Đánh máy : BacQuai
Hồi 11
Lư Lăng Sát Đại Cừu,
Hồ Sơn Khấp Thúc Phụ

Gần cuối tháng hai họ về đến Thượng Thanh Cung. Trương Thiên Sư hoan hỉ phi thường, lập tức gửi thư cho Giả Gia Trang, hẹn gặp tại Lư Lăng đung trưa ngày mùng sáu tháng ba. Giả Bạch Hồ nhận lời ngay, viết thư phúc đáp.
Trong thời gian ngắn ngủi còn lại, Tư Đồ Sảng luyện tập bằng thanh kiếm mới. Chàng hài lòng vì sức nặng của Từ Tâm Kiếm rất vừa tay, phát huy được uy lực mãnh liệt của chiêu thức mà không làm giảm độ nhanh của đường gươm.
Chàng thức ngộ rằng công lực mình đã tăng tiến thêm một bậc nhờ lợi ích của Khô Mộc Tâm Pháp. Hôm chạm trán với Lăng Khải Trạch ở Trực Cô Tư Đồ Sảng chỉ bị phỏng nhẹ trong khi vết thương của Triển Phi Hoan rất nặng. Từ đó chàng không ngừng khổ luyện, chẳng bỏ một ngày nào, mong sao sớm đủ sức diệt thù.
Cuối tháng hai, đột nhiên Tây Môn Giới trong vai Hí Nhân Cư Sĩ, xuất hiện ở Long Hồ Sơn. Lão nghiêm nghị nói:
- Chư vị đã trúng kế của Kỳ Lân Bang và Hạo Thiên Cung rồi. Lăng Song Tường và Tần Cốc Lý biết rõ Sảng nhi là đệ tử Ly Giang Tiên Ông nên mới dùng mỏ đá quý để khiêu khích Thiên Sư Giáo, buộc y phải xuất hiện! Họ sẽ dốc hết lực lượng chặn bắt cho được Tư Đồ Sảng, từ đó mà tìm ra tung tích hai con bé Phi Tuyết, Phi Hồng và Táo Gia Cát. Lăng Song Tường muốn đòi lại số tài sản đã bị mất. Song không ngờ rằng ba người ấy đã trong Thúy Phong Cốc.
Trương Thiên Sư kinh hãi thốt:
- Nguy hiểm thực! Nhưng chẳng lẽ bần đạo phải bỏ mặc hai ngàn giáo chúng ở Lư Lăng?
Tây Môn Giới mỉm cười:
- Tại hạ đã đến đây tất phải có diệu kế, giáo chủ cứ yên tâm.
Lão ngắm nghía Trương Thiên Sư và hỏi:
- Tại hạ muốn biết giáo chủ đã từng xuất thủ trước mặt võ lâm lần nào chưa?
Trương Hàn Vũ ngượng ngùng đáp:
- Chưa! Bấn đạo chấp chưởng Thiên Sư Giáo từ năm hai mươi tuổi, làm gì có cơ hội đánh nhau với ai?
Quả đúng như thế, với thân phận cực kỳ tôn quý, Trương Thiên Sư chẳng thể tùy tiện ra tay và cũng không có ai dám đụng đến lão.
Tây Môn Giới hài lòng bảo:
- Hay lắm! Giáo chủ chưa ra tay lần nào nên không ai có thể biết bản lãnh chân thực của ngài. Vì vậy, Sảng nhi sẽ hoá thân thành giáo chủ để đi dự phó ước. Không thấy y xuất hiện, đối phương sẽ chẳng dám loạn động.
Và lão đắc ý lấy ra một tấm mặt nạ có râu, trao cho Tư Đồ Sảng:
- Ngươi mang vào thử xem!
Tư Đồ Sảng tuân lệnh và lập tức biến thành nhột Trương Hàn Vũ thứ hai, chỉ khác mầu tóc.
Trương Thiên Sư bàng hoàng bảo:
- Tài nghệ của Tây Môn thí chủ quả là kinh thế hãi tục. May mà ngũ sư đệ sớm giết được Cổ Quý Sinh, không thì cơ nghiệp Thiên Sư Giáo và các phái võ lâm tiêu tan hết.
Trường Thiên Sư đã được nghe học trò là Linh Tiếu Tử thuật lại âm mưu của Hí Nhân Cư Sĩ. Nay tận mắt chứng kiến thủ thuật phi thường của Tây Môn Giới ông mới đánh giá hết được hiểm hoạ.
Tam Dương Chân Nhân cũng toát mồ hôi, thầm rủa mình là kẻ đui mù nhận giặc làm anh em. Lão nghe da mặt ngứa ngáy bởi ánh mắt giễu cợt của Linh Tiếu Tử liền hỏi bừa một câu cho đỡ thẹn:
- Tây Môn thí chủ! Ông chế tạo những chiếc mặt nạ quỷ quái này bằng cách nào vậy?
Lão đã làm một điều đại kỵ khi dò hỏi bí mật tuyệt kỹ của người khác.
Trương Thiên Sư cau mày định gạt đi thì Tây Môn Giới đã thản nhiên giải thích:
- Ở Vân Nam và Quảng Tây có một loài cây cho nhựa. Nhựa của nó có tính chất là khi khô đi vẫn giữ được sự mềm dẻo dai bền. Khi chế tác mặt nạ, tại hạ dùng thứ nhựa ấy phết lên một khuôn đầu người bằng gỗ, chỗ dầy chỗ mỏng tùy theo dung mạo cần làm giả. Sau đó, tại hạ tô điểm bằng những loại sơn đặc biệt để tạo mầu da người. Lông mày và râu được cấy từ lúc nhựa chưa khô hẳn.
Nghe xong, Linh Tiếu Tử bật cười:
- Tây Môn tiền bối khôn đáo để, nói nhiều mà thực ra chẳng nói gì cả.
Tây Môn Giới cười ruồi:
- Tất nhiên là thế! Lão phu đâu thể xem thường quy củ của Thiên Diện Môn, dễ dàng tiết lộ bí mật nghề nghiệp.
Trương Thiên Sư kinh ngạc nói:
- Té ra thí chủ là truyền nhân của Thiên Diện Tôn Giả?
Tây Môn Giới mỉm cười, nói lảng qua chuyện khác:
- Sảng nhi! Kể từ bây giờ ngươi phải dụng tâm học hỏi phong thái, ngôn từ của Trương giáo chủ để đóng vai cho tốt.
Tư Đồ Sảng gật đầu tuân mệnh và chàng xoay qua kính cẩn nói với Trương Thiên Sư:
- Giáo chủ sư huynh! Sau này tiểu đệ sẽ tìm cách đơn giản hóa pho Huyền Nguyên Kiếm Pháp để đệ tử bổn giáo luyện tập.
Trương Hàn Vũ mừng rỡ đáp:
- Nếu được thế thì tốt lắm! Pho kiếm ấy cực kỳ uyên ảo, phức tạp. Ngay ta và các hộ pháp còn gặp khó khăn thì làm sao bọn đệ tử cấp dưới học nổi?
Thì ra, Tư Đồ Sảng đã sớm trao tuyệt học cho Trương Thiên Sư chứ không ích kỷ giữ cho riêng mình. Tiếc rằng, căn cơ võ học của giáo chủ và các hộ pháp không đủ để luyện. Hoặc giả họ quá bận rộn vì giáo vụ, chẳng có thời gian. Kẻ thiếu thiên bẩm sẽ phải mất hàng năm cho chỉ một chiêu kiếm Huyền Nguyên.
O0o
Xế trưa ngày mùng sáu tháng ba, đoàn đại biểu Thiên Sư Giáo đã có mặt ở Bảo Thạch, ngoại thành Lư Lăng. Hai ngàn công nhân mỏ đá đã tề tựu đông đủ và vô cùng cảm động khi nghe nói Trương Thiên Sư sẽ đích thân chiến đấu cho quyền lợi của họ.
Trong con mắt của những tín đồ nghèo khổ kia thì Trương giáo chủ chính là một vị thánh sống, bởi ông ta mang gióng máu thần tiên của tổ sư Trương Đạo Lăng. Nay vị thánh ấy lại vì chén cơm manh áo của giáo chúng mà dấn thân vào chốn hiểm nguy khiến lòng người cành bội phần kính ngưỡng.
Họ quỳ cả xuống vái lạy, nước mắt nhạt nhòe. Trương Thiên Sư, tức Tư Đồ Sảng chợt thức ngộ ra rằng nếu Thiên Sư Giáo thực sự hùng mạnh thì sẽ là chỗ dựa cho hàng trăm vạn tín đồ nghèo khổ dốt nát.
Đạo quán Thiên Sư có mặt ở khắp nơi, được quan lại địa phương nể nang. Giả như bọn đạo sĩ không quá xem trọng đến những nghi thức tôn giáo và lợi tức của đạo quán, mà chú tâm hơn đến quyền lợi thiết thân của giáo chúng, xả thân bênh vực họ, thì lê thứ đã bớt lầm than.
Nhưng hỡi ôi! Ích kỷ tư lợi, cầu an lại chính là bản chất của đa số người Trung Hoa! Và do gồm nhiều sắc dân, nhiều loại ngôn ngữ nên tính cục bộ địa phương của họ rất cao. Bởi thế cho nên, tinh thần dân tộc của họ kém xa những nước nhỏ bé như An Nam, Cao Ly, Nhật Bản. Mông Cổ, Mãn Châu.
Chính những bậc thức giả nhừ Ly Giang Tiên Ông, Táo Gia Cát và Tư Đồ Quát đã nhận ra sự thực chua chát ấy, và tâm sự với Tư Đồ Sảng.
Giờ đây, chàng đứng trước hàng ngàn cặp mắt ngưỡng mộ vá biết ơn, lòng chợt phát nguyện sẽ tận lực đấu tranh vì họ cũng như hàng ngàn vạn người nghèo khổ thác. Nhờ phụ thân mà Tư Đồ Sảng có một tinh thần hiệp sĩ và một nhận thức rộng rãi, sâu sắc về lịch sử Trung Hoa. Chàng hiểu rõ những khuyết ciểm của dần tộc mình và muốn hoàn thiện chúng.
Đúng đầu giờ ngọ, phe Kỳ Lân Bang xuất hiện. Quả đúng như phán đoán của Tây Môn Giới, bên cạnh Giả Bạch Hổ có cả Hạo Thiên Cung chủ Lăng Song Tường và Môn Xuyên Bá Đao Tần Cốc Lý. Ngoài ra còn hiện diện thêm hai nhân vật lạ mặt như Thập Tự Thần Kiếm Phan Tử Mỹ và Giả Đan Quỳnh.
Tư Đồ Sảng nhận ra ngay kẻ thù vì Phan Tử Mỹ có gương mặt đẹp và si ngốc. Lão luôn nở nụ cười ngớ ngẩn, mắt lạc thần, lúc nào cũng như tập trung vào một điểm rất xa xăm.
Giả đại tiểu thư đã bình phục hoàn toàn, có da có thịt chứ không khẳng khiu, trơ xương như lúc trước. Tất nhiên, giờ đây nàng rất xinh đẹp song dung nhan kém tươi, ánh mắt buồn rầu.
Tư Đồ Sảng đang lo lắng vì không thấy Triển Phi Hoan đi theo cung chủ Hạo Thiên Cung thì Giả Bạch Hổ lên tiếng hỏi:
- Này Trương giáo chủ! Gã sư đệ tên Tư Đồ Sảng của ông đâu?
Nếu Trương Hàn Vũ có mặt chắc sẽ hổ thẹn vì đã tưởng lầm rằng mình sáng suốt lừa được đối phương. Té ra là Giả Bạch Hổ đã sớm biết Tư Đồ Sảng là đệ tử Ly Giang Tiên Ông và cũng là người của Thiên Sư Giáo.
Trương Thiên Sư, tức Tư Đồ Sảng, cười nhạt đáp:
- Bần đạo thân phận cao cả, không tiện xuất thủ, nên lúc đầu đã định để cho ngũ sư đệ đại diện. Tiếc rằng, Tư Đồ sư đệ hành tung thần bí, đệ tử bổn giáo không tìm ra được, cho nên, hôm nay bần đạo sẽ đích thân xuất trận!
Tri phủ Lư Lăng Vũ Cư Sơn hoảng hốt nói:
- Không được! Trương Thiên Sư mà có mệnh hệ gì thì bổn quan sẽ mất đầu!
Lão nói không sai vì chính Thiên Tử nhà Minh còn phải cung kính với Trương Hàn Vũ, giáo chủ của mấy trăm vạn tín đồ đạo giáo.
Tư Đồ Sảng cười nhạt:
- Vũ đại nhân yên tâm! Bọn họ không dám giết bần đạo đâu. Còn như có bị thương thì bần đạo cũng ráng chịu, không để việc này lọt đến tai Thánh Thượng.
Rồi chàng quay sang bảo Tần Cốc Lý:
- Thí chủ tưởng rằng chỉ mình Tư Đồ Sảng biết Huyền Nguyên Kiếm Pháp hay sao? Thực ra, bần đạo đã luyện pho kiếm ấy gần năm mươi năm rồi, ai có hứng thú thì bước ra đây mà thưởng thức. Bần đạo hứa sẽ nhận bại nếu không đâm rách áo đối thủ trong vòng một khắc.
Tri phủ Lư Lẳng đã tìm ra chủ ý, dõng dạc cảnh báo phe Kỳ Lân Bang:
- Bổn quan xin báo trước rằng nếu chư vị hại đến tính mạng của Trương Thiên Sư thì sẽ mang tội tru di tam tộc đấy!
Phe Kỳ Lân Bang vô cùng chán nản, chẳng biết phải tính sao. Họ đến đây vì Tư Đồ Sảng chứ không phải vì Trương Hàn Vũ.Tư Đồ Sảng nhẹ nhàng khiêu khích:
- Tần thí chủ! Do ông thọ thương mới hồi phục nên chắc không thể xuất trận. Bần đạo đế nghị giải hòa và Giả Gia Trang sẽ nhượng lại mỏ đá này cho bổn giáo với giá gốc là mười vạn lượng vàng.
Vũ tri phủ mừng rỡ tán thành:
- Trương Thiên Sư nói chí phải, giải quyết như thế là ổn thỏa.
Môn Xuyên Bá Đao còn đang suy nghĩ thì Giả Đan Quỳnh lạnh lùng lên tiếng:
- Tần bang chủ! Ông đã quả quyết với gia phụ là khu đồi quanh mỏ đá này tàng ẩn một long mạch thượng đẳng, có thể khiến con cháu họ Giả đời đời vinh hoa phú quý. Vậy thì giờ đây Tần bang chủ không được bỏ cuộc dễ dàng như thế. Chẳng lẽ dũng khí của ông đã mất hết rồi sao mà lại sợ hãi khi đối phương chi hư trương thanh thế? Bổn cô nương rất lấy làm thất vọng.
Giọng điệu khắc bạc của Giả Đan Quỳnh đã khiến Tần Cốc Lý phải ngượng ngùng, đành bước ra:
- Thôi được! Lão phu xin lãnh giáo Trương Thiên Sư vài chiêu!
Tư Đồ Sảng cố giấu nỗi hân hoan ngút trời vì có cơ hội báo thù. Tần Cốc Lý chưa khôi phục toàn bộ võ công tất không thể thi triển. Ngưng Huyết Huyền Băng Thần Chưởng được. Và nếu thế thì chàng tự tin trong vòng trăm chiêu có thể khiến họ Tần phải rưới máu chốn này.
Tư Đồ Sảng xiết chặt chuôi gươm chờ đợi, lòng thầm khấn vong linh phụ mẫu.
Mân Xuyên Bá Đao Tần Cốc Lý nhỏ tuổi hơn, được quyền xuất thủ trước. Lão thận trọng múa đao, đánh một chiêu công thủ vẹn toàn.
Tư Đồ Sảng ung dung giải phá và phản kích nhẹ nhàng, đúng tính cách của một bậc tôn sư. Chàng không được quyến để lộ việc hóa trang thành Trương Hàn Vũ. Điều này liên quan đến thanh danh của Thiên Sư Giáo cũng như đại cục võ lầm sau này.
Tây Môn Giới đã dặn dò chàng rất kỹ lưỡng và tiên liệu cả trường hợp Tần Cấc Lý có thể sẽ ra tay.
Nhắc lại, Mân Xuyên Bá Đao thấy Trương Thiên Sư không tỏ thái độ quyết liệt hoặc hận thù gì lòng cũng bớt lo. Nãy giờ lão căng mắt quan sát gương mặt của Trương Hàn Vũ vì nghi ngờ rằng có sự giả trá. Kế thay mận đổi đào của Nam Hải Tiên Ông là một bài học xương máu cho Tần Cốc Lý.
Nhưng thực ra Bá Đao chỉ không muốn bị lừa chứ chẳng hề đánh giá cao cái gã Thần Phủ Lang Quân Tư Đồ Sảng. Tiểu tử ấy quen sử dụng búa, nay chuyển qua học kiếm thì dù có học thầy giỏi cỡ Ly Giang Tiên Ông thì cũng không thể đật trình độ thượng thừa ngay được.
Việc Tư Đồ Sảng so kiếm với Tiên Nhân Động Chủ Tất Linh Kỳ đã được Thiên Sư Giáo giữ kín. Phần họ Tất cũng chẳng dại gì khai ra mối nhục thảm bại.
Tần Cốc Lý yên tâm thi thố sở học, đường đao ngày càng mãnh liệt và quỉ dị.
Đao kiếm chạm nhau liên hồi, Tần Cốc Lý nghé cánh tay chấn động mà ước lượng đối phương có khoáng năm mươi năm tu vi, phù hợp với tuổi tác. Lão không ngờ rằng thanh Từ Tâm kiếm rất nặng nên đã tạo cho đối thủ cảm giác ấy.
Tư Đồ Sảng nhẫn nại giữ phong thái điềm đạm của một bậc Giáo chủ, hoà hoãn chiết giải những chiêu đao hung hãn của họ Tần, chỉ giữ thế quân bình. Chàng có lợi thế là từng được xem trận đấu giữa Bá Đao và Giáp Vô Yên giả ở đại hội võ lâm. Lần ấy, Tần Cốc Lý đã tung ra những chiêu lợi hại nhất, chẳng giữ lại chút vốn liếng nào. Tất nhiên, không phải chỉ xem qua là có thể học lóm, hay giải phá sở học của kẻ khác, song ít nhất Tư Đồ Sảng cũng có khái niệm về lộ số của pho đao pháp ấy.
Cây hương thời gian cứ ngắn dần đi và quan Tri Phủ họ Vũ cao giọng nhắc nhở:
- Nửa khắc!
Nghĩa là trận đấu chỉ còn một nửa thời gian và nếu Trương Thiên Sư không đâm rách áo đối thủ thì sẽ thua cuộc, ông đã tuyên bố thế mà.
Tư Đồ Sảng làm như nóng ruột, bắt đầu tăng tốc độ đường gươm. Ngược lại Tấn Cốc Lý chẳng hề gấp gáp, vì tin chắc rằng mình thừa sức cầm chân Trương Thiên Sư đến hết thời gian và đương nhiên thắng lợi, còn việc giết hay đả thương Trương Thiên Sư là một điều dại dột, lão không hề nghĩ tới.
Trong mưu đồ thống trị võ lâm, lão không tính đến Thiên Sư Giáo, một tổ chức mang tính tôn giáo hơn là võ phái.
Nhưng trận so tài hôm nay đã chứng tỏ sự lợi hại của pho Huyền Nguyên Kiếm Pháp. May mà Trương Hàn Vũ thiếu kinh nghiệm giao đấu nên đã bỏ qua những cơ hội tốt, không thôi áo họ Tần đã rách từ lâu rồi. Cốc Lý hiểu rằng đường gươm của Trương Thiên Sư ảo điệu phi thường song không phát huy được hết tinh túy vì bản thân người cầm kiếm thiếu những đòn đúng lúc và dứt khoát. Kinh nghiệm giao đấu là thực tiễn xương máu, không thể học bằng sách vở được.
Với tâm trạng chủ quan khinh địch ấy, Tần Cốc Lý bình tâm đối phó với những thức kiếm đẹp mắt nhưng không đáng sợ của Trương Thiên Sư. Thép cứ chạm thép vang rền, Trương Hàn Vũ xông vào là bị bật ra, không sao phá được màn đao quang sáng trắng chứa đầy kình lực của họ Tần.
Tư Đồ Sảng biết đã đến lúc rửa thù nhà, dồn toàn lực xuất chiêu Thượng Thiện Nhược Thủy (Bậc Đại thiền nhân như nước vậy).
Đây là chiêu cuối cùng trong pho Huyền Nguyên Kiếm Pháp, cũng là chiêu mà chàng đã dùng để đả thương Tiên Nhân Động Chủ Tất Linh Kỳ.
Giờ đây, công lực Tư Đồ Sảng đã tăng thêm một bậc nên uy lực của chiêu kiếm cũng tăng theo. Mân Xuyên Bá Đao giật mình nhận ra lính bị bao vây bởi muôn ngàn kiếm ảnh và hơi thép lạnh từng đợt vỗ vào da thịt làm lão rợn cả người. Việc đáng sợ nhất là lão không còn nhìn thấy Trương Thiên Sư đâu nữa, trước mặt chỉ toàn một mầu sáng bạc của kiếm quang.
Tần Cốc Lý tuyệt vọng múa tít bảo đạo công phá màn lưới thép trước mặt và song cước thì lùi nhanh. Nhưng đã quá muộn màng, Bá Đao nghe lồng ngực đau nhói và khí lực tiêu tan. Lão ngỡ ngàng khuỵu xuống, mắt trợn trừng kinh ngạc, nhìn Trương Thiên Sư như muốn hiểu rằng việc gì đã xây ra? Tần Cốc Lý mơ hồ nghe tiếng reo hò của hai ngàn công nhân mỏ rồi gục ngã.
Tư Đồ Sảng đứng lặng người tưởng nhớ đến cái chết thê thảm của song thân, nước mắt chảy thành giòng, miệng lẩm bẩm:
- Phụ mẫu! Hài nhi đã giết được một trong hai kẻ đại thù, mong anh linh của nhị vị về đây chứng kiến.
Nhưng người ngoài nhìn vào lại tưởng Trương Thiên Sư hối hận vì lỡ tay, đang tụng kinh siêu độ cho Tần Cốc Lý. Vì thế, Vũ Tri phủ bước đến an ủi:
- Bổn chức biết Trương Thiên Sư là người nhân nghĩa, nay lỡ tay giết Tần Bang chủ thì lòng bất nhẫn, xót xa. Nhưng dẫu sao thì nạn nhân cũng đã chết rồi, xin Thiên Sư chớ bi thương nữa.
Và lão cao giọng tuyên bố:
- Thiên Sư Giáo đã thắng! Phiền Giả nhị công tử trao lại văn khế mỏ Bảo Thạch. Và bổn quan xin cảnh cáo rằng nếu Kỳ Lân Bang nuôi thù oán với Thiên Sư Giáo thì sẽ bị trừng trị đấy.
Giả Bạch Hồ cay đắng, móc văn tự ra trao cho Vũ tri phủ để lão điền tên chủ mới vào.
Cung chủ Hạo Thiên Cung Lăng Song Tường vì chút nghĩa ái ân mà đến vuốt mắt cho Tần Cốc Lý rồi sai thủ hạ bồng xác lão về.
Phe Kỳ Lân Bang vừa đi được một lúc thì ả nô tỳ, lúc nãy đứng cạnh Giả Đại tiểu thư, chạy ngược lại kề tai nói nhỏ với Trương Thiên Sư:
- Đại tiểu thư sai tiểu tỳ dặn Giáo chủ phải cẩn thận đề phòng vì sau lưng Tần Cốc Lý còn có một nhân vật vô cùng lợi hại. Có thể lão ấy sẽ báo thù cho họ Tần.
Ả dừng lại lấy hơi rồi nói tiếp:
- Đại tiểu thư còn nhờ Giáo chủ nhắn lại với Tư Đồ công tử rằng chiếc hồ lô bằng ngọc đỏ chính là chìa khóa mở cửa Vạn Tùng Động, nơi cất giữ di vật của Tùng lão nhân. Và có thể là kho tàng của Đoàn Hoàng Gia nước Đại Lý xưa kia cũng ở chung chỗ ấy.
Nói xong, Tiểu Thu bỏ chạy bằng một thân pháp rất nhanh nhẹn. Tư Đồ Sảng nhìn theo bồi hồi suy nghĩ, biết rằng hai nhà Giả Khuất đang bị nhân vật thần bí và đáng sợ kia khống chế.
Nếu không thì sau cái chết của Mân Xuyên Bá Đao họ đã được tự do rồi. Chàng tự nhủ có ngày mình sẽ đến Trường Sa, gặp Giả Đan Quỳnh hỏi han cho cặn kẽ và tìm cách cứu hai nhà đại phú ấy thoát khỏi tai ương!
O0o
Tin tức về cái chết của Mân Xuyên Bá Đao nhanh như gió thoảng. Mặc dù đám tang của lão rất đơn giản, sơ sài.Tất nhiên thanh danh của Giáo chủ Thiên Sư Giáo cũng vang dội giang hồ. Ai nấy tấm tắc khen Trương Hàn Vũ là bậc chân nhân ẩn mặt, khéo giấu giếm bản lãnh.
Việc này chỉ khiến cho Trương Thiền Sư thêm ngượng ngùng, ra sức khổ luyện pho Huyền Nguyên Kiếm Pháp. Bốn vị hộ pháp cũng bị Giáo chủ bắt buộc phải cùng ông ngày ngày luyện kiếm, không được xao nhãng, và người dạy họ chính là Tư Đồ Sảng.
Chàng tận tâm giảng giải từng bí quyết y như lúc Ly Giang Tiên Ông truyền thụ cho mình vậy. Nhờ thế mà pho kiếm trở nên dễ hiểu, dễ luyện hơn. Tuy nhiên, tùy theo căn cơ mà thành tựu của mỗi người mỗi khác.
Một mặt, Tư Đồ Sảng lược giản ba mươi sáu chiêu kiếm để dạy cho bọn đệ tử cấp dưới. Tuy uy lực về độ biến ảo kém đi song những chiêu ấy vẫn rất lợi hại, khả dĩ làm tăng tiến bản lãnh của những người tham luyện.
Điều đáng ngạc nhiên là Trương Trạm, thứ nam của Trương Giáo chủ, lại là người tiến bộ nhanh nhất. Té ra gã có căn cơ của một kiếm sĩ và thích hợp với kinh kệ. bùa chú.
Thực ra, Thiên Sư Giáo vốn không phải là một võ phái vì sở học tổ truyền của giòng họ Trương chỉ gồm các môn Thiên Độn Kiếm Pháp, Đại Đạo quyền pháp và Linh Bảo nội công tâm pháp.
Ba công phu này chẳng có điểm gì ưu việt, thua xa sở học của các phái khác như Thiếu Lâm, Võ Đang, Hoa Sơn, Toàn Chân. Nhưng trong Thiên Sư Giáo lại có khá nhiều cao thủ bên ngoài gia nhập. Những người này vì hoàn cảnh gia đình, vì thất chí hoặc thất tình mà đi làm đạo sĩ.
Chính vì lẽ ấy mà Thiên Sư Giáo chủ có mặt trong Hội đồng võ lâm.
Nay, Tư Đồ Sảng muốn tạo dựng cho Thiên Sư Giáo một nền võ học riêng nên đã đem pho Du Long Quyền Pháp ra truyền thụ lại. Chàng làm như vậy cũng chẳng có gì sai, vì sư tổ chàng cũng là người của đạo giáo.
Du Long Chân Nhân Bậc Trung Tiêu là đệ tử duy nhất còn sót lại của Thanh Vi phái nhà Tống. Đến đời nhà Minh thì đạo phái này bị suy tàn.
Thái độ tích cực ấy của Tư Đồ Sảng đã khiến Trương Thiên Sư vô cùng cảm động. Ông hạ lệnh cho đệ tử trẻ trên cả nước phải ra sức rèn luyện hai pho quyền kiếm mới. Nếu ai biếng nhác sẽ bị lộ áo mũ đạo sĩ.
Đầu tháng năm, pháp thể của Ly Giang Tiên Ông được rước về Long Hồ Sơn đặt trong Bảo tháp. Do Tiên Ông không dặn dò gì trước lúc tọa hóa nên Tư Đồ Sảng cho rằng an táng ở đâu cũng vậy thôi. Lúc đầu, chàng còn xa lạ với Thiên Sư Giáo nên đã tính đến chuyện đưa xác ân sư về Quế Lâm, nơi ông tu luyện.
Chàng đã cắm lại cây Tử Ngọc Thần Trâm lên búi tóc sư phụ vì nó đã theo Tiên Ông mấy chục năm.
Mấy hôm nay, Tư Đồ Sảng nằm mộng thấy Lăng Phi Tuyết hiện vế, cùng mình ân ái đắm say. Sau giấc Vu Sơn, Phi Tuyết mặc lại y phục định bỏ đi. Lúc ấy, Tư Đồ Sảng mới nhớ ra là nàng đã chết, liến giữ chặt lại và khóc nức nở.
Phi Tuyết nghiêm nghị trách:
Thiếp đã chết hẳn đâu mà tướng công khóc lóc! Chàng hãy mau đi Lạc Dương, tìm cho được Đảo Mệnh Linh Kỳ, lúc ấy phu thê sẽ đoàn tụ.
Nói xong, nàng tan ra thành luồng khói xanh rối biến mất. Tư Đồ Sảng đau đớn gọi vang:
- Tuyết muội!
Và chàng giật mình thức giấc! Phát hiện ra rằng đã thoát dương, sáng hôm sau, Tư Đồ Sảng ngượng ngùng thuật lại giấc mơ với Trương Thiên Sư và xin phép đi Lạc Dương.
Trương Hàn Vũ cau mày tư lự:
- Lạ thực! Trong Đạo Tạng có nhắc đến cây Đảo Mệnh Linh Kỳ của đạo sĩ Hà Thù Chứng ở Cung Ngọc Long Vạn Thọ, núi Nam Xương. Ông ta là Tổ sư của đạo phái Tĩnh Minh đời Tống. Tương truyền, Hà Thù Chứng pháp thuật cao cường, có thể dùng cây Đảo Mệnh Linh Kỳ, lập đàn cúng tế mà cứu được người chết oan sống lại. Nhưng nay, thi thể của nhị vị tiểu thư họ Lăng kia đều đã rữa nát, làm sao hồi sinh được?
Tư Đồ Sâng gạt lệ nói:
- Tiểu đệ cũng biết là vô vọng nhưng không thể bỏ qua yêu cầu của vong thê. Dẫu có tìm được Đảo Mệnh Linh Kỳ hay không thì tiểu đệ cũng đào bới Thúy phong Cốc mà tìm di hài của họ, chẳng chờ đến tháng tám nữa.
Trước đây, Trương thiên Sư đã xem quẻ, chọn được ngày hai mươi tháng tám để khai quật Thúy Phong Cốc đưa sáu bộ hài cốt vế Long Hồ Sơn tổ chức tang ma.
Nhưng nay, Tư Đồ Sảng nằm mộng như thế khiến Trương Giáo chủ rất phân vân. Ông liền lên đại điện Thượng Thanh Cung thắp hương khấn vái Tam thanh, quỉ thần, rồi tiến hành phép bói Kim Tiền Bốc.
Dụng cụ bói toán của ông rất đơn giản, chi gồm một mai rùa để lật ngửa và hai đống tiến cổ. Hai đồng tiền này được nối với nhau bằng một sợi giây tơ đỏ dài độ ba gang. Khi bói, Thiên Sư chắp đôi sợi dây lại và thả hai đồng tiền vào mai rùa. Tiền đống luôn có hai mặt, giống nhau là chẵn, khác nhau là lẻ. Những lần chẵn lẻ ấy hợp thành hào, nhiều hào hợp thành quái, tức là quẻ. Sau đó, Trương Tiên Sư đối chiếu vội những hào từ, quái từ trong kinh dịch để xem Hung Cát. Ông là Giáo chủ nên thuộc lòng Kinh Dịch, chẳng cần phải mở sách ra. xem.
Bói xong, Trương Thiên Sư quay lại thư phòng, nói với Tư Đồ Sảng:
- Tượng quẻ rất tốt! Sư đệ cứ việc lên đường! Lão phu sẽ khởi hành sau ngươi năm ngày, khi gặp nhau sẽ cùng tiến hành việc khai quật Thúy Phong Cốc!
Tư Đồ Sảng nói lời cảm tạ rồi về phòng thu xếp hành lý đế lên đường. Mười ngày sau chàng đã đến thành Tín Dương và nghe được tin rằng hào kiệt võ lâm đang lũ lượt kéo đến vùng núi Đại Hồ Sơn, ở cách phía Nam huyện Đăng Phong bốn chục dặm.
Đại Hồ Sơn là một quần thể gồm tám ngọn núi thấp, sơn vực rất rộng, chung quanh là rừng già bạt ngàn, đầy ác thú và rắn rết nên hoang vu. Nhưng hai tháng nay, có một toán người đông độ hơn trăm đã xuất hiện tại chốn này à ra sức đào bới để tìm cái gì đó.
Việc ấy không thoát khỏi những cặp mắt tò mò của khách giang hồ. Và có kẻ đã nhận ra cựu Minh Chủ võ lâm Tư Đồ Xán trong thành Đăng Phong. Lão ta vào thành để mua những dụng cụ đào bới bằng sắt thép. Tuy Tư Đồ Xán giấu mặt bằng chiếc nón rộng vành xùm sụp song vẫn bị nhận diện.
Trên thế gian có một hạng người rất dễ thương, họ không bao giờ giữ gì cho riêng mình cả. Khi biết được điều gì họ đem đi truyền bá khắp nơi, chia sẻ với tất cả mọi người và hài lòng vì sự rộng rãi ấy! Khổ thay, thế gian không hiểu lại gọi họ là kẻ ngồi lê đôi mách, thật là oan uổng!
Không phải chỉ nữ nhân mới mang đức tính ấy mà trong giới đàn ông cũng không thiếu. Họ ngồi đầy trong những trà lâu, nhấp nhỏm đợi chờ người nghe. Họ khác với bọn nam nhân uống rượu ở chỗ là không khi nào nói về chính mình.
Tư Đồ Xán may mắn gặp ngay một gã thuộc hạng người tốt bụng ấy nên chẳng mấy chốc cả phủ Hà Nam biết tin. Không ai nghi ngờ Loa Khẩu Tử nói láo cả vì gã đã thận trọng kiểm chứng bằng cách bám theo Tư Đồ Xán đến tận Đại Hồ Sơn.
Rối thì, vó ngựa phi nước đại cả ngày đêm, tai mắt của các bang hội lớn tại Hà Nam mau chóng mang tin ấy về nhà ở các phủ lân cận, hoặc xa hơn. Rốt cuộc hầu như cả võ lâm đều kéo đến Đại Hồ Sơn. Người ta cho rằng Tư Đồ Xán bao năm theo đuổi tìm kiếm di vật của Vạn Tùng lão nhân, có lẽ giờ đã tìm ra địa điểm chính xác.
Tự Đồ Sảng còn nghe được một tin quan trọng là việc Giả Bạch Hồ trở thành Tân Bang Chủ của Kỳ Lân Bang.
Biết chắc Tây Môn Giới đã sớm có mặt ở Đại Hồ Sơn nên Tư Đồ Sảng ghé vào Cổ gia trang mà trọ nơi lữ quán. Chàng thức rất khuya vì thương nhớ người thân, và mối băn khoăn, không hiểu Đảo Mệnh Linh Kỳ có ở Đại Hồ Sơn hay không?
Vạn Tùng lão nhân vốn là một vị thiền sư, pháp liệu lâ Hành Tú, sao lại có thể dính dáng với một đạo sĩ là Hà Thù Chướng? Tư Đồ Sảng chỉ có thể tự an ủi rằng có thể cây Linh kỳ đã tình cờ lọt vào tay ông ta. Cuối canh ba chàng mệt mỏi thiếp và mơ thấy Lăng Phi Hồng, Tư Đồ Sảng ôm nàng vào làng, nước mắt nhỏ như mưa. Chàng nghẹn ngào hỏi:
- Hai nàng thác đã lâu sao không sớm tìm về với ta?
Phi Hồng dịu dàng đáp:
- Tướng công luôn mang theo Ngọc Thần Trâm bảo vật của Đạo gia làm sao hồn pháp bọn thiếp dám cận kề. Nhưng kể từ nay bọn thiếp sẽ thường xuyên đến với chàng.
Tư Đồ Sảng sực nhớ đến Đảo Mệnh Linh Kỳ nên hỏi ngay:
- Hồng muội! Liệu Đảo Mệnh Linh Kỳ có ở tại Đại Hồ Sơn hay không?
Phi Hồng mỉm cười gật đầu và trườn lên, dùng đôi môi anh đào ngăn chặn những câu hỏi khác. Môi nàng ngọt lịm còn thân xác thì ấm nóng, thơm tho, chẳng khác gì lúc sinh thời.
Mĩ nhân chủ động mời gọi cuộc mây mưa, da thịt nồng nàn khiến Tư Đồ Sảng đắm chìm, chẳng còn biết đâu là hư, đâu là thực. Hết hiệp, Phi Hồng mặc lại y phục cho mình và trượng phu rồi biến mất.
Tư Đồ Sảng giật mình tỉnh giấc, cảm giác như trong phòng còn thoang thoảng mùi hương da thịt của ái thê. Chàng hoang mang ngồi suy nghĩ mãi, khi nghe tiếng mõ báo canh năm liền tắm gội rồi lên đường.
Những đêm kế tiếp, Phi Hồng và Phi Tuyết thay nhau hiện về cùng chàng ân ái nhưng không trả lời bất cứ câu hỏi nào.
Tư Đồ Sảng là người khoáng đạt, chấp nhận hạnh phúc ma quái ấy và quyết tâm vào Đại Hồ Sơn tìm cho được Đảo Mệnh Linh Kỳ.
Một mình dong ruổi, chàng chợt cảm thấy cô đơn, trống vắng vì thiếu Huyết Báo. Gã đã đi Trực Lô từ ngay sau lễ chúc thọ Cổ Quí Sinh để đón Mạc Chiêu Hương. Thúy Phong Cốc đã bị tàn phá, gã sẽ đưa nàng về thẳng Long Hồ Sơn.
O0o
Sáng ngày hai mươi bốn tháng năm, có một chàng kỵ sĩ áo lam xuất hiện ở bìa phía Nam khu rừng rậm Đại Hồ Sơn vùng rừng núi này nằm cách xa các trấn lớn và đường quan đạo nên vô cùng hoang vắng. Phía Bắc Đại Hồ Sơn là huyện thành Đăng Phong và phía Nam là trấn Tịch Châu. Nhưng cả hai đều cách Đại Hồ Sơn vài chục dặm.
Chung quanh đấy chỉ có những thôn nhỏ nghèo nàn, nhà cửa tềnh toàng, rách nát chẳng thể chứa hàng ngàn khách giang hồ. Song những kẻ có máu kinh doanh ở Tịch Châu và Đăng Phong đánh hơi được cơ hội kiếm tiền, mau mắn dựng lên mấy trăm túp lều vải để cho mướn. Đồng thời, quán xá cũng mọc đầy bìa rừng, phục vụ nhu cầu ăn uống và nhậu nhẹt của những người đi tìm kho báu. Thậm chí, cả kỹ viện ế ẩm ở Đăng Phong còn đưa cả lực lượng kỹ nữ đến Đại Hồ Sơn hành nghề.
Tất nhiên, không thể thiế những cửa hàng bán các dụng cụ đào bới bằng sắt thép và những nơi giữ ngựa. Dân nghèo trong những thôn nhỏ gần đấy đã giành được công việc chăm sóc ngựa. Họ dùng dây, sào, cọc...tạo thành những chuồng ngựa tạm bợ để nhốt những con tuấn mã. Bọn trẻ thì lo việc cắt cỏ cho ngựa ăn.
Kị sĩ áo lam vừa dừng cương là có người xúm lại xin được giữ con ngựa của chàng. Người ky sĩ tuổi tam tuần có gương mặt đầy đặn, phúc hậu ấy đã chọn một lão già lọm khọm và trao dây cương.
Và khi chàng đi vào khu quán xá thì lại bị bọn tiểu nhị, bọn cho mướn lều níu kéo. Chàng từ chối chỗ trọ vì đã quen ngủ trên cành cây trong rừng. Tư Đồ sảng vốn sinh trưởng chốn núi rừng Cửu Tuấn, có thể ngủ rất say trên một chạng ba mà chẳng bao giờ rơi xuống.
Biết mình đang bị Kỳ Lân Bang và Thần Cung truy lùng nên Tư Đồ Sảng đã mang một trong những chiếc mặt nạ tinh xảo mà nghĩa phụ mới tặng cho. Lai lịc của chàng hiện tại là của một gã tên Công Tôn Kỳ, ba mươi hai tuổi, quê đất An Dương.
Tư Đồ Sảng bước vào một quán cơm, mái lợp lá song bàn ghế có vẻ sạch sẽ. Quần hùng đã kéo cả vào núi nên ngoài này vắng tanh chỉ cònlại những người buôn bán.
Đối diện quán cơm là một căn nhà lều rất lớn, mái và vách đều làm bằng vải sơn để chống chọi với những cơn mưa mùa hạ. Cửa lều buông rèm trúc, trên có tấm ván gỗ chỉ bào qua loa, viết mấy chữ xiêu vẹo: “Xuân Tình Viện!”. Té ra đấy là một thanh lâu. Và từ trong ấy, một hán tứ áo xanh, tuổi tứ tuần bước ra, tay còn chưa thắt xong giải quần. Gã thấy Tư Đồ Sảng liền khựng lại mà quan sát. Lát sau gã mỉm cười, bước qua quán cơm, ngồi xuống trước mặt chàng. Hán tử ấy gọi một bình rượu nhỏ và đĩa lạc rang. Chờ tên tiểu nhị đi khỏi, gã hỏi nhỏ:
- Phải Tư Đồ Thiếu gia đấy không?
Từ Đồ Sảng gật đầu đáp:
- Ta đây Tây Môn Ngũ!
Chàng đã nhận ra hán tử từ trước. Gã chính là đệ tử thứ năm của nghĩa phụ chàng. Bẩy gã trong Thất Tinh Hình Sứ đều là trẻ mồ côi, đầu đường xó chợ. Họ được Tây Môn Giới thu nạp, nuôi dưỡng và dạy dỗ từ lúc còn niên thiếu nên rất trung thành với sư phụ! Bảy gã đã lấy họ của ông và đặt tên theo thứ tự từ Nhất đến Thất.
Sau khi Tư Đồ Sảng giết chết Hí Nhân Cư Sĩ Cổ Quí Sinh, chàng đã sang mở ngôi mộ của Cổ Lão Thái để cứu Thất Tinh ra. Việc này càng khiến họ yêu mến và tôn kính chàng như một Thiếu chủ.
Nhắc lại Tây Môn Ngũ nghe Tư Đồ Sảng gọi đúng tên thi vô cùng hoan hỉ. Gã thở phào nói:
- Lão gia đoán rằng Thiếu gia sẽ đến đầy nên sai bọn đệ tử thay phiên chờ đợi. Đệ tử tường rằng chắc cũng phải vài hôm nữa, không ngờ thiếu gia lại đến sớm như vậy.
Tư Đồ Sảng mỉm cười hỏi lại:
- Thế lão gia đâu rồi?
Tây Môn Ngũ vội tu ừng ực hết bình rượu rồi nói:
- Đệ tử sẻ dẫn thiếu gia vào trong ấy. Lão gia đang nghiên cứu địa hình, cố tìm ra vị trí của mật động.
Sau ba khắc xuyên rừng, vượt suối Tây Môn Ngũ đã đưa Tư Đồ Sảng đến vị trí mà Tích Dịch Quỉ đang đứng.
Tám ngọn núi của rặng Đại Hồ Sơn chia làm hai hàng dọc đối diện nhau, chạy theo hướng Bắc Nam, dài độ sáu dặm kẹp ở giữa chúng là một thung lũng toàn sỏi đá khô cằn nên cây cối thưa thớt, không thể mọc thành rừng như vùng đất chung quanh. Khoảng tiếp giáp giữa hai chân núi cũng tương tự như thế. Và đặc biệt là mạn cực Bắc Đại Hồ Sơn bị chắ ngang bởi một khe sâu hun hút.
Có lẽ hàng trăm vạn năm trước, một cơn địa chấn đã làm mặt đất khu vực ấy thụt xuống, tạo thành một vực thẳm vĩ đại, rộng độ nửa dặm và dài chừng hai dặm.
Chung quanh miệng vực là rừng gỗ cổ thụ, ở mặt Nam tiếp giáp thung lũng đá và hai ngọn núi cực Bắc của rặng Đại Hồ.
Đất xốp và thảm thực vật của những cánh rừng đã tích tụ nước mưa, tạo thành hàng trăm gióng suối nhỏ chảy xuống vực thẳm. Những thác nước ấy tuôn đổ quanh năm nên lòng vực luôn mịt mù hơi nước khiến người đứng bên trên không thể nhìn thấy đáy, không ước lượng được chiều sầu của nó. Tuy nhiên, hơi nước và ánh dương quang đã tạo nên những mống cầu vồng diễm lệ, huyền ảo phi thường, cùng với những giòng thác, hợp thành phong cảnh kỳ tuyệt, hiếm có.
Nếu Đại Hồ Sơn không bị ngăn cách với thế giới bên ngoài bằng cánh rừng rậm đầy thú dữ, độc vật và lam sơn chướng khí, thi khe núi này đã là một danh thắng của đất Hà Nam tự lâu rồi.
Nhưng hiện tại thì cảnh đẹp ấy hoàn toàn bị bọn hào kiệt võ lâm thờ ơ lãnh đạm. Họ đến đây vì lòng tham lam, muốn tìm thấy di họa của Vạn Tỳ Lão nhân để trở thành vô địch. Hoặc chí ít cũng là vì lòng hiếu kỳ, muốn biết ai là người diễm phúc.
Thực ra, nếu có kẻ tìm được bí kíp võ công của Vạn Tỳ Lão nhân thì nơi đây sẽ biến thành một chiến trường khốc liệt, xương máu chất chồng. Nhưng hiện tại thì ai nấy đều cắm cúi đào xới những địa điểm mà họ cho rằng khả nghi và mắt thì lấm lét liếc quanh dòm ngó công việc của những người bên cạnh.
Tuy nhiên, giả như có phát hiện ra điều gì họ cũng sẽ lặng câm, tập hợp đầy đủ bằng hữu, anh em rồi mới dám khai quật tiếp. Kẻ cô thế sẽ không bao giờ mang nổi bảo vật ra khỏi chốn này.
Hiện tại chỉ mới có bốn phái lớn là Thiếu Lâm, Võ Đang, Hoa Sơn, Cái Bang hiện diện ở đây, với tư cách Hội đồng võ lâm, cố giữ cho cục diện quân bình, không xảy ra tương sát.
Nhưng mai mốt, khi các bang hội hùng mạnh và bá đạo như Hải Hoa Bang, Hạo Thiên Cung, Kỳ Lân Bang xuất hiến thì đạo lý của kẻ mạnh sẽ thống trị. May mà họ ở xa nên chưa đến kịp.
Đại diện các phái Bạch Đạo gồm: Giám Vân Thiền sư, Thủ tòa La Hán Đường chùa Thiếu Lâm, Hắc Bì Cái, Đàm Vân Tử và Mộc Chân Nhân Chưởng môn phái Hoa Sơn. Bên cạnh bốn đại nhân vật này còn có hai người khá nổi tiếng nữa, đó là Trại Tôn Tử Hồ sĩ Tuệ và Hí Nhân Cư Sĩ Cổ Quí Sinh tức Tây Môn Giới.
Địa điểm mà sáu người này đang đứng chính là nơi mà Cựu Minh Chủ võ lâm Tư Đồ Xán đang đốc thúc hơn trăm thủ hạ đào bới cật lực. Sau nửa tháng thăm dò, Trại Tôn Tử đã khẳng định lối vào Vạn Tùng Động ở vách đá chân núi hướng Nam của ngọn cực Bắc mé Đông, một trong hai ngọn tiếp giáp với vực thẳm.
Sự xuất hiện ồ ạt của quần hùng đã khiến Phúc Châu Tư Đồ Xán vô cùng cay đắng, hối hận. Ông thầm nguyền rủa tổ tông mười tám đời cái gã đã nhận ra ông ở Đăng Phong và loan báo cho cả thiên hạ biết. Và nếu ông không tìm ra Vạn Tùng Động trước khi bọn Đại ma đầu như Nam Hải Tiên Ông, Hạo Thiên Cung Chủ đến đây, thì công lao tìm kiếm mấy chục năm trở thành công cốc. Và chưa chắc ông đã toàn mạng khi bảo vệ thành quả của mình.
Tuy được bốn phái Bạch Đạo công nhận quyền ưu tiên song việc ấy cũng chẳng ích gì cho Tư Đồ Xán. Võ lâm là nơi cá lớn nuốt cá bé và kẻ mạnh hơn luôn có lý.Nhưng Tư Đồ Xán đã dốc hết tài sản vào canh bạc này, quyết chẳng để người khắc phỗng tay trên. Hơn năm qua, một mặt, ông nghiện cứa tấm họa đồ bí ẩn đã lấy được trong một động đá ở núi Long Môn, mặt khác, ông khổ công đào tạo hai trăm gã đệ tử trở thành những kiếm thủ tinh nhuệ. Tư Đồ Xán đã chuẩn bị lực lượng chờ ngày hôm nay.
Tây Môn Giới rất quen thuộc với vóc dáng của Tư Đồ Sảng, cũng như dung mạo giả của chàng, liền rảo bước đi ra, không chờ con nuôi đến nơi.
Lão mừng rỡ hỏi:
- Vì sao Sảng nhi lại biết tin này sớm như thế được? Hay ngươi chỉ tình cờ nghe đồn đại khi ngược Bắc?
Tư Đồ Sảng gật đầu và nói:
- Can gia? Hài nhi có chuyện muốn thỉnh giáo người! Chúng ta hãy tìm chỗ kín đáo mà đàm đạo.
Tây Môn Giới liến chỉ khóm cây râm mát gần đấy. Hai cha con ngồi xuống chuyện trò, Tây Môn Ngũ thì cảnh giới phía ngoài.
Tư Đồ Sảng thẹn thùng thuật hai những giấc mơ ma mị và nồng thắm với oan hồn của hai người vợ đã chết.
Tây Môn Giới giật mình, nắm cổ tay chàng thăm mạch. Lát sau, lão nhận xét:
- Ngươi hoàn toàn khỏe mạnh, không hề có triệu chứng gì của một kẻ suy tâm, suy thận, mắc bệnh mộng tinh cả. Có lẽ đúng là vong hồn hai đứa con dâu tội nghiệp của lão phu đa hiện vế thực.
Lão đưa tay áo lau nước mắt, rồi nghiến răng nói:
- Và nếu quả thực trong Vạn Tùng Động có cây Đảo Mệnh Linh Kỳ thì lão phu sẽ chiếm lấy bằng bất cứ giá nào. Lão Tư Đồ Xán chỉ cần bí kíp võ công chứ sẽ vui lòng bán lại cây Linh Kỳ ấy. Còn như lão quá hẹp hòi thì chúng ta sẽ dùng võ lực mà cưỡng đoạt. Bẩy gã Thất Tinh Hình Sứ đều có mặt nơi này.
Bẩy người liệu có quá ít chặng? Tư Đồ Sảng đã tự hỏi như thế. Nhưng Tây Môn Giới đã trấn an chàng:
- Sảng nhi chớ lo lực lượng của chúng ta quá nhỏ. Ngoài thủ pháp phóng Vô Hình Châm, bẩy gã ấy hiện đã được trang bị thêm một loại vũ khí mới vô cùng lợi hại là Mê Tiên Phấn Đạn... Lão phu đã tìm thấy trong phòng Cổ Quí Sinh quyển Độc Kinh của Bát Tý Độc Vương Hàn Cổ Mộc. Dựa theo công thức trong quyển bí quyết ấy lão phu đã chế tạo ra Mê Tiên Phấn Đạn. Những viên đạn này chỉ nhỏ bằng hạt nhãn, khi vỡ ra bụi phấn sẽ lan tỏa trong bán kính hai trượng, làm mê man bất cứ ai hít phải.
Tư Đồ Sảng thán phục và nói lảng sang chuyện khác:
- Bẩm can gia! Hôm đầu tháng ba, sau khi hài nhi giết Mân Xuyên Bá Đao Tần Cốc Lý, đã được Giả Đại tiểu thư sai nữ tỳ đến dặn dò rằng Hồng Ngọc Hồ Lô chính là chìa khóa của Vạn Tùng Động! Và có thể, kho báu của Đoàn Hoàng Gia, nước Đại Lý xưa cũng ở trong ấy!
Tây Môn Giới giật mình, suy nghĩ một lúc rồi bác bỏ:
- Không thể được! Vạn Tùng lão nhân chết năm Thuần Hựu thứ sáu Nam Tống, còn nước Đại Lý bị diệt sau đó tám năm, làm sao có liên quan được?
Tư Đồ Sảng ngượng ngùng nói:
- Hài nhi quả là hồ đồ, không nhớ đến yếu tố thời gian của hai sự kiện ấy!
Tây Môn Giới không nói gì thêm, cau mày, nhăn trán suy nghĩ rất lung rồi bỗng nhiên vỗ đùi tẩm bẩm:
- Đúng rồi! Chẳng thể sai được?
Và lão phấn khởi bảo Tư Đồ Sảng:
- Sảng nhi? Lão phu đã hiểu rõ nguồn cơn rồi! Dựa vào hai yếu tố Đảo Mệnh Linh Kỳ và kho báu nhà họ Đoàn, ta đã đoán ra sự sai lầm của truyền thuyết. Nhân vật chính phải là Thiên Tùng Chân Nhân, đồ đệ của Tĩnh Minh phái đất Nam Xương. Chân Nhân quê quán ở thành Đăng Phong này, từng làm Thái Y cho triều đình Đại Lý. Có thể là khi nước sắp mất, Đoàn Hưng Trí đã giao cho Chân Nhân đem cất giấu tài sản, hòng sau này dựng lại cơ đồ! Nhưng tiếc rằng họ Đoàn bị quân Mông giết sạch, chẳng còn một mống. Ngay cả cái gã đã đến nương tựa phái Toàn Chân cũng yểu mệnh! Bởi thế cho nên Thiên Tùng Chân Nhân đã chôn giấu số châu báu ấy ở Đại Hồ Sơn này, cùng với cây Đảo Mệnh Linh Kỳ!
Nói đến đây, Tây Môn Giới phát hiện giả thiết của mình cũng khá mơ hồ, liền cười bảo:
- Ta chỉ phỏng đoán thế thôi! Phải chờ lão Tư Đồ Xán tìm ra cửa động mới biết thực hư!
Hai cha con chuyện trò thêm một lúc rồi cùng đi đến chỗ bốn phái Bạch Đạo. Họ đang quây quần ngồi uống trà trên một tấm vải lều lớn, dưới tán cây rậm rạp, râm mát. Trại Tôn Tử Hồ Sĩ Tuệ đã ra thay ca nên Tư Đồ Xán có  thể đàm đạo, chiêu đãi bốn vị cao nhân.
Hí Nhân Cư Sĩ Cổ Quí Sinh tức Tây Môn Giới, vui vẻ giới thiệu chàng trai áo lam với mọi người:
- Gã này tên Công tôn Kỳ. ba mươi hai tuổi, nghĩa tử của lão phu!
Năm người kia tỏ vẻ ngạc nhiên vì chưa từng nghe nói đến việc này!
Mộc Chân Nhân, chưởng môn phái Hoa Sơn vuốt râu cười bảo:
- Cổ lão thí chủ là người tinh minh, cơ trí, đã chọn chàng trai này làm người thừa kế chẳng thể lầm!
Tướng mạo y không có gì xuất sắc nhưng nhãn thần oai nghiêm, chắc bản lãnh phải rất cao cường.
Tây Môn Giới vô cùng thán phục nhãn quang sắc bén của đối phương, vuốt râu đáp:
- Không dám! Không dám! Khuyển tử mới hạ sơn, còn phải học hỏi nhiều!
Tư Đồ Sảng ôm quyền thi lễ với các lão nhân rồi ngồi xuống cạnh nghĩa phụ, song hơi lui ra phía sau một chút vì thủ lễ.
Chàng âm thầm quan sát Tư Đồ Xán mà nhớ phụ thân vô hạn. Chàng bâng khuâng tự hỏi mình sẽ làm gì khi người chú ruột tham lam, tàn nhẫn kia gặp nạn. Chậm nhất là ngày mốt bọn ác ma sẽ đến đây và ra tay chiếm đoạt công lao của Tư Đồ Xán.
Chưa tìm ra câu hỏi thì Tư Đồ Sảng bỗng nghe Hắc Bì Cái hỏi Phúc Châu Thần Kiếm:
- Này Tư Đồ lão đệ! Bao năm nay lão phu luôn thắc mắc vì sao lệnh huynh, Du Long Thần Quyền Tư Đồ Quát, lại bỏ nhà đi phiêu bạt vậy?
Tư Đồ Xán thoáng biến sắc đáp:
- Gia huynh tính tình ngang ngạnh, phóng đãng, thường bị gia mẫu rầy la nên giận dỗi bỏ nhà mà đi! Lão phu có nhờ người tìm kiếm mà chẳng thấy đâu.
Tư Đồ Sảng nghe lão vu khống cha mình, lửa giận bừng lên song cố nhẫn nhịn. Chàng bàng hoàng chợt nhận ra mình chưa bao giờ nghĩ đến việc về thăm bà nội. Té ra bà vẫn còn sống dù tuổi đã chín mươi.
Tây Môn Giới cũng tức anh ách, mỉm cười giễu cợt và nói:
- Theo lão phu được biết thì Tư Đồ Quát đã lấy vợ, sinh được một nam tử anh hùng cái thế, tên gọi Tư Đồ Sảng! Nếu Tư Đồ lão đệ muốn có người thừa kế cơ nghiệp thi cứ cho gọi y về.
Tư Đồ Xán mất hẳn vẻ điềm tĩnh, hồi hộp hỏi lại:
- Cổ Cư Sĩ không nói chơi đấy chứ? Sao y không về Phúc Châu mà nhận Tông môn?
Đúng lúc ấy, Trại Tôn Tử lao vút đến, nét mặt đầy vẻ hân hoan. Lão run giọng bảo:
- Tư Đồ Trang chủ! Chúng ta đã tìm ra một khung cửa đá!
Tư Đồ Xán mừng rỡ đứng phắt lên, rảo bước về hướng vách đá. Trước tiên lão ra lệnh cho thủ hạ lập phòng tuyến án ngữ hẻm núi, không cho bất cứ ai vào.
Thấy mấy vị khách cũng đi theo, Tư Đồ Xán hơi ngần ngại, song hiểu rằng họ chẳng bao giờ cướp công của mình, liền giả vờ rộng lượng:
- Mời chư vị cùng lão phu vào Vạn Tùng Động!
Tây Môn Giới cười nhạt:
- Cảm tạ hảo ý của Tư Đồ lão đệ! Nhưng trước hết phải mở cho được thạch môn cái đã.
Tư Đồ Xán ngỡ ngàng nhìn lại, thấy Trại Tôn Tử đang lắc đầu chán nản trước cánh cửa đá khép chặt. Ông bước đến thì nghe. Hồ lão báo cáo:
- Tư Đồ Trang chủ! Cánh cửa đá này dầy ít nhất là ba gang, nặng không dưới bốn ngàn cân. Vách núi chung quanh khung cửa cũng kiên cố như thế! Nếu không có chìa khoá thì chúng tạ phải mất mười ngày mới phá được cửa.
Nói xong, Hồ Sĩ Tuệ chỉ cho Tư Đồ Xán thấy một lỗ nhỏ sâu hoắm, hình bầu dục.
Tư Đồ Xán cau mày hỏi:
- Sao Hồ lão không dùng hỏa dược?
Trại Tôn Tử cười khổ:
- Cánh cửa này là một khe đá liền lạc, muốn phá thì phải dùng một lượng thuốc nổ rất lớn, và không chừng sẽ đánh sập cả Vạn Tùng Động! Lúc ấy chúng ta chẳng còn gì để lấy cả! Lão phu cho rằng biện pháp tốt nhất là đục đẽo từ từ!
Tư Đồ Xán buột miệng than:
- Làm gì có thời gian nữa! Chỉ nay mai là Hải Hoa Bang, Kỳ Lân Bang và Hạo Thiên Cung sẽ có mặt.
Mọi người gật gù thông cảm với hoàn cảnh cấp bách của lão. Riêng Hí Nhân Cư Sĩ hờ hững nói:
- Lão phu có thể mở được cánh cửa này.
Tư Đồ Xán mừng như sống lại, vồn vã nói:
- Vậy phiền Cổ lão huynh giúp một tay, Xán này quyết chẳng dám quên ơn!
Cổ Quí Sinh nghiêm nghị hỏi lại:
- Phải chăng Trang chủ đến đây vi bí kíp võ công của Vạn Tùng lão nhân?
Tư Đồ Xán bỡ ngỡ gật đầu xác nhận, ánh mắt đầy vẻ đề phòng. Cổ Quí Sinh thản nhiên nói tiếp:
- Vậy thì chúng ta sẽ hợp tác! Trang chủ sẽ được quyền lấy toàn bộ những di thư võ học, phần còn lại là của lão phu?
Tư Đồ Xán nghĩ thầm:
- Vạn Tùng lão nhân là một vị Thiền sư, ngoài võ học ra thì làm gì có tài sản nào khác! Vả lại, mục tiêu của ta từ trước đến giờ là như thế cơ mà!
Lão là người cương quyết, khi đã có chủ ý là dứt khoát ngay, không hề lưỡng lự:
- Được! Lão phu đồng ý! Mong đại diện bốn phái làm chứng cho bản hợp đồng của chúng ta!
Hắc Bì Cái cả cười:
- Bọn lão phu xin nhận vai trọng tài! Chà! Không ngờ lão họ Cổ này lại giỏi giấu giếm nghề mở khóa, khiến bằng hữu thâm giao cũng phải bất ngờ!
Cổ Quí Sinh nheo mắt đáp:
- Lão phu mà vớ được món hời trong động này tất sẽ chẳng quên bằng hữu! Phần Bang chủ là trăm vò rượu Thiệu Hưng thượng hạng đấy!
Rồi lão nghiêm giọng:
- Phiền hư vị lùi xa khỏi Thạch môn mười bước!
Bọn Tư Đồ Xán, Đàm Vân Tử vội lùi theo lời Hí Nhân Cư Sĩ. Cổ Quí Sinh hài lòng tiến đến sát cánh cửa, dùng thân che lỗ khóa rồi đút vào đấy một vật mầu đỏ. Quả nhiên Hồng Ngọc Hồ Lô rất vừa với cái lỗ hình bầu dục kia. Cổ Quí Sinh dùng ngón cái ấn thật mạnh vào phần đáy còn ló ra. Và một tiếng lách cách vang lên, chứng tỏ cơ quan đóng mở cửa đã hoạt động. Cổ lão kéo sợi dây tơ, thu Hồng Ngọc Hồ Lô vế, nhét vào áo rồi mới quay lại tuyên bố:
- Then cửa đã rút vào, chỉ cần đẩy mạnh là cánh cửa sẽ mở ra!
Tư Đồ Xán thấy đối phương mở quá dễ dàng, lòng chợt hối tiếc bản hợp đồng lúc nãy. Lão lạnh lùng bảo:
- Trách nhiệm của Cư Sĩ là mở cho xong cánh cửa, xin hãy làm cho trót!
Tư Đồ Sảng nghe vậy liền bước đến, xuống tấn rồi đặt tay kê vai xô thật mạnh. Những bắp thịt trên cơ thể chàng căng phồng, cuồn cuộn nổi lên, cơ hồ sắp làm rách toang chiếc áo gấm mầu lam. Thần lực kinh hồn của chàng đã làm cho khối đá nặng ba bốn ngàn cân phải chuyển động, phát ra những âm thanh ken két rợn người.
Bọn lão nhân tròn mắt kinh ngạc, không ngờ chàng trai mặt mũi phúc hậu, hiền lành kia lại khoẻ mạnh đến mức ấy!
Cổ Quí Sinh đắc ý cười khanh khách, chìa tay về phía khung cửa mở rộng, nói với Tư Đồ Xán:
- Lão phu đã hoàn thành nhiệm vụ mời Tư Đồ Trang chủ và chư vị di giá vào trong, tham quan thạch động.
Trại Tôn Tử đã chuẩn bị sẵn đèn đuốc trao cho mỗi người một cây. Lão cũng đi theo đoàn người vào trong động!
Bảy gã gia đinh Cổ gia trang, tức Thất Tinh Hình Sứ, ở lại bên ngoài với đám đệ tử của Tư Đồ Xán.
Đoàn người thận trọng tiến vào khu đường hầm. Ánh sáng của tám cây đuốc soi rõ bức vách đất lỗi lõm và con đường mấp mô dưới chân, lạ lùng thay không khí trong hang không quá ẩm thấp, hôi hám và dường như có làn gió nhẹ thổi ngược ra ngoài.
Hết đoạn đường hầm dài độ tám chín trượng, tám người đến một thạch nhũ rất lớn. Vách ngang ở ba hướng Bắc, Đông, Tây có hàng chục động khẩu tối om.
Nhưng ngay chính giữa sàn thạch động, nơi mà trần hang không có thạch nhũ nhỏ nước xuống, bọn Tư Đồ Xán phát hiện một tảng đá rất lớn và bằng phẳng, trên có di cốt của một con người. Y phục đã mục nát cả, bị gió thổi bay tứ tung, chỉ còn mảng dưới lưng. Kích thước bộ xương và nhúm tóc bạc sót lại đã chỉ ra rằng người chết là nam nhân và từ trần khi tuổi đã cao.
Bên cạnh người chết là một chiếc rương đồng khá lớn, cao, rộng hơn gang và dài gấp đôi.
Tư Đồ Xán mừng rỡ bước đến định lấy chiếc rương đồng thì gã tiểu tử Công Tôn Kỳ đã như bóng ma đứng lù lù cạnh giường đá, có thể với tay chạm vào chiếc rương. Song hiện tại, bàn tay của gã đang đặt vào chuôi kiếm như sẵn sàng xuất thủ vậy.
Và Hí Nhân Cư Sĩ lên tiếng:
- Lão phu xin nhắc lại với Tư Đồ trang chủ rằng chúng ta đã có lời giao ước! Trang chủ cứ việc mở chiếc rương ấy ra, nếu có di thư thì lấy, kỳ dư thuộc về lão phu.
Tư Đồ Xán cười khẩy đáp:
- Lão phu đã từng là Minh Chủ võ lâm, một lời nói ra bốn ngựa khó theo. Tôn giá chớ nên lấy dạ tiểu nhân mà đo lòng quân tử!
Tuy nói vậy song lòng lão lại hơi nghi ngại, chỉ sợ gã Công Tôn Kỳ kia ám toán mình. Tư Đồ Xán thò tay nắm chặt đốc gươm rồi nói tiếp:
- Nếu tôn giá sợ lão phu lật lọng thì cứ bảo lệnh lang mở rương ra. Đằng nào thì y cũng đứng sẵn ở đấy rồi!
Cổ Quí Sinh cười mát, thản nhiên bảo nghĩa tử:
- Kỳ nhi hãy chặt khoá mở rương ra!
Biết nghĩa phụ muốn mình dằn mặt Tư Đồ Xán, Tư Đồ Sảng nhắm phương vị thật kỹ rồi rút kiếm dùng mũi gươm chém đứt ổ khóa nhỏ bằng đồng. Cả ba động tác rút kiếm, chém khóa, tra kiếm vào vỏ được chàng thực hiện chỉ trong khoảng thời gian hai cái chớp mắt, làm cho Tư Đồ Xán sợ đến xanh mặt. Bọn Hắc Bì Cái cũng phải lắc đầu le lưỡi thán phục! Giám Vân Thiền sư, Thủ tòa La Hán Đường của chùa Thiếu Lâm là người trực tính, nói ra ra cảm giác của mình:
- A Di Đà Phật! Thủ pháp xuất kiếm của tiểu thí chủ đây khiến lão nạp phải cúi đầu khâm phục! Dám hỏi tiểu thí chủ là đồ đệ của bậc cao nhân nào vậy?
Tư Đồ Sảng đang bối rối, chưa biết đáp sao thì được nghĩa phụ đỡ lời:
- Khuyển tử học nghệ với một ẩn sĩ ở núi Thạch Môn Sơn, tính Sơn Tây! Ông ta chưa hề xuất đạo nên chăng có tiếng tăm gì!
Chỉ mình vị Thiền sư thật thà của Thiếu Lâm sự là hài lòng với câu trả lời, những người còn lại đều mỉm cười nghi hoặc.
Lúc này Tư Đồ Sảng đã mở nắp rương. Vật đầu tiên lộ ra là một xấp gấm vàng, trên thêu chữ bằng chỉ đỏ. Chàng mừng rỡ cầm lên, căng lớn ra thành một lá cờ hình chữ nhật, rộng hai gang và dài bốn gang, quanh mép có những chùm tơ nhỏ đầu đen. Một mặt là bốn chữ Tiểu Triện: Hồn Hề Qui Lai! Mặt kia là những nét đan thư chằng chịt, tựa một đạo bùa vậy.
Cổ Quí Sinh bước đến đỡ!ấy, cười khanh khách để biểu lộ nỗi hân hoan, rồi gấp lá cờ lại, nhét vào ngực.
Đàm Vân Tử tò mò hỏi:
- Cổ lão đệ cần lá cờ Đảo Mệnh Linh Kỳ ấy làm gì?
Hí Nhân Cư Sĩ nháy mắt với vị Trưởng lão núi Võ Đang rồi đáp:
- Sau này Đạo huynh sẽ rõ!
Tư Đồ Xán không hề chú ý đến lá cờ nóng nẩy bảo Tư Đồ Sảng:
- Sao ngươi không mở luôn túi vải trong rương ra?
Tư Đồ Sảng lặng lẽ ở nút thắt miệng túi chậm rãi trút mấy ngànviên Lam Bảo Ngọc và Hồng Bảo Ngọc ra mặt giường đá.
Vân Nam có nhiều mỏ Lam Bảo Ngọc và lại giáp với Miến Điện nên kho tàng của Đoàn Hoàng Gia có cả hai thứ bảo thạch ấy.
Và trị giá của sễ châu báu này không dưới trăm vạn lượng vàng.
Chúng phản chiếu ánh đuốc, phát ra những tia sáng cực kỳ đẹp mắt và làm cho Tư Đồ Xán tiếc đứt ruột. Lão bần thần nhìn Hí Nhân Cư Sĩ hốt ngọc bỏ lại vào túi vải, chẳng hiểu mình mơ hay tỉnh.
Tư Đồ Xán không biết nói sao khi nghe Cổ Quí Sinh vòng tay cáo từ:
- Đối với lão phu như thế này đã là quá đủ, xin phép được lui gót trước! Kính chúc Tư Đồ trang chủ maym mắn trong việc tìm di thư võ học!
Cổ Quí Sinh cũng từ giã những người còn lại rồi cùng nghĩa tử đi ra ngoài! Cửa hang vẫn bình yên vì quần hùng bị chặn từ vòng ngoài, như mọi khi nên không biết việc Tư Đồ Xán mở được cửa động, Trại Tôn Tử Hồ Sĩ Tuệ đã đi theo chân Cổ Quí Sinh. Hồ lão cười hỏi:
Dường như Cổ lão đệ đã biết rõ trong hang này có những gì?
Họ Cổ gật đầu và nghiêm nghị nói:
- Hồ lão huynh là bậc đại trí sao lại vương vấn với một kẻ tiểu nhân như Tư Đồ Xán? Nay Táo Gia Cát đã mạng vong, võ lâm chỉ còn biết dựa vào lão huynh mà thôi!
Hồ Sĩ Tuệ thở dài:
- Lão phu cũng biết bản chất của Tư Đồ Xán, song vì gia đình Khuất Kỳ mắc vòng cương tỏa của Kỳ Lân Bang nên lão phu không yên tâm ẩn dật được! Tư Đồ Xán đã tha thiết mời mọc và hứa rằng khi luyện thành võ công vô địch sẽ tiêu diệt Kỳ Lân Bang, giải phóng cho hai nhà Khuất, Giả!
Hí Nhân Cư Sĩ mỉm cười:
- Hồ lão tính sai rồi! Đây là nơi tọa hóa của Thiên Tùng Chân Nhân, Thái Y nước Đại Lý! Nếu là hang Vạn Tùng thì sao lại có xác người và châu báu? Hành Tú Thiền sư được chôn ở Bắc Kinh kia mà?
Trại Tôn Tử tỉnh ngộ ngay:
- Chết thực! Làm sao lão phu lại không nghĩ ra chứ nhỉ?
Cổ Quí Sinh vỗ vai lão an ủi:
- Nếu Hồ lão huynh chịu về ở Cổ gia trang, tiểu đệ xin hứa trong vòng ba tháng sẽ cứu được cả gia đình lệnh muội thoát cảnh nô lệ! Họ bị Kỳ Lân Bang khống chế bằng thuốc độc và tiểu đệ lại có quyển Độc kinh của Bát Tý Độc Vương!
Trại Tôn Tử vui mừng khôn xiết, vái tạ họ Cổ:
- Lão phu xin tuân mệnh lão đệ! Vài ngày nữa sẽ đến Cổ Gia trang nương tựa!
Hồ lão quay trở lại thạch động, còn Cồ Quí Sinh gọi bảy gã gia nhân lên đương
Phía ngoài hàng rào phòng thủ phía Tây, nơi tiếp giáp với thung lũng đá giữa hai dãy núi, quần hùng tụ tập đã khá đông. Họ bắt đầu nghi ngờ khi không nghe tiếng búa đục đẽo. Chẳng lẽ mới đầu giờ Ngọ mà Tư Đồ Xán đã cho lính nghỉ sớm?
Nhưng do không chắc chắn lắm và cũng không đủ lực lượng nên đám hào khách ấy chẳng dám gây sự với bọn kiếm thủ kiêu dũng của Tư Đồ Xán.
Thấy bọn Hí Nhân Cừ Sĩ đi ra, những con kền kền ấy hớn hở nhào vào hỏi ngay:
- Cổ Trang chủ! Tình hình trong ấy thế nào rồi?
Cổ Quí Sinh cười khà khà đáp:
- Tư Đồ Xán sắp bỏ cuộc rồi, tội nghiệp cho lão ta!
Câu trả lời này rất thực và có đến hai ý. Nó đã khiến quần hùng hiểu rằng Tư Đồ Xán chưa tìm được cửa vào động
Ít phút sau, thầy trò Cổ Quí Sinh lọt vào cánh rừng phía Nam Đại Hồ Sơn mất dạng.
O0o
Trong lúc ấy, Tư Đồ Xán gọi thêm mười gã đệ tử vào thạch động, giúp mình lục soát để tìm bí kíp.
Bốn vị khách tham quan kia lúc nào cũng phải bám sát Tư Đồ Xán để tránh bị nghi ngờ. Trước tiên, Tư Đồ Xán tiến vào động khẩu lớn nhất, nơi mà thỉnh thoảng có luồng gió mát thổi ra. Thông lộ này dẫn về hướng chính Bắc, là một hang thiên nhiên được tạo thành do sự xói mòn của giòng nước sau hàng trăm vạn năm.
Đi được hơn trăm dặm, phía trước mỗi lúc một sáng sủa, gió cũng mạnh hơn, khiến năm người rất kinh ngạc. Cuối cùng, trước mặt họ hiện ra những lùm cây, và phía sau lùm cây là vực thẳm. Tư Đồ Xán chết điếng, dậm chân than trời:
- Không ngờ cửa vào hang Vạn Tùng lại ở hướng này, thật uổng công lão phu đào bới suốt hơn tháng nay.
Mộc Chân Nhân an ủi lão:
- Do vách núi nằm sát miệng vực thẳm nên không ai nghĩ đến chuyện tìm kiếm ở địa hình nguy hiểm ấy. Dẫu là bần đạo thì cũng hành động như Tư Đồ thí chủ mà thôi.
Tư Đồ Xán hậm hực quay lại hang thạch nhũ trung tâm nơi Trại Tôn Tử đang chỉ huy mười gã kiếm thú lục lọi. Đến giữa giờ Ngọ, trong lúc Tư Đồ Xán đang sắp sửa phát điên lên vì không tìm thấy bí kíp và vì tiếc số châu báu khổng lố mà Hí Nhân Cư Sĩ đã nẫng tay trên, thì một gã kiếm thủ chạy ra thét lên:
- Sư phụ? Đệ tử tìm thấy rồi!
Và gã run rẩy trao cho Tư Đồ Xán một gói vải vuông vắn. Tư Đồ Xán vui mừng khôn xiết, mở nhanh mấy lớp vải sơn. Lão chỉ vừa đọc xong mấy chữ ởn bìa quyển sách “Bát Nhã Chân Giả” là đã gói trở lại rồi nhét vào ngực áo. Bốn vị khách kia không tiện hỏi rõ, chỉ nói lời chúc mừng. Tư Đồ Xán hớn hở ra lệnh rút khỏi hang, không để ý đến nét mặt cổ quái của Trại Tôn Tử Hồ Sĩ Tuệ. Ông là người duy nhất đứng sát Tư Đồ Xán và nhìn thấy tựa đề của quyển sách. “Bát Nhã”, nghĩa là trí tuệ và Phật Thích Ca đã từng thuyết giảng “Kinh Bát Nhã” Ba La Mật ( Nghĩa nôm là trí tuệ sang bờ bên kia, tức giải thoát tri kiến,tri ngộ). Do Tư Đồ Xán dốt đặc về giáo lý nhà Phật nên tưởng đấy là tên của một loại võ công. Nhưng Hồ Sĩ Tuệ chẳng thể nói ra được vì sẽ bất lợi cho Hí Nhân Cư Sĩ.
Ra đến cửa hang, Tư Đồ Xán tập hợp đệ tử lại, nói vài lời khích lệ rồi nhanh chóng rút quân. Hai trăm kiếm thủ xếp thành đội ngũ chỉnh tề, bảo vệ Tư Đồ Xán. Họ bước đi với thanh kiếm tuốt trần, sẵn sàng đối phó với bất cứ một cuộc tấn công nào từ đám hào kiệt đang dương cặp mắt thèm khát. Khí thế hừng hực ấy đã khiến những kẻ có lòng tham phải chùn tay, không dám chặn đường cướp đoạt cái vật đang gồ lên trong áo Tư Đồ Xán.
Hình dạng của nó đúng là của một quyển bí kíp. Trại Tôn Tử không đi chung với Tư Đồ Xán mà đồng hành với bọn Hắc Bì Cái ở phía sau, cách chừng bảy tám trượng.
Đàm Vân Tử hóm hỉnh hỏi Hồ Sĩ Tuệ:
- Hồ lão thí chủ đã có công lớn trong việc tìm ra hang Vạn Tùng, chắc sau này sẽ được Tư Đồ Trang chủ xem như đại ân nhân.
Trại Tôn Tử thở dài thườn thượt:
- Chẳng lẽ trưởng lão không nhận ra cái xác trong hang ấy là một điều cổ quái hay sao?
Đàm Vân Tử giật mình:
- Đúng vậy! Cả số châu báu và lá cờ Đảo Mệnh Linh Kỳ cũng rất lạ, đúng ra không thể hiện diện trong hang Vạn Tùng.
Mộc Chân Nhân xen vào:
- Phải chăng Hồ lão thí chủ đã biết rõ ẩn tình?
Trại Tôn Tử ngượng ngùng đáp:
- Lão phu nhờ Hí Nhân Cư Sĩ chỉ điểm nên mới biết đấy là nơi tọa hóa của Thiên Tùng Chân Nhân, đệ tử Tĩnh Minh Phái, và cũng là quan Thái Y của Đoàn Hoàng Gia! Nghĩa là không có hang Vạn Tùng nào hết.
Hắc Bì Cái ồ lên:
- Vậy thì quyển bí kíp mà lão Tư Đồ Xán lấy được là gì?
Hồ Sĩ Tuệ cười nhạt:
- Đấy chỉ là quyển Bát Nhã Chân kinh, do Huyền Trang Pháp sư địch và chú giải.
Giám Vân Thiên sư nghe vậy mỉm cười bảo:
- Bổn tự cũng có một quyển như thế! Tội nghiệp cho Tư Đồ thí chủ!
Đúng lúc này, phía trước phát hiện một biến cố. Một bóng người áo xanh đã từ tàng cây du rậm rạp nhảy xuống giữa đoàn kiếm thủ mà tấn công Tư Đồ Xán.
Người ấy, không sử dụng vũ khí, song thủ giáng liên tiếp tám đạo chưởng phong trắng đục xuống đầu Tư Đồ Xán. Lão đã kịp đảo bộ tránh đòn, nên chỉ trúng một chưởng vào vai trái. Nghe hơi lạnh thấm vào tận xương tủy, Tư Đồ Xán rú lên:
- Huyền Băng Thần Chưởng!
Và lão cố nén đau vung kiếm đâm chém người áo xanh bịt mặt. Nhưng khủng khiếp thay, đối phương chỉ khẽ khoa tay đã vẽ nên hàng trăm chưởng ảnh giáng thêm một đòn vào đùi phải Tư Đồ Xán. Đồng thời, bàn tay ma quỉ trắng toát kia chụp vào ngực lão, xé toang lớp gấm dầy và lấy đi quyển bí kíp, trước khi Tư Đồ Xán gục ngã vì xương đùi gẫy lìa.
Thanh y mau nhét quyển chân kinh vào ngực áo rồi múa chưởng đánh văng bọn kiếm thủ Tư Đồ gia trang, bước nhanh về phía Nam.
Tiếng chưởng kình nổ ì ầm, xác người văng tứ tán và tiếng gào thét lìa đời vang dội buổi trưa hè. Quần hùng thực sự kinh hoàng trước bản lãnh võ công cái thế của người áo xanh bịt mặt. Công lực và trình độ võ nghệ của lão ta hơn hẳn Mân Xuyến Bá Đao Tần Cốc Lý vài bậc! Mọi người dạt cả ra, không dám làm vướng chân hung thần mà chết oan.
Nhưng khi thanh y nhân chạy gần hết thung lũng đá, còn cách cánh rừng hướng Nam vài chục trượng thì gặp cường địch. Từ sau một tảng đá lớn, Nam Hải Tiên Ông bất ngờ nhảy ra, tấn công Thanh y nhân bằng một chiêu đao vũ bão và hiểm ác. Chẳng dám khinh thường bậc tiền bối thành danh, người áo xanh vội bốc lên cao tránh chiêu và phản kích bằng bốn đạo chưởng phong Ngưng Huyết.
Nam Hải Tiên Ông Ninh Hoàng Lạc đã tiên liệu trước tình huống này, lập tức đề khi tung mình lên, đón đánh đối phương. Lão đã cẩn thận dồn Thuần Thanh cương khí bảo vệ châu thân, quanh người tỏa sắc xanh nhàn nhạt. Điều này chứng tỏ Tiên Ông đã hoàn toàn bình phục sau lần trọng thương vì vụ nổ ở lôi đài võ lâm.
Màn đao quang xanh biếc thêm rực rỡ nhờ nắng hạ, như tấm lưới thép sắp trùm lấy Thanh y nhân. Song Nam Hải Tiên Ông không ngờ công lực của đối phương lại thâm hậu ngoài dự kiến. Bốn đạo chưởng kình ấy không chỉ lạnh thấu xương mà còn nặng ngàn cân, làm cho Thanh Cửu Huyền Đao phải run lên bần bật, lệch khỏi quỹ đạo để lộ sơ hở rất lớn. Và một phát chưởng thứ năm đã âm thầm xuất hiện, vỗ thẳng vào ngực Tiên Ông.
Ninh Hoàng Lạc hự lên một tiếng rớt xuống đất, máu trong phổi tràn qua khoé miệng. Lão ngơ ngẩn nhìn theo bóng Thanh Y nhân, không tin rằng trên đời lại có kẻ võ nghệ siêu phàm đến mức ấy! Tiên Ông ước lượng đối phương phải có đến gần hoa giáp rưỡi công lực và luyện Ngưng Huyệt Thần Băng Chưởng đến mức Tụ Khí Thành Cương. Ninh Lão nghe cơ thể lạnh giá dần, vội ngồi xuống tọa công. Thủ hạ của lão vây quanh để bảo vệ, mặc dù mọi người đã ùa cả ra phía trước để xem cảnh Thanh Y nhân bị người khác cầm chân.
Thì ra, người áo xanh đả thương xong Nam Hải Tiên Ông thì đắc ý bỏ đi miệng cười khanh khách. Nào ngờ, từ bìa rừng tràn ra một đội quân đông đảo, đi đầu là Cung chủ Hạo Thiên Cung và bốn lão thiên Long.
Lăng Song Tường ngạo nghễ quát vang:
- Muốn sống thì hãy trao lại bí kíp cho lão thân.
Tuy mở lời dụ dỗ như thế nhưng Lăng Song Tường lại tấn công ngay chẳng chần chờ, kiếm quang phớt hồng che giấu Đạo Hồng Lô Chỉ cực kỳ hiểm độc. Bốn lão Thiên Long kia cũng không đứng yên, nhất tề xuất. thủ hỗ trợ cung chủ. Tuổi họ đều đã quá bẩy mươi, tu vi thâm hậu và kiếm pháp rất cao cường.
Trong võ học, khái niệm vô địch chỉ có ý nghĩa khi một chọi một, còn thường kỳ “Song quyền nan địch tứ quyền” chính vì thế mà Thanh Y nhân không dễ gì thắng nổi năm người có võ nghệ thượng thừa như bọn Lăng Song Tường.
Lão ta có thể vội vã đả thương hoặc giết chết một đối thủ song cũng phải trả giá. Vì tả hữu, trước sau đều bị uy hiếp dữ dội. Năm thanh trường kiếm và những đạo chỉ phong đỏ rực vây chặt lấy mục tiêu mà tấn công quyết liệt.
Lúc này mới thấy hết được bản lãnh kinh thiên động địa của người áo xanh bịt mặt. Lão múa tít song thủ liên tiếp đẩy ra những đạo chưởng phong trắng đục, thân hình đảo lộn, xoay chuyển cực kỳ nhanh nhẹn và linh hoạt. Lão tả xung hữu đột giữavòng vây, chưởng kình như lôi giáng, mỗi lần tấn công và đẩy lùi kẻ địch. Nhưng lão chưa đánh trọn chiêu đã phải quay sang chống đỡ đòn tập kích từ hướng khác nên chăng thể kết liễu đối phương.
Lăng Song Tường và bốn lão Thiên Long đã phải hết sức vất vả mới vây được Thanh Y nhân lòng vô cùng thán phục và ái ngại. Cũng như Nam Hải Tiên Ông, họ không ngờ bản lãnh đối phương lại cao siêu như thế.
Lô Hoả Thần Chỉ của Lăng Cung Chủ hoàn toàn mất tác dụng trước những phát chưởng băng giá và cương mãnh của người áo xanh. Xem ra, Tần Cốc Lý chỉ đáng mặt học trò trong môn Huyền Băng Chưởng.
Năm thanh bảo kiếm phối hợp nhịp nhàng, đồng loạt hoặc luân phiên đánh những chiêu hiểm ác phi thường, song đều bị Thanh y nhân giải phá cả.Với nguồn chân lực sung mãn, hùng mạnh, lão ta ra đòn liên miên bất tuyệt đánh cho phe Hạo Thiên Cung phải thất điên bát đảo.
Sau hai khắc tương trì, Thanh y nhân cảm thấy kéo dài sẽ bất lợi nên thi triển tuyệt chiêu để phá vây. Lão lướt nhanh thành vòng tròn, lần lượt đánh văng năm đối thủ khiến vòng vây giãn rộng ra. Không một ai có thể trụ lại được trước những phát chưởng nặng như núi đổ ấy cả.
Và cuối cùng, Thanh y nhân đập vào lão Đại Thiên Long ở phương vị chính Nam, bủa lưới chưởng ảnh kỳ ảo, hư thực khó phân. Nạn nhân chỉ còn cách cắn răng chống đỡ, trường kiếm vun vút xé chưởng phong và bay vào ngực vị hung thần áo xanh. Nhưng khi mũi kiếm còn cách xa mục tiêu thì một đạo chưởng kình đã chạm cơ thể lão Đại Thiên Cung.
Con xười già nua đáng thương ấy văng đi như diều đứt dây, máu miệng phun thành vòi, vương vãi không gian. Lăng Song Tường và ba vị Thiên Long còn lại đã vội lao đến song hơi muộn màng. Thanh Y nhân đã giết người xong và lướt đi tựa mũi tên rời dây.
Đám hào khách quan chiến đứng ở hướng Nam vội bỏ chạy tán loạn, nhường đường cho Đại Sát Tinh. Song thế gian lắm chuyện bất ngờ nên trong đám người nhút nhát kia lại có kẻ cả gan dám vuốt râu hùm.
Người này có vẻ như đang sợ hãi chạy theo đám đông nhưng khi Thanh Y nhân vừa lướt ngang thì gã tấn công liền vào mé tả của lão ta.
Hán tử áo đen ấy đã tính toán vô cùng chính xác, ra đòn đúng lúc lão áo xanh bịt mặt vượt qua vị trí của gã hơn trượng. Song gã phải có tâm pháp nhanh hơn đối phương thì mới có thể đuổi kịp mà hạ thủ.
Té ra gã áo đen quả đúng là kẻ có tài khinh công quán thế, trong chớp mắt đã áp sát mục tiêu mà bủa lưới. Khi di chuyển càng nhanh thì tiếng động phát ra càng lớn, không sao tránh khỏi. Trước hết là do thân thể ma sát vào không khí, hoặc y phục giũ lất phất trong gió, kế đến là những âm thanh của lưỡi kiếm xé không gian.
Thanh y nhân công lực thông thần, thính giác rất nhạy bén, nên đã phát hiện ra đòn tập kích. Lão lập tức nghiêng người quay xéo lại, và tả thủ xạ liền một đạo chưởng kình vũ bão vào bóng đen sau màn kiếm ảnh. Lão ta cũng muốn xuất thủ bằng hai tay song đối phương đã chiếm mất tiên cơ, lão không đủ thời gian để quay hẳn lại. Tuy nhiên, Thanh Y nhân vẫn tự tin đủ sức chặn đứng đòn đánh lén kia.
Nào ngờ, hán tử áo đen có bộ pháp ảo diệu tuyệt luân, thân hình nghiêng ngả, chập chờn, trong chớp mắt đã tránh được đạo chưởng kình và tiếp tục ập đến.
Thanh y nhân kinh hoàng đảo bộ lùi mau, tả thủ khoa nhanh cố chặn đường gươm khốc liệt của đối phương. Với công lực gần trăm năm, cánh tay của lão chứa đầy Huyền Băng Cương khí, nên xương cốt rắn chắc như thép nguội.
Trong lúc nguy cấp lão đã thi triển chiêu Huyền Trảo Băng Tâm, tuy chỉ gồm những thức bên tay trái song cũng bội phần lợi hại. Hàng trăm bóng trảo hiện ra để đối phó với những thế kiếm nhanh như chớp giật.
Thanh Y nhân nghe bàn tay và cả cánh tay nhói lên mỗi lần chạm kiếm đối phương. Những nhát kiếm ấy ồ ạt như mưa rào và lực đạo cực kỳ mạnh mẽ, khiến lão không sao đánh bạt đi được hoặc chụp trúng lưỡi gươm.
Khi Thanh Y nhân thức ngộ được rằng kiếm pháp của đối phương đã đạt đến đỉnh cao trong kiếm đạo thì cũng là lúc sườn tả đau đớn khủng khiếp. Lão biết lá lách đã bị tổn thương nặng, dù rất căm hận hán tử áo đen mà vẫn phải cắn răng đào tẩu vì Lăng Song Tường và ba lão Thiên Long đã đến nơi.
Bốn người ấy thấy Thanh Y nhân đang thọ thương nên đuổi theo vào rừng, quyết chiếm cho được quyển bí kíp.Quần hùng cũng lũ lượt rời Đại Hồ Sơn vì chẳng còn gì mà lưu luyến. Hơn nữa, họ hy vọng được xem cảnh bốn đại cao thủ Hạo Thiên Cung vây bắt lão áo xanh.
Lát sau, chỉ còn lại phe Tư Đồ Gia trang và bọn Hắc Bì Cái. Những người này đang quây quần chờ đợi Tư Đồ Xán trút hơi thở cuối cùng. Lão trúng hai chưởng Huyền Băng, máu huyết như đông lại, tính mạng tựa chỉ mành treo chuông, dù đã được bọn Đàm Vân Tử tận tình chữa trị. Đối với loại chưởng thương độc ác này, chỉ có một phương pháp duy nhất là tự cứu. Nạn nhân phải còn đầy đủ công lực để dồn lửa Tạm muội trục chất độc âm hàn ra ngoài cơ thể. Nhưng Tư Đồ Xán bị đánh gẫy xương bả vai và xương đùi, kinh mạch bế tắc, chẳng thế nào tự vận khí được, viên Đại Hoàn Đan của chùa Thiếu Lâm chỉ giúp lão kéo dài thời gian hấp hối mà thôi.
Thân hình nhỏ bé của vị Cựu Minh Chủ võ lâm rung lên từng hồi, da mặt trắng bệch, mắt trợn trừng. Bảy người chung quanh nghe lão thều thào nói với Trại Tôn Tử:
- Hồ lão... hãy đi tìm... Tư Đồ Sảng...nam tử của đại ca ta về phụng dưỡng... gia mẫu!
Dứt lời, lão thở hắt ra rồi chết.
Mọi người không biết rằng hán tử áo đen, kẻ đã đả thương Thanh Y nhân, đang ẩn trên một tàng cây gần đấy. Gã đưa tay lau nước mắt rồi lặng lẽ bỏ đi.
Bốn ngày sau đám tang của Tư Đồ Xán cùng tám thủ hạ được cử hành đơn giản, không trống kèn, không khách điếu và không cả vợ con.
Lão say mê bả lợi danh, bỏ mẹ già và thê nhi ở Phúc Châu, một mình sống tại Lạc Dương với hai trăm đệ tử.
Trại Tôn Tử và các phái Bạch Đạo đã quyết định mai táng Tư Đồ Xán ở phía sau Tổng đàn võ lâm, trên núi Hương Sơn. Và họ sẽ phải tìm cho ra Tư Đồ Sảng trước khi thông báo hung tin với Tư Đồ lão thái. Mẫu thân của Tư Đồ Xán tuổi đã chín mốt, chắc chắn sẽ không chịu đựng nổi tin dữ này. Sự hiện diện của đứa cháu nội tuấn tú, kẻ nối dõi tông đường họ Tư Đồ, sẽ giữ cho trái tim yếu ớt của bà còn tiếp tục đập!
Tin tức về tang lễ không được thông báo, thế mà chiều ngày hai mươi vẫn có người đến ai điếu.
Đoàn khách danh giá này gồm Thiên Sư Giáo chủ Trương Hàn Vũ, ba vị hộ pháp và mười hai đạo sĩ trẻ.
Lát sau, lại có hai người khách nữa xuất hiện, là Hí Nhân Cư Sĩ Cổ Quí Sinh và một chàng trai cao lớn mặc hiếu phục.
Nhiều người nhận ra Thần Phủ Lang Quân Lý Thu, kẻ đã biệt tăm khá lâu.
Không phải Hí Nhân Cư Sĩ lên tiếng giới thiệu mà lại là Trương Thiên Sư, ông nghiêm nghị bảo:
- Hai mươi mấy năm trước, Tư Đồ Xán vì muốn tranh giành cơ nghiệp họ Tư Đồ nên đã đánh đuổi bào huynh là Tư Đồ Quát. Du Long Thần Quyền sợ cảnh nồi da xáo thịt nên cắn răng mang tiếng bất hiếu, bỏ nhà đi biền biệt. Ông ta đã lấy một người họ Võ ở đất Hàm Dương và sinh ra chàng Tư Đồ Sảng này! Tư Đồ Sảng được sư thúc bần đạo là Ly Giang Tiên Ông nhận làm đệ tử chân truyền nên hiện giờ y là Ngũ Hộ pháp của Thiên Sư Giáo! Xét tình máu mủ, Tư Đồ Sảng đã quên thù xưa, đến đây chịu tang cho Nhị thúc!