rồng mây. Kinh dịch có câu "Vân tùng long, phong tùng hổ", nghĩa là mây theo rồng, gió theo cọp, ý nói những vật cùng khí cùng loại thường cảm ứng và tìm đến với nhau, như rồng hiện thì mây kéo lại, cọp gầm thì gió sinh ra, người sau nhân ý ấy dùng chữ long vân hay phong vân (gió mây) để chỉ sự gặp gỡ tốt đẹp trong một cơ hội, như vua giỏi tôi hiền gặp nhau, hay thi đỗ, công danh thành đạt...15. Lập thân: lo cho thành người có sự nghiệp giúp dân giúp nước.16. Lăm: rắp toan nhưng có ý quyắt tâm17 Ven: bên, quyết bắn nhạn bên mây, nghĩa là muốn trổ tài để thỏa chí.18. Tôi: đây có nghĩa là học trò. Tác giả dùng chữ tôi, tớ để chỉ học trò trong câu: Thầy đeo đoạn thảm tớ vương mối sầu.19. Báo hổ: báo đáp đền bù. Hiển vang: hiển vinh. ý nói: Làm người vừa phải lo đền ơn thầy học, ơn cha mẹ vừa phải lo xây dựng công danh sự nghiệp của mình.20. Tai nàn: tai nạn.21. Khoa tràng (trường): chính nghĩa là trường thi, nơi thi cử, mượn dùng là việc thi cử hay kỳ thi cử. Ðây nói: xét theo số phận thì còn lâu mới thi đỗ.22.Máy trời: do chữ Hán là "thiên cơ", cái lẽ huyền diệu của trời.23. Ðục trong: dịch chữ Hán thường: thanh trọc, những thói hay dở ở đời.Trong truyện Lục Vân Tiên cũng như trong những văn thơ khác, Nguyễn Ðình Chiểu thường dùng hai chữ đục, trong để hình dung một cách cụ thể đạo đức nhân nghĩa (trong) và bất nhân bất nghĩa (đục).30. Phong trần: gió bụi. Danh từ này có ba nghĩa: 1) chỉ cõi đời rối ren hỗn tạp; 2)chỉ cảnh lữ khách gian khổ hay nói chung sự gian khổ ở đời; 3)chỉ việc giặc giã loạn lạc. ở đây dùng chỉ cõi đời rối ren, phức tạp và gian khổ.31. Phù thần: đạo bùa thiêng để hổ mệnh.32. Nghèo: hiểm nghèo, nguy hiểm.33. Hậu đàng: (hậu đường): nhà sau.34. Khoa kỳ: kỳ thi cử. Ðây nói thời kỳ thi đỗ.35. Ðức bạc: đức mỏng, không được bao nhiêu.36.Tài sơ: sơ là thô sơ, ý nói không giỏi.37.Công thư: công: chuyên làm một việc gì, công thư: chuyên vần vẳ sách vở.38.Nên hư: do chữ Hán "thành bại", nhưng dùng nghĩa rộng hơn: cùng thông, bĩ thái, hay dở, tốt xấu v.v... ở đây dùng như nghĩa hay dở.39. Minh: Rõ ràng.40.Ngõ sau: ngõ hầu sau lúc ấy.41.Ðăng trình: lên đường.42.Án: Bàn đọc sách.43.Vạn lý trường đồ: đường dài (xa) muôn dặm.44.Tiểu sinh: học trò nhỏ tuổi, tiếng xưng hô khiêm tốn.45.Song đường: cha mẹ, lấy ở chữ Hán "xuân đường" và "huyên đường" (chữ xuân ta quên đọc là thung, nhưng chính là âm xuân). Người ta thường gọi cha là "xuân đường" (nhà xuân) và mẹ là huyên đường (nhà huyên).46.Tuổi hạc: Hạc là loài chim sống lâu, tiêu biểu tuổi già.47.Âm hao: Tin tức.48.Tiền đường: nhà trước, nhà trên.49.Nhân cơ tàng sự: nhân cơ hội coi trăng mà ngụ ý việc người trong lời nói bí ẩn để chỉ bảo Vân Tiên.50.Khôi tinh: sao Thiên khôi. Theo thuật số tử vi, sao Thiên khôi chủ về văn học, sao Tử vi chủ về thân mệnh người ta. Cả câu ý nói: sao văn rạng lên, văn chương được nổi danh, nhưng sao mệnh lại mờ đi vận hạn gặp không may, đó là giải nghĩa theo chữ "lòa" là lu mờ. Lòa còn nghĩa là sáng chói, nên có người giải: văn tài đã rạng rỡ, thì thân phận cũng cao quí, nhưng xét đoạn văn, dưới có câu: Thỏ vừa ló bóng, gà vừa gáy tan (năm mão vừa học thành tài, năm dậu đã bị hoạn nạn), ngụ ý tài và mệnh tương phản với nhau, thì câu này cũng nên giải theo ý nghĩa tương phản, cái nọ tỏ thì cái kia mờ, để cho mạch văn được trên dưới hô ứng với nhau.52. Theo cách tính năm, tính tuổi trong môn thuật số, ngựa tiêu biểu năm "ngọ", thỏ năm "mão", gà năm "dậu", chuột năm "tí", ám chỉ năm "nhâm tí". Ngựa chạy đường xa: ý nóiThân thế Vân Tiên còn phải trải nhiều gian khổ, như con người, như con ngựa còn phải chạy hoài trên khoảng đường xa.53. Bắc phang (phương): phương Bắc, tính theo thập can, thuộc về "nhâm" và "quí". Bắc phang gặp chuột: tức "nhâm" gặp "tí", ám chỉ năm "nhâm tí". Mấy câu này cụ thể hóa "máy trời" và việc coi trăng mà Vân Tiên chưa hiểu rõ. Ðại ý là: Vân Tiên tuổi ngọ, cái tuổi còn nhiều vận hạn, đến năm mão học thành tài đi lập công danh, nhưng năm dậu gặp tai nạn, phải đắ năm nhâm tí mới công danh trọn vẹn.Ðối chiếu với tiểu sử Nguyễn Ðình Chiểu thì năm sinh nhằm năm nhâm ngọ (1822, tuổi ngựa), năm thi đỗ là quý mão (1843, Thỏ vừa ló bóng), năm bị mù là kỷ dậu (1849 -gà đã gáy tan), đúng với sự việc trong mấy câu này. Trong Lục Vân Tiên, tác giả đã tự thuật thân thế mình.54.Tiền trình: bước đường trước mắt, tức là tương lai.55.Bĩ thái: 2 tên quẻ trong kinh Dịch, bĩ tượng trưng sự cùng khốn, thái tượng trưng hanh thông, Bĩ cực thái lai: cái cùng đến hết mức thì cái thông trở lại, hết khổ đến sướng.56. Việc ai chớ sờn: chớ sờn lòng về việc làm của người đời (ám chỉ những việc lừa đảo, bất nhân của Trịnh Hâm và Võ công sau này).57.Keo sơn: hai chất dẻo, dính dùng để gắn đồ vật. Người ta thường dùng để chỉ sự bẳn chặt khăng khít trong tình bạn bè. ở đây có nghĩa là gắn bó đinh ninh.58.Thiên các nhất phương: mỗi người một phương.59.Tử lộ: tên của Trọng Do, một hiền triết đời Xuân thu, học trò Khổng tử, nhà nghèo, thường đội gạo thuê, lấy tiền nuôi mẹ.60.Nhan Uyên: Nhan Hồi, tên tự là Tử Uyên, một hiền triết đời Xuân thu, học trò giỏi nhất của Khổng tử, ông sống trong cảnh nghèo, (một giỏ cơm hầm, một bầu nước lã, ở nơi hang cùng ngõ hẻm) mà vẫn vui vẻ, dốc lòng học đạo. Cả hai câu có ý nói: với những hành lý thanh đạm của nhà nho, Vân Tiên vui vẻ lên đường, không quản ngại dãi dầu.61.Cá nước: Chỉ sự gặp gỡ mà tương đắc với nhau, như cá với nước. ở đây chỉ sự thi đỗ, công danh thành đạt62.Phỉ nguyền: thỏa lòng. Cả hai câu ý nói: biết bao giờ cá nước gặp duyên, công danh thành toại, để con người trung hiếu sẽ làm rạng rỡ gia đình và thỏa chí giúp vua giúp nước.63. Tách dặm: rời bước trên dặm đường.64.Xông sương: xông pha sương gió.65. Vơi vơi: nghĩa chính của tiếng Bắc là cạn bớt, cạn dần dần, hơi vơi. ở đây, tác giả dùng theo tiếng miền Nam, nghĩa là thăm thẳm. ở câu 234 "Dặm dài vơi vơi" câu 279 " vơi vơi đất rộng trời dài" dưới đây cũng như ở câu này, chữ "vơi vơi" đẳu dùng với nghĩa thăm thẳm, mênh mông. Dặm cũ: tức dặm đường về nhà.66.Lân gia: nhà hàng xóm. Ðây nói nhà ở gần đó.67.Tiểu tử: chú bé. Nhân dân thấy Vân Tiên ít tuổi nên gọi là như thế.68. Sơn dài: bọn cướp ở núi. Có lẽ trên quả núi mà bọn cướp ở có cái đài, nên gọi là sơn đài.69.Phân qua: bày tỏ qua.70. Thôn hương: thôn làng.71.Lạnh lùng: tiếng miền Nam, ý nói dung nhan rất đẹp.72.Thục nữ: người con gái có đức hạnh tốt, đoan chính dịu dàng.73. Thất phu: kẻ tầm thường, đâu là kẻ hèn mọn, thô bỉ.74.Âu: tức ưu, là lo. Chữ này là chính âm là ưu, ta đọc chệch là ưu.75.Lôi đình: sấm sét.76.Ðinh: dừng lại.77.Qua, bậu: tiếng miền Nam "qua" là ta, "bậu là "người", mày.78. Họa hổ bất thành: vẽ hổ không nên hình. Ðây nói: Vân Tiên muốn giúp người, nhưng e rằng làm không nên việc, lại gặp tai nạn.79.Hồ đồ: lờ mờ, không rõ ràng. Ðây nói không nghĩa lý chính đáng.80.Bịt bùng: kín mít.81. Tả xung, hữu xông: đánh vào bên trái, xông sang bên phải. Tung hoành trong trận.82.Triệu Tử: chàng họ Triệu. Triệu Vân tên là Tử Long, một tướng tài của Lưu Bị đời Tam quốc, một mình phá vòng vây của Tào Tháo ở trận Ðương Dương bảo vệ được A Ðẩu là con nhỏ của Lưu Bị.83.Thân vong: thân mạng mất đi, tức là chết, nghĩa giống như chữ "mạng vong". Ðây nói là chết bỏ thân.84.Khôn phô: phô là bày ra. ý nói trong xe chật hẹp, không để đứng lên để là lễ chào được.85.Mang tai bất kỳ: thình lình gặp tai nạn.86.Khuê môn: (quê môn) cửa phòng con gái. Chữ khuê chính là âm quê (chữ khuê là sao khuê cũng thế). Khuê môn phận gái: việc của con gái là chỗ buồng the, không đi ra ngoài.87. Chưa hãn dạ này: tức dạ này chưa hãn, văn đặt đảo ngược. Hán chưa rõ (tiếng miền Nam). Ðây Vân Tiên nói: Lòng này nghi hoặc, chưa rõ sự tình thế nào?88.Tì tất: đày tớ gái.89.Tây-xuyên: tên một tỉnh xưa ở phía Tây tỉnh Tứ Xuyên (Trung Quốc), ở tỉnh An Giang (Châu Ðốc) nước ta xưa cũng có quận Tây Xuyên.90. Hà Khê: trong nguyên từ điển Trung Quốc không có địa danh này. ở tỉnh Hà Tiên nước ta trước kia có những huyện Hà Châu, Hà Âm, Hà Dương. Có thể Nguyễn Ðình Chiểu đã dựa vào những tên ấy đã đặt ra tên Hà Khê chăng?91. Nghi gia: chính nghĩa là hòa thuận cửa nhà (nói người con gái khi về làm dâu). Ðây chỉ việc lập gia đình, lấy chồng.92.Bất bình: không thường, việc xảy ra trái ý mình.93.Hay vầy: biết như thế này (thường dùng ở miền Nam).94.Ðăng trình: lên đường, cũng như thượng trình.95.Quân tử: người có tài đức hơn người. Trong khi xưng hô giữa nam với nữ, tiếng quân tử có nghĩa là "chàng" như "Trách người quân tử bạc tình" (Ca dao) "Ðã lòng quân tử đa mang" (Truyện Kiều)96.Tiện thiếp: người đàn bà hèn mọn. Tiếng xưng hô khiêm tốn của phụ nữ ngày xưa. Những danh từ quân tử và tiện thiếp chỉ thường dùng trong văn thư cổ.97.Chút tôi: cái tôi nhỏ,cũng như tiếng chút thân,chút phận, cách nói khiêm tốn.98.Ðã phần: đã là phần của tôi.99.Báo đức công thù: đáp ơn đức, trả công lao.100.Kiến ngãi (nghĩa)bất vi: thấy việc nghĩa không làm. Sách Luận ngữ có câu: "Kiến nghĩa bất vi, vô dũng dã", nghĩa là thấy việc nghĩa không làm, không phải là người mạnh vậy.101.Phi anh hùng: chẳng phải anh hùng.102.Thanh tao: trong trẻo103.Phôi pha: nhạt đi, phai đi, kém vẻ đằm thấm, nhạt nhẽo lãnh đạm104.Lục thị: họ Lục105.Thuyền quyên: cái trạng thái tốt đẹp dễ coi, nói chung cả người và vật (như hoa, cây, trăng v.v...). Ta thường dùng để chỉ người "phụ nữ đẹp" hay người "phụ nữ" nói chung106.Tri âm: hiểu biết tiếng đàn. Nghĩa rộng là người biết mình, hiểu rõ mình, người bạn chí tình.107.Thìn: tiếng miền Nam cũng như giữ gìn.