Ngày 25 tháng 7, 2 giờ 14 phút sáng. Cologne, Đức. Đối với Gray, vào nhà thờ ban đêm luôn có vẻ như bị ma ám. Ở ngôi nhà của Chúa này có lẽ không có nơi nào hơn. Từ sau vụ thảm sát vừa rồi, nhà thờ Cologne với cấu trúc Gô- tích lại càng toát ra vẻ thê lương. Khi nhóm của anh đi qua quảng trường, Gray đã nhìn kỹ cái nhà thờ ở Cologne này, hay như dân địa phương vẫn gọi là Dom. Nhà thờ được những ngọn đèn pha chiếu sáng từ bên ngoài, lấp lánh giữa ánh sáng bạc và bóng tối. Nằm trọn bên mặt phía tây của nhà thờ là hai cái tháp khổng lồ. Cái tháp sinh đôi này cùng một độ cao, càng lên cao càng nhỏ lại, ở mỗi bên tháp có các cửa sổ lớn chỉ cách nhau vài mét. Trên tận đỉnh là những hình chữ thập trông ở dưới lên nhỏ xíu. Một tầng của cấu trúc cao năm trăm feet này đều được trang trí bằng các bức phù điêu. Các cửa sổ còm cong trèo lên tẩn đỉnh tháp, tất cả đều hướng lên bầu trời đêm và mặt trăng tít ở trên cao. “Trông giống như họ chiếu sáng cho chúng ta.” Monk nói, kinh ngạc trước cảnh nhà thờ được thắp đèn sáng trưng. Anh ta xiết ba lô chặt vào vai hơn nữa. Cả ba người đều mặc quần áo dân sự màu sẫm, nhằm tránh không ai để ý. Nhưng bên trong, mỗi người họ đều mặc loại áo giáp chống đạn bằng tinh thể lỏng. Những chiếc ba- lô của họ đều màu đen, nhãn hiệu Arcteryx được nhét đầy dụng cụ nghề kể cả vũ khí được một nhân viên CIA chuyền cho tại sân bay: Súng lục M-27 với loại đạn 40 ly trang bị ống ngắm ban đêm. Monk còn mang thêm khẩu súng ngắn loại Scattergun cột vào đùi bên trái trong chiếc áo khoác dài. Vũ khí họ mang theo đã được tính toán như thông lệ cho những phi vụ đặc biệt, trong đó có cả loại đặc biệt có ông kính ngắm chính xác chuyên dùng vào ban đêm. Kat lại thích tloại không cần công nghệ cao. Cô mang theo tám con dao giấu trong người. Bất cứ lúc nào một lưỡi dao cũng có thể xuất hiện trong tay dù cho cô ở vị trí nào. Gray kiểm tra lại chiếc đồng hồ thợ lặn Breitling của mình. Kim đồng hồ chỉ 2 giờ 15 phút. Họ đến đúng giờ. Họ vượt qua quảng truờng. Gray nhìn một lượt xem trong góc tối có gì khả nghi không. Tất cả có vẻ yên ắng. Vào lúc khuya khoắt như thế này trong tuần, khu vực quảng trường gần như vắng tanh. Chỉ có một vài kẻ lang thang. Bọn họ đều say sỉn sau khi bước ra từ các quán bar, loạng choạng đi trên hè phố. Nhưng cũng có dấu vết của các cuộc tụ tập trước đó. Những bó hoa của những người đến viếng nằm lăn lóc ở góc quảng trường cùng với những vỏ lon bia. Đây đó còn sót lại các mẩu nến chưa cháy hết sau buổi lễ tưởng niệm những người vừa chết, còn có cả những tấm hình của nạn nhân. Một vài dây nến vẫn cháy, lửa lập loè trong đêm, đơn độc và buồn thảm. Một buổi lễ thắp nến được tổ chức ở một nhà thờ kế bên cùng với lễ tưởng niệm cả đêm, có cả phần truyền dẫn trực tiếp lời cầu nguyện của Giáo hoàng. Tất cả đã kết hợp lại làm cho quảng trường vắng không một bóng người đêm nay. Mặc dù vậy, Gray và đồng đội vẫn cảnh giác nghe ngóng mọi động tĩnh xung quanh. Họ không muốn mạo hiểm. Đỗ trước cửa nhà thờ là một chiếc xe thùng có dán lô-gô cảnh sát thành phố ở hai bên. Chiếc xe được sử dụng như chỉ huy sở của các nhóm điều tra. Ngay sau khi vừa xuống sân bay, Gray đã được Logan Gregory, chỉ huy hành quân và là nhân vật số hai của Sigma, thông báo rằng tất cả các nhóm điều tra địa phuơng vào lúc nửa đêm đã bị điều ra ngoài nhưng họ sẽ trở lại vào sáng hôm sau, lúc 6 giờ. Từ giờ đén lúc đó sẽ chỉ có bọn họ trong nhà thờ. Nhưng, thực ra không phải chỉ có bọn họ. Một trong những chiếc cửa ngách của nhà thờ được mở ra khi họ tới gần. Một bóng người cao, gầy đứng trước nền ánh sáng hắt ra từ bên trong nhà thờ. Một cánh tay giơ lên. “Ngài Verona”. Kat khẽ thì thầm, khẳng định đúng ông ta. Vị linh mục đi qua hàng rào do cảnh sát dựng quanh nhà thờ. Ông nói với một trong hai lính gác, đứng ở đó để chắn mọi con mắt tò mò vào nơi xảy ra vụ án mạng, rồi ra hiệu ba người đi vào. Họ theo ông vào bên trong. “Đại uý Bryant,” ông khẽ nói với nụ cười đôn hậu. “Mặc dù hoàn cảnh thật khủng khiếp nhưung tôi rất vui được gặp lại cô”. “Cảm ơn, giáo sư”. Kat đáp lại với nụ cười thân thiện. Vẻ mặt cô dịu lại trước tình bạn thật sự. “Hãy gọi tôi là Vigor”. Họ bước vào gian tiền sảnh nhà thờ. Ông khép cửa, khoá lại rồi nhìn chăm chú hai đồng đội của Kat. Gray cảm thấy sức nặng của cái nhìn. Người đàn ông này cũng cao gần bằng anh nhưng tầm thước hơn. Mái tóc muối tiêu của ông trải ngược phía sau, hơi cuộn sóng. Ông mặc một chiếc áo khoác cắt rất mốt, bên trong là chiếc quần gin xanh thẫm và áo sơ mi cổ khoét hình chữ V, kiểu của cá linh mục Vatican. Tuy nhiên, chính cái nhìn chằm chặp của ông khiến Gray để ý. Mặc dù điệu bộ vồn vã nhưng ở con người này vẫn có cái gì đó thật lạnh lùng. Ngay cả Monk cũng phải nhô đôi vai lên trước cái nhìn của linh mục. “Vào trong đi” Vigor nói “Chúng ta phải bắt đầu ngay lập tức”. Ông dẫn mọi người đến gian thờ, mở cánh cửa đang khép lại rồi vẫy họ vào bên trong. Bước vào chính giữa gian thờ, Gray ngay lập tức để ý hai thứ. Đầu tiên là mùi vị. Dù nồng nặc hương trầm nhưng vẫn cảm nhận được thoang thoảng mùi khét của thứ gì đó bị đốt cháy. Đấy cũng chưa phải là tất cả những gì thu hút sự chú ý của anh. Một phụ nữ đứng dậy từ chỗ hàng ghế cầu nguyện để chào họ. Cô trông giống như Audrey Hepburn hồi còn trẻ: da trắng như tuyết, mái tóc nâu sẫm xòa ra hai bên được cài sau vành tai, đôi mắt màu caramen. Cô không cười. Cặp mắt cô nhìn cả nhóm một lượt, dừng lại lâu hơn ở chỗ Gray. Anh nhận ra nét hao hao giống nhau giữa hai người, chủ yếu ở cách nhìn chăm chú của cô hơn là khuôn mặt. “Cháu gái tôi” Vogor giới thiệu “Trung úy Rachel Verona”. Họ xong phần giới thiệu rất nhanh. Dù cho không có sự phân cách nào bên ngoài nhưng hai nhóm vẫn tiếp tục tách biệt. Rachel vẫn giữ một khoảng cách, thậm chí cứ như sẵn sàng sử dụng khẩu 9 ly của cô nếu cần thiết. Gray cũng để ý bao súng lục của cô bên trong áo vét. Khẩu Berretta 9 ly. “Chúng ta cần bắt đầu ngay” Vigor nói. “Vatican đã tạo điều kiện cho chúng ta đôi chút riêng tư, thời gian riêng để cầu nguyện tại giáo đường sau khi những xác chết cuối cùng được mang đi”. Ông dẫn họ đến chỗ lối đi giữa. Gray chú ý những chỗ được đánh dấu bằng băng dính trên các hàng ghế. Mỗi mẩu giấy nhỏ xíu được đính vào, ghi lên đó tên của người chết. Anh bước quanh những đường vạch bằng phấn trắng trên sàn nhà thờ. Máu tuy đã được lau sạch nhưng vẫn còn những vệt sẫm trên nền đá của nhà thờ. Những mẩu nhựa màu vàng đánh dấu vị trí vỏ đạn đã được những chuyên gia tội phạm nhặt đi rồi. Anh nhìn ngang qua giáo đường, phân vân không hiểu trông nó như thế nào nếu bước chân vào lần đầu tiên. Những xác chết nằm ngổn ngang khắp nơi, mùi máu cháy nồng nặc. Anh cũng gần như cảm nhận được tiếng vọng của nỗi đau còn lưu giữ trong nền đá hay trên vòm mái. Cảm nhận đó làm anh thấy ớn lạnh. Dù gì anh cũng là một người theo đạo Cơ đốc. Thật đau lòng khi thấy vụ thảm sát đã vượt qua ngưỡng bạo lực thông thường. Đấy là điều báng bổ đối với Chúa. Lũ quỷ Satan. Liệu có phải đó là một phần động cơ không? Biến một buổi lễ thành một vụ thảm sát đen tối. Câu nói của linh mục thu hút sự chú ý của anh “Kia là nơi tìm thấy cậu bé đang lẩn trốn”. Ông chỉ vào phòng xưng tội sát bức tường phía bắc, nằm giữa giáo đường dài hút. Jason Pendlenton, người sống sót duy nhất. Phần nào Gray cũng cảm thấy hài lòng vì không phải mọi người đều bị giết hết trong cái đêm đẫm máu đó. Bọn gây tội ác đã mắc một sai lầm. Chúng đều có thể sai lầm. Con người mà. Anh tập trung vào suy nghĩ ấy. Mặc dù hành động của chúng là của quỷ dữ nhưng bàn tay gây tội ác là của con người như những điều khác. Vậy chúng là quỷ dữ dưới hình dạng con người. Nhưng con người đều có thể bị bắt và trừng phạt. Họ đã tới gian thờ riêng được xây cao hơn xung quanh trên đó có ban thờ bằng đá cẩm thạch và cái ghế cao của vị giám mục. Vigor và cô cháu làm dấu thánh giá. Vigor quỳ một chân làm lễ rồi đứng dậy. Ông dẫn họ đi qua một cái chắn ngang. Phía sau cái chắn, ban thờ cũng được đánh dấu bằng phấn, mắt đá cẩm thạch bị hoen ố. Cảnh sát đã ngăn chỗ này lại. Lật nghiêng một bên trên sàn, làm vỡ cả chỗ đá lát nền là cái hòm đựng quan tài bằng vàng. Mặt trên của nó tựa vào hai bậc đá. Gray tháo balô ra rồi ngồi xuống. Cái quan tài được làm bằng vàng trông như một nhà thờ thu nhỏ, với những cửa sổ vòm cong và cảnh sắc khắc trạm bằng vàng và đá quý các loại mô tả cuộc đời của đức chúa Jesu từ khi ban thưởng cho các vị Tiên tri đến khi bị đóng đinh câu rút. Gray đeo đôi găng tay cao su. “Có phải di cốt đã được táng ở đây không?” Vigor gật đầu. “Từ thế kỷ thứ XIII” Kat đén cạnh anh, “Tôi tháy họ đã lấy dấu vân tay rồi, “Cô chỉ vào chỗ bột màu trắng còn sót lại ở một số nét khắc chạm. “Không tìm thấy dấu vân tay nào.” Rachel nói. Monk nhìn quanh nhà thờ. “Cũng không có gì nữa bị lấy đi?’ “Nười ta đã tiến hành kiểm kê toàn bộ,” Rachel tiếp tục. “Họ đã có dịp phỏng vấn tất cả nhân viên, kể cả các linh mục.” “Tôi muốn gặp nói chuyện với họ.” Gray khẽ nói, vẫn quan sát cái hộp. “Họ ở phía bên kia sân.” Rachel đáp, giọng như rắn lại. “Chả ai nghe hoặc nhìn thấy gì cả. Nhưng nếu anh muốn mất thời gian của mình, xin cứ việc.” Gray ngước nhìn cô. “Tôi chỉ nói có thể tôi muốn nói chuyện với họ”. Cô nhìn lại không chớp mắt. “Tôi cảm thấy vụ này là một sự phối hợp chung. Nếu như chúng ta kiểm tra lại công việc của nhau mỗi bước đi, e rằng sẽ không đi đến đâu cả.” Gray hít một hơi dài. Mới vào cuộc được một phút, anh đã giẫm vào ngón chân người khác. Lẽ ra mình phải đọc được sự hiếu thắng của cô ta từ trước và bước đi thận trọng hơn. Vigor đặt tay lên vai cô cháu gái. “Tôi đoán chắc với anh rằng cuộc thẩm vấn rất triệt để. Trong các đồng nghiệp của tôi, những câu nói thô lỗ luôn thái quá so với ý thức tốt, tôi sợ anh có thể phải hứng thêm điều gì đó không hay nhất là khi họ bị thẩm vấn bởi một ai đó không mặc áo linh mục”. Monk nói: “Thôi được rồi. Nhưng liệu mọi người có muốn nghe tôi nói không nào?” Mọi cặp mắt đều đổ dồn về anh ta. Anh ta cười ranh ma. “Tôi tin là mình đang hỏi xem còn có cái gì nữa bị lấy đi không?” Rachel nhìn anh chàng không khoan nhượng. “Như tôi đã nói, không có…” “Vâng, cảm ơn trung uý. Nhưng tôi tò mò muốn biết liệu còn có những di vật khác được giữ ở nhà thờ này. Một vật nào đó bọn ăn cắp không đem đi.” Rachel chau mày, bối rối. “Tôi đồ rằng,” Monk giải thích, “rằng những gì bọn ăn cắp không đem đi không được thông tin như những gì chúng đã lấy.” Anh ta nhún vai. Mặt cô bỗng hơi dãn ra khi nghe điều đó. Sự cáu giận biến mất. Gray thầm nghĩ sao Monk lại làm vậy. Linh mục trả lời Monk. “Ở đây có một gian đựng đồ quý. Nó chứa những thứ giá trị từ thời nhà thoằ Rô- măng, từ cây thánh giá của Thánh Peter. Cùng với vài mẫu thánh giá của đức chúa Jesu. Cũng có những thứ của một vị giám mục Gô- tích vào thế kỷ XIV và một thanh kiếm khảm ngọc của Elector từ thế kỷ XV.” “Và không có gì bị lấy đi từ gian chứa đồ đó?” “Tất cả đều được kiểm kê.” Rachel trả lời. Mắt cô vẫn tập trung. “Không có gì nữa bị lấy cắp”. Kat ngồi xuống cùng với Gray nhưung mắt cô vẫn nhìn nhóm người đang đứng. “Vậy chỉ có chỗ di cốt bị lấy trộm đi. Tại sao?” Gray hướng sự chú ý của mình vào cái quan trài đang mở. Anh lấy ra một cái bút soi rồi kiểm tra bên trong. Không có đường chạm vạch, chỉ là bề mặt bằng vàng nhẵn nhụi. Anh nhận thấy có một chút bột trắng rớt xuống bên dưới. Bột? Tro hài cốt? Chỉ có một cách để tìm ra. Anh quay lại ba-lô, lấy ra bộ đồ thu thập chứng cứ. Anh bật một cái máy hút nhỏ xíu chạy bằng pin để hút chất bột đó vào một ống nghiệm vô trùng. “Anh đang làm gì vậy?” Rachel hỏi. “Nếu đây là bột từ chỗ di cốt, có thể trả lời được vài câu hỏi.” “Ví dụ như?” Anh ngồi xuống kiểm tra ống nghiệm. Có tới hơn một gam chất bột màu xám. “Chúgn ta có thể thử xem thứ bột đó có đúng là di cốt đã có từ lâu không. Sẽ biết liệu thứ di cốt bị đánh cắp có phải thuộc về người đã sống từ thời đức chúa Jesu. Hoặc không phải. Biết đâu tội ác này được thực hiện nhằm thu hồi di cốt của ai đó trong Long Đình. Một vị lãnh chúa già hoặc hoàng tử nào đấy” Anh niêm phong ống nghiệm rồi cất đi. “Tôi ũng muốn lấy ít mẫu nắp hộp thuỷ tinh bị đập vỡ trong cái vỏ đựng an toàn bên ngoài quan tài. Có thể sẽ cho biết tại sao thiết bị đó lại đập vỡ được thuỷ tinh chống đạn bắn xuyên. Các phòng thí nghiệm của chúng tôi có thể kiểm tra các thứ này để tìm ra phương thức đập”. “Tôi sẽ làm điều đó.” Monk nói và tháo cái balô ra. “Thế còn đá?” Rachel hỏi. “Hoặc các vật liệu khác bên trong nhà thờ?” “Cô định nói gì?” Gray hỏi. “Thứ gì đấy đã gây ra những cái chết cho nhưũng người đi lễ có thể đã tác động đến đá, cẩm thạch và nhựa. Cái mà mắt thường không nhìn thấy.” Gray đã không lưu ý điều này. Lẽ ra anh phải làm chuyện đó. Monk nhìn anh rồi nháy mắt. Nữ trung uý cảnh sát đang chứng tở mình không chỉ là một cô gái đẹp. Gray quay lại Kat để tổ chức phương án thu thập. Nhưng xem ra cô còn đang bận tính toán điều gì. Từ nãy Gray đã để ý cô có vẻ rất quan tâm đến cái quan tài bằng vàng, tất cả hình như vẫn trong đầu cô. Giờ thì cô ngồi xổm trên nền đá cẩm thạch của nhà thờ, gập người xuống vật gì đó. “Kat?” Cô giơ một tay lên. “Chờ một chút.” Tay kia cầm cái đèn pin nhỏ như khẩu súng. Cô bóp cò, một ngọn lửa nhỏ màu xanh phụt ra. Cô gí ngọn lửa vào một đám bột, rõ ràng vừa được quét ra từ chiếc hộp bằng một bàn chải nhỏ xinh xinh. Sau vài giây, thứ bột màu xám tan ra, sủi bong bóng và chảy thành một chất lỏng màu hổ phách. Nó lan ra trên nền đá cẩm thạch rồi đông cứng lại thành thuỷ tinh. Một lớp mỏng trên sàn đá cẩm thạch màu trắng nhìn rất rõ. “Vàng.” Monk nói. Tất cả mọi con mắt đều đổ dồn vào thí nghiệm. Kat ngồi xệp xuống, tắt ngọn lửa. “Chất bột trong quan tài, nó cũng chính là thứ trong bánh xốp bị tẩm độc. Nguyên tử đơn hoặc vàng ở trạng thái-m.” “Đó là vàng?” Rachel hỏi. “Giống như một thứ kim loại quý?” Sigma đã cung cấp cho Vatican thông tin về bánh thánh bị đầu độc để sau này việc sản xuất và cung cấp có thể được kiểm tra chặt chẽ. Cả hai nhân viên đã được thông báo, nhưng rõ ràng họ vẫn nghi ngờ. “Liệu cô có chắc không?” Rachel hỏi. Kat đang bận rộn chứng minh điều giả thuyết của mình. Cô đang thu thập mọi thứ cho vào một vật bằng thuỷ tinh. Gray biết được tính năng của cái lọ đó. Tất cả đều do các phòng thí nghiệm của Sigma cung cấp để thực hiện phi vụ này. Đã bao năm rồi, những người thợ mỏ đã sử dụng thứ này để phát hiện xem vàng có lẫn trong đất đá hay không. Sau một hồi, thuỷ tinh co lại như bị đốt bằng a-xít rồi dần lộ ra vết tích của vàng nguyên chất, một vệt trong chiếc lọ thuỷ tinh. Không còn nghi ngờ gì nữa. Ngài Verona trố mắt nhìn không chớp, một tay vẫn cầm cái cổ áo linh mục của mình. Ông lẩm bẩm. “Và những đường phố Jerusalem sẽ được lát bằng vàng thật tinh khiết như thuỷ tinh trong suốt.” Gray liếc nhìn vị linh mục bực bội. Vigor lắc đầu. “Đó là trích dẫn từ một cuốn sách...đừng trách tôi” Nhưng anh đã thấy cách ông ta thu vào tận trong rồi quay đi và tiếp tục nghĩ ngợi. Liệu ông ta có biết nhiều hơn không? Gray cảm giác có lẽ vị linh mục cũng chả biết nhiều lắm mà anh cũng cần có thời gian để tập trung suy nghĩ. Kat ngắt lời. Cô vẫn cúi gập người xem mẫu qua chiếc kính lúp khuếch đại và đèn soi cực tím. “Tôi cho rằng ở đây còn có thứ ngoài vàng nữa. Tôi đã thấy những vạch li ti của chất bạc trong chỗ vàng.” Gray dịch đến gần hơn. Kat nhường cho anh nhìn qua ống kính thí nghiệm, lấy tay che cái lọ thuỷ tinh để có thể hấp thụ tia cực tím tốt hơn. Đúng là có những hạt lấm tấm màu bạc trong đương vạch vàng kim loại. “Có thể là platinum,” Kat nói, “Nên nhớ rằng trạng thái đơn nguyên tử không chỉ xảy ra với vàng mà còn đối với bất kỳ kim loại có khả năng truyền dẫn nào trong bảng tuần hoàn, bao gồm cả platinum.” Gray gật đầu. “Thứ bột này không chỉ là vàng nguyên chất mà còn là một hỗn hợp của vài loại platinum. Hỗn hợp nhiều kim loại ở trạng thái-m.” Rachel tiếp tục nhìn chăm chú vào cốc thí nghiệm. “Liệu có phải thứ bột này bị rơi ra từ cái vỏ hộp đựng quan tài? Vàng có bị phân rã theo năm tháng hay một thứ gì đó không?” Gray lắc đầu. “Quá trình chuyển hoá từ vàng kim loại sang trạng thái –m rất phức tạp. Năm tháng không thôi không thể làm được điều này.” “Nhưng trung uý có thể đã đề cập tới điều gì đó. “Kat đáp lại. “Có thể thiết bị ấy tác động vào vàng trong hòm làm cho một số vàng nào đó bị tan chảy ra. Chúng ta vẫn chưa hiểu thiết bị tác động ra sao?” “Có thể tôi có một dấu vết.” Monk ngắt lời cô. Anh ta đang đứng cạnh cái hộp bị đập vỡ nơi anh đang cố thu thập những mảnh vỡ. Anh bước tới một cây thánh giá bằng sắt sần sùi không xa cái hộp. “Có vẻ như trong số các chuyên gia điều tra tội phạm đã bỏ qua một quả đại bác.” Monk nói. Anh cúi xuống nhặt lên một cái vỏ rỗng dưới chân tượng đức chúa Jesu bị đóng đinh. Anh lui một bước, đặt cái vỏ rỗng về phía cây thánh giá rồi bỏ tay ra. Nó rơi quá sáu feet không khí rồi bùm một cái dính chặt vào cây thánh giá. “Nó có nam châm.” Monk nói. Một tiếng nổ nữa vang lên. To hơn. Sắc nhọn. Cây thánh giá bị quần đi một nửa. Trong nửa giây, Gray không hiểu có chuyện gì xảy ra. Monk cúi xuống ban thờ. “Nằm xuống.” Anh thét lên. Những phát súng khác nổ. Gray cảm thấy như vai mình bị ai đánh, làm anh bật ngửa ra, nhưng cái áo giáp chống đạn bằng chất lỏng đã cứu anh khỏi bị thương. Rachel nắm lấy tay anh kéo vào hàng ghế. Những viên đạn bắn vào ghế làm tung các mẩu gỗ rơi xuống nền đá cẩm thạch. Kat chúi xuống cùng với vị linh mục, lấy thân mình che cho ông ta. Cô nhận một phát đạn vào đùi, chân gập khuỵu xuống nhưng cả hai đều ngã xuống sau ban thờ cùng với Monk. Gray chỉ kịp nhìn thoáng những kẻ tấn công họ. Những kẻ mặc áo choàng tu sĩ che mặt. Một tiếng giật khẽ. Gray liếc nhìn thấy một vật tròn như nắm tay được tung ra phía khoảng rộng của nhà thờ. “Lựu đạn”. Anh hét lên. Anh giật lấy cái ba-lô rồi đẩy Rachel chúi xuống dưới hàng ghế. Họ khom người chạy ra phía bức tường phía nam. °