Trời đà tối mịt, lạc chừng gần xaMột mình lạc nẻo, vào raLần theo đàng núi, phút đà tam canhMột mình trong chốn non xanhBiết ai mà hỏi lộ trình trở ra Ðoạn này tới thứ Nguyệt NgaỞ đây tính đã hơn ba năm rồiÐêm khuya chong ngọn đèn ngồiChẳng hay trong dạ bồi hồi việc chiQuan âm thuở trước nói chiÉo le phỉnh thiếp lòng ghi nhớ hoàiÐã đành đá nát vàng phaiCũng nguyẳn xuống chốn dạ đài gặp nhauKhôn trông mồng bảy đêm thâuKhôn trông bầy quạ đội cầu đưa saoPhải chi hỏi đặng Nam TàoÐêm nay cho đến đêm nào gặp nhauNguyệt Nga gượng giãi cơn sầuXảy nghe nhạc ngựa ở đâu tới nhàKêu rằng: Ai ở trong nhà?Ðường về quan ải chỉ ra cho cùngNguyệt Nga ngồi sợ hãi hùngVân Tiên xuống ngựa thẳng xông bước vàoLão bà lật đật hỏi chàoỞ đâu mà tới rừng cao một mình? Vân Tiên mới nói sự tìnhTôi là quốc trạng triều đình sai raÐem binh dẹp giặc Ô-quaLạc đường đến hỏi thăm nhà bà đâyLão bà nghe nói sợ thayXin ông chớ chấp tôi nay mụ giàVân Tiên ngồi ngắm Nguyệt NgaLại xem bức tượng lòng đà sinh nghiHỏi rằng: Bức ấy tượng chiKhen ai vẽ dung nghi giống mìnhÐầu đuôi chưa rõ sự tìnhLão bà khá nói tính danh cho tườngLão bà chẳng dám lời gianTượng này vốn thiệt chồng nàng ngồi đâyTiên rằng: Nàng xách lại đâyNói trong tên họ tượng này ta ngheNguyệt Nga lòng rất kiêng dèMặt thời giống mặt, còn e lạ ngườiNgồi che tay áo hổ ngươiVân Tiên thấy vậy mỉm cười một khi Rằng: Sao nàng chẳng nói điHay là ta hỏi động chi chăng làNguyệt Nga khép nép thưa qua:Người trong bức tượng tên là Vân TiênChàng đà về chốn cửu tuyềnThiếp làm trọn đạo, lánh miền gió trăngVân Tiên nghe nói hỏi phănChồng là tên ấy, vợ rằng tên chi?Nàng bàn tỏ thiệt một khiVân Tiên vội vã xuống quì vòng tay:Thưa rằng: Nay gặp nàng đâyXin đền ba lạy, sẽ bày nguồn cơnÐể lời thệ hải minh sơnMang ơn trước phải đền ơn cho rồiVân Tiên vốn thiệt là tôiGặp nhau nay đã phỉ rồi ước mơNguyệt Nga bảng lảng bơ lơNửa tin rằng bạn, nửa ngờ rằng aiThưa rằng: Ðã thiệt là ngàiKhúc nôi xin cứ đầu bài quân ra Vân Tiên dẫn tích xưa raNguyệt Nga khi ấy khóc òa như mưaÂn tình càng kể càng ưaMảng còn bịn rịn trời vừa sáng ngayXảy nghe quân ó vang vầyBốn bề rừng bụi khắp bày can quaVân Tiên lên ngựa trở raThấy cờ đề chữ hiệu là Hớn MinhHớn Minh khi ấy dừng binhAnh em mừng rỡ tỏ tình cùng nhauMinh rằng: Tẩu tẩu ở đâuCho em ra mắt chị dâu thế nàoVân Tiên đem Hớn Minh vàoNguyệt Nga đứng dậy miệng chào có duyênMinh rằng: Tưởng chị ở PhiênQuyết đem binh mã sang miền Ô-quaMừng rày sum họp một nhàGiặc đà an giặc, khải ca hồi tràoTiên rằng: Nàng tính thế nào?Nàng rằng: Anh hãy về trào tâu lên Ngỏ nhờ lượng cả bề trênLệnh tha tội trước mới nên về nhàTrạng nguyên từ giã lão bàDặn dò gửi lại Nguyệt Nga ít ngàyTôi về đem bức tượng nàyTâu cho khỏi tội, rước ngay về nhàTiên, Minh lên ngựa trở raÐem binh trở lại trào ca đề huềSở vương nghe trạng nguyên vềSai quân tiếp rước vào kề bên ngaiSở vương bước xuống kim giaiTay bưng chén rượu thưởng tài trạng nguyênPhán rằng: Trẫm sợ nước PhiênCó người Cố Ðột phép tiên lạ lùngNay đà trừ Cốt Ðột xongThật trời sinh trạng giúp trong nước nhàPhải chi sớm có trạng raLàm chi nên nỗi Nguyệt Nga cống HồLệnh truyền mở yến trà đôRày mừng trừ đặng giặc Ô-qua rồi Trạng nguyên quỳ tấu trước ngôiNguyệt Nga các việc khúc nôi rõ ràngSở vương nghe tấu ngỡ ngàngPhán rằng: Trẫm tưởng rằng nàng ở PhiênChẳng ngờ nàng với trạng nguyênCùng nhau trước có nhân duyên thuở đầuThái sư trước bệ quỳ tâuÔ-qua dấy động qua mâu cũng vìTrá hôn oán ấy gây nênNguyệt Nga nàng thiệt tội thì khi quânTrạng Nguyên mặt đỏ phừng phừngBèn đem bức tượng quỳ dưng làm bằngSở vương xem tượng phán rằng:Nguyệt Nga trinh tiết ví bằng người xưaThái sư trước chẳng lo lừaThiếu chưa dân thứ phải đưa tới nàngDầu cho nhật nguyệt rõ ràngKhôn soi chậu úp cũng mang tiếng đờiNgay gian sao cũng có trờiViệc này vì trẫm nghe lời nên oan Trạng nguyên tâu trước trào đàngThái sư trữ dưỡng tôi gian trong nhàTrịnh Hâm là kẻ gian tàHại tôi buổi trước cũng đà ghe phenSở vương phán trước bệ tiềnNhững ngờ tướng ngỏ tôi hiền mà thôiVậy cũng đạo chúa nghĩa tôiThái sư muốn cướp ngôi chín trùngHán xưa có gã Ðổng côngNuôi dòng Lã Bố cướp dòng nhà LưuÐời xưa tôi nịnh biết baoThái sư nay cũng khác nào đời xưaThấy người trung chính chẳng ưaRắp ranh kế độc, lập lừa mưu sâuTrịnh Hâm tội đáng chém đầuẤy là mới hết người sau gian tàSở vương phán trước trào caThái sư cách chức về nhà làm dânTrịnh Hâm là đứa bạo thầnGiao cho quốc trạng xử phân pháp hình Nguyệt Nga là gái tiết trinhSắc phong quận chúa hiển vinh rỡ ràngKiều công xưa mắc tội oanTrẫm cho phục chức làm quan Ðông-thànhTrạng nguyên dẹp giặc đã bìnhKiểu vàng tán bạc hiển vinh về nhàBãi chầu chư tướng trở raTrạng nguyên mời hết đều qua dinh ngồiHọ Vương, họ Hớn, họ BùiCùng nhau uống rượu đều vui, đều cườiTrạng nguyên mới hỏi một lờiTrịnh Hâm tội ấy các người tính saoTruyền quân dẫn Trịnh Hâm vàoMặt nhìn khắp hết, miệng chào các anhMinh rằng: Ai mượn kêu anhTrước đà đem thói chẳng lành thời thôi Kéo ra chém quách cho rồiÐể chi gai mắt, đứng ngồi căm ganTrực rằng: Minh nóng nói ngangGiết ruồi đâu xứng gươm vàng làm chi Xưa nay mấy đứa vô nghìDẫu cho có sống làm gì nên thânHâm rằng: Nhờ lượng cố nhânVốn tôi mới dại một lần xin dungTrạng rằng: Hễ đấng anh hùngNào ai có giết đứa cùng làm chiThôi thôi ta cũng rộng suyTruyền quân mở trói đuổi đi cho rồiHâm mừng khỏi thác rất vuiVội vàng cúi lạy chân lui ra vềCòn ngươi Bùi Kiệm máu dêNgồi chề bề mặt như sề thịt trâuHớn Minh, Tử Trực vào tâuXin đưa Quốc trạng kịp chầu vinh quiMột ngươi Bùi Kiệm chẳng điTrong lòng hổ thẹn cũng vì máu dêTrạng nguyên xe giá chỉnh tềSai quân hộ vệ rước về Nguyệt NgaBạc vàng đem tạ lão bàNguyệt Nga từ tạ thẳng qua Ðông-thành Võng điều, gươm bạc, lọng xanhTrạng nguyên, Tử Trực, Hớn Minh lên đàngTrịnh Hâm về tới Hàn GiangSóng thần nổi dậy thuyền chàng chìm ngay.Trịnh Hâm bị cá nuốt vâyThiệt trời báo ứng lẽ này rất ưngThấy vầy nên dửng dừng dưngLàm người ai, nấy thì đừng bất nhânTiểu đồng trước giữ mộ phầnNgày qua tháng lại đã gần ba nămCủa đi khuyến giáo mấy nămTính đem hài cốt về thăm quê nhàHiềm chưa thuê đặng người taCòn đương thơ thẩn vào ra Ðại ÐềTrạng nguyên khi ấy đi vềTruyền quân bày tiệc lo bề tế riêngTiểu đồng hồn bậu có thiêngThỏa tình thày tớ lòng thiềng ngày nayÐọc văn nhớ tới chau màyÐôi hàng lụy ngọc tuôn ngay ròng ròngNgười ngay trời phật động lòngPhút đâu ngó thấy tiểu đồng đến coiTrạng nguyên còn hãy sụt sùiNgó lên bài vị lại xui lòng phiềnTiểu đồng nhắm ngửa, nhìn nghiêng Ông này sao giống Vân Tiên cũng kỳÔng nào mất xuống âm tyÔng nào còn sống nay thì làm quan?Trạng nguyên khi ấy hỏi chàngPhải người đồng tử mắc nàn chốn niMấy năm tớ mới gặp thầyCúng nhau kể nỗi đắng cay từ ngằnAi dà còn thấy bổn quanBa năm gìn giữ mồ hoang đã rồiTrạng nguyên khi ấy mừng vuiTớ thầy sum họp tại nơi Ðại ÐềÐoạn thôi xe giở ra vềTuần du phút đã gần kề Hàn GiangVõ công từ xuống suối vàngThể Loan cùng mụ Quỳnh Trang đeo sầuMẹ con những mảng lo âuNghe Vân Tiên sống gặp chầu công danhCùng ta xưa có ân tìnhPhải ra đón rước lộ trình họa mayLoan rằng: Mình ở chẳng hay E ngưòi còn nhớ những ngày trong hanhTrang rằng: Con có hồng nhanCho chàng thấy mặt thời chàng ắt ưaVí dầu còn nhớ tích xưaMẹ con ta lại đổ thừa Võ côngCùng nhau bàn luận đã xongSoi gương đánh phấn ra phòng rước duyênNay đà tới thứ Trạng nguyênHàn giang đã tới, bỗng liền đóng quânBạc vàng châu báu áo quầnTrạng nguyên đem tạ đáp ân ngư tiềuNgư tiều nay đặng danh biêuƠn ra một buổi của nhiều trăm xeTrạng nguyên chưa kịp trở vềThấy Quỳnh Trang đã đừng kề trong quânTrang rằng: Tưởng chữ hôn nhânMẹ con tôi đến lễ mừng Trạng nguyênVõ công đã xuống huỳnh tuyềnXin thương lấy chút thuyền quyên phận nàyTrạng rằng: Bưng nước bát đầy Ðổ ngay xuống đất hớt rày sao xongOan gia nợ ấy trả xongThiếu chi nên nỗi mà mong tới đòiHớn Minh, Tử Trực đứng coiCười rằng: Hoa khéo làm mồi trêu ongKhen cho lòng chẳng thẹn lòngCòn mang mặt đến đèo bòng nỗi chiCa ca sao chẳng chịu điVề cho tẩu tẩu để khi xách giàyMẹ con đương thẹn thùng thayVội vàng cúi lạy chân quày bước raTrở về chưa kịp tới nhà Thấy hai ông cọp chạy ra đón đườngThảy đều bắt mẹ con nàngÐem vào lại bỏ trong hang Thương-tòngBốn bề đá lấp bịt bùngMẹ con than khóc khôn trông ra rồiTrời kia quả báo mấy hồiTiếc công trang điểm phấn giồi bấy lâuLàm người cho biết ngãi sâu Gặp cơn hoạn nạn cùng nhau cho trònÐừng đừng theo thói mẹ conThác đà mất kiếp, tiếng còn bia danhTrạng nguyên về tới Ðông-thànhLục ông trước đã xây dinh đầu làngBày ra sáu lễ sẵn sàngCác quan đi họ cưới nàng Nguyệt NgaSui gia đã xứng xui giaRày mừng hai họ một nhà thành thânTrăm năm biết mấy tinh thầnSinh con sau nối gót lân đời đờiHếtChú thích:1.Phản hồi bổn quân: trở về toán quân của mình2.Dạ đài: lâu đài đêm, đêm có nghĩa là tối tăm, chỉ nơi tối tăm của người chết. "Dạ đài" cũng như "tuyền đài" (đài suối vàng, tức là lâu đài dưới đất), nghĩa chính là "cái mả", mà nghĩa bóng là nói cõi âm, cõi chết.3.Mồng bảy đêm thâu (thu): đêm mồng bảy tháng bảy mùa thu. Bầy quạ đội cầu đưa sao: sao chỉ hai sao Khiên ngưu và Chức nữ. (Xem chú thích ở các câu 245, 246 và 1248). Nguyệt Nga nói, mình với Vân Tiên, khôn mong gặp nhau như Chức nữ gặp Ngư 1248).4.Nam Tào: theo thần thoại. Nam Tào và Bắc Ðẩu là hai vị thần giữ sổ sinh tử của trần gian.5.Dung nghi: dáng điệu6.Tính danh: họ tên7.Kiêng dè: dè dặt, thận trọng8.Gió trăng: chỉ thói dâm tà xấu xa9.Phăn: lần (phăn mối chỉ). Hỏi phăn: hỏi lần cho biết10.Thệ hải minh sơn: thề bể hẹn non, tức là chỉ bể chỉ núi mà thề: lời nói của mình bền vững như núi như bể.11.Khúc nôi: hay khúc nhôi, những chi tiết của sự việc, lai lịch khúc chiết. Ðầu bài: như nói câu chuyện. nói câu chuyện lai lịch thế nào, xin bàytỏ cho biết.12.Quân ó vang vầy: quân thét vang lừng.13.Can qua: mộc và mác, đồ binh khí. nói: quân gia kéo đến chung quanh rừng, la liệt những binh khí.14.Tẩu tẩu: chị dâu, dùng theo tiếng bạch thoại Trung Quốc. Ðây Hớn Minh coi Nguyệt Nga như chị dâu, nên xưng hô như thế. (Xem chú thích ở câu 1229)15.Khải ca hồi trào: hát khúc ca thắng trận trở về triều.16.Trào ca: triều đình, triều ban.17.Ðề huề: dắt tay nhau cùng đi. Nghĩa bóng là thân thiện mà dìu dắt nhau.18.Kim giai: thềm vàng19.Trà đô: nơi đô thị có triều đình.20.Qua mâu: giáo mác. Dấy động qua mâu: dấy binh xâm phạm21.Khi quân: dối vua, lừa vua. Tội khi quân là tội to thời xưa22.Dân thứ: cũng như dân chúng. nói: thiếu gì con gái nhân dân mà lại phải dùng đến nàng.23.Chậu úp: do chữ Hán "phú bồn", sách Bảo phác tử có câu "Tam quan bất chiếu phú bồn chi nội", nghĩa là ánh tam quang (mặt trời, mặt trăng và các vì sao) không soi vào được trong lòng cái chậu úp. Người ta thường nói: "Phú bồn chi oan": cái oan chậu úp, là chỉ sự oan ức không giải bày được. nói hai câu này: dù sáng suốt như mặt trời mặt trăng mà không xét đến nỗi oan tối tăm thì cũng mang tiếng xấu với đời.24.Trữ dưỡng: chứa chấp và nuôi nấng.25.Ghe phen: (tiếng miền Nam) nhiều phen, có phen.26.Tướng ngỏ: ngỏ có nghĩa là trung, giải bày cả tấm lòng thành thực với vua.27.Chín trùng: do chữ "cửu trùng": chín trùng cửa. Sở-từ có câu: Quân chi môn dĩ cửu trùng", nghĩa là cửa nhà vua những chín trùng, nói vua ở một nơi sâu thẳm. Nhân thế người ta gọi nơi vua ở hay bản thân vua là "cửu trùng". Ðây nói: thái sư muốn cướp ngôi vua.28.Ðổng công: Ðổng Trác. (Xem chú thích ở câu 1251)29.Nhà Lưu: nhà họ Lưu, tức nhà Hán.30.Bạo thần: kẻ bày tôi tàn ác31.Xử phân pháp hình: Theo hình phép nhà nước mà trị tội.32.Giết ruồi đâu xứng gươm vàng: nói người quân tử không thàm giết kẻ tiểu nhân, cũng như gươm vàng không đáng đem mà giết ruồi cho bẩn gươm. Câu này do câu ca dao: "Ðạn đâu bắn sẻ, gươm đâu chém ruồi".33.Vô nghì: phi nghĩa, bạc ác.34.Dung: tha cho35.Chề bề: một từ ngữ hình dung cái bộ mặt ê chệ khi bị nhơ nhuốc.36.Sề: một thứ rổ, đan bằng tre nứa, dùng đựng đồ vật. Sề thịt trâu: nói như cái rổ thịt trâu trông nhầy nhụa ê chệ.37.Vinh qui: vẻ vang trở về. Thời xưa, những người thi đỗ tiến sĩ, được vua ban mũ áo, cờ biển cho vẻ vang mà trở về, và được nhân dân tổ chức cuộc đón rước long trọng. Kịp chầu vinh qui: kịp thời (buổi, lúc) vinh qui. Trước đây Vân Tiên thi đỗ xong, chưa được vinh qui, phải đi đánh giặc ngay, nên nay mới xin vua cho kịp thời trở về.38.Rước về Nguyệt Nga: tức là rước Nguyệt Nga về. Câu này cũng như câu: "Vợ Tiên là chị Trực" ở phần trên, đảo ngữ gò ép để cho có vần.39.Báo ứng: giả lại xứng đáng những việc mình làm. Theo thuyết nhà Phật: làm điều thiện thì gặp thiện, làm điều ác thì gặp ác, đó là lẽ báo ứng. Rất ưng: rất phải, rất đúng.40.Mộ phần: mồ mã, cũng như phần một.41.Hài cốt: xương người chết. Tiểu đồng đi khuyên giáo được một số tiền, định thuê người đưa hài cốt chủ (người chết mà tiểu đồng nhận nhầm là Vân Tiên) về chôn ở quê nhà.42.Thiềng: do tiắng "thành" đọc chệch.43.Bài vị: mảnh gỗ hay giấy có đề tên tuổi người chết để thờ cúng.44.Từ ngằn: từ độ ấy đến nay.45.Bổn quan: bản quan, cũng như bản chức, tiếng tự xưng hô của người làm quan thời trước. ở đây là tiếng của tiểu đồng xưng Vân Tiên.46.Tuần du: đi chơi để xem xét. Chữ "tuần" nguyên trước chỉ nghĩa là đi mà xem xét, như nói "tuần du" "tuần thú" (sự đi xem xét các nước chư hầu của thiên tử thời xưa), sau lại dùng thêm nghĩa: đi qua lại mà xem xét, như nói "tuần tiễu" (về quân sự), "tuần cảnh" (về cảnh sát).47.Hồng nhan: sắc đẹp.48.Ðổ thừa Võ công: đổ cả việc hãm hại Vân Tiên cho Võ công.49.Ra phòng rước duyên: phòng là chờ, hòng, nói Thể Loan trang điểm xong, ra nơi lộ trình của Vân Tiên để hòng đón rước mối duyên.50.Biêu: do chữ "tiêu" là nêu đọc chệch đi. Có bản chép là "bêu", cũng do chữ "tiêu" mà ra, nhưng tác giả dùng tiếng miền Nam với nghĩa tốt của nó (nêu), chứ không dùng theo nghĩa xấu (bày ra một cách nhơ nhuốc) ở miền Bắc, như nói: bêu đầu, bêu xấu, bán bêu.51.Huỳnh tuyền: hoàng tuyền (xem chú thích ở câu 1206)52.Bưng bát nước đầy, Ðổ ngay...: nói tình duyên đã dứt, không thể nối lại, cũng như bát nước đã đổ xuống đất, không thể hốt lại đầy được nữa. Dùng tích vợ Chu Mãi Thần (xem chú thích ở câu 416).53.Oan gia: xem chú thích ở câu 1069. Vân Tiên cho việc mình bị nhà Võ công hãm hại là cái nợ oan gia, nên bảo rằng: oan gia nợ ấy tôi đã giả xong rồi, sao lại còn tới đòi hỏi?54.Ca ca: anh (chữ này ta thường đọc là kha, nhưng chính âm là ca). Chịu đi: ưng thuận đi.55.Tẩu tẩu: chỉ Nguyệt Nga. Hớn Minh và Tử Trực bảo Vân Tiên sao không ưng thuận, cho Thạ Loan về để xách giày cho Nguyệt Nga.56.Thương-tòng: cái hang mà Võ công đã bỏ Vân Tiên trước đây57.Quả báo: tiếng nhà Phật, chỉ cái kết quả đền lại, giả lại nhưng việc mình đã làm (nói chung cả việc thiện lẫn việc ác)58.Xấu còn bia danh: tiếng xấu còn lưu lại như tạc bia, để cho người đời chê cười mỉa mai59.Sáu lễ: sáu lễ trong việc cưới xin thời xưa, tức: nạp thái (đưa lễ kén chọn), vấn danh (hỏi tên tuổi), nạp cát (đưa điềm tốt), nạp trương (đưa sính lễ), thỉnh kỳ (xin ngày cưới), thân nghinh (đón dâu).60.Gót lân: do chữ Hán "lân chi" là chân con kỳ lân, một loài thú tượng trưng cho đức tính nhân hậu (người xưa bảo con kỳ lân không dẫm chân lên các sinh vật bé nhỏ và làn cỏ xanh tươi). Thơ "Lân chi" ở Kinh thi khen ngơi con cháu và họ hàng của Văn vương (vua tổ nhà Chu) là nhưng người sang cả mà có đức tốt, nhân lấy con lân ví với cha mẹ (Văn vương) và chân của nó ví với con cái. Do đó, người ta gọi người con hiền, con quí là "lân chi". Ðây nói Vân Tiên lại sinh được con hay, lập nên công danh, nối dõi nghiệp cha lâu dài.