Mọi thứ giấy tờ đã xong, hai giỏ thực phẩm vừa đủ sức cho hai cánh tay chị. Chị cùng cha chồng lên đường. Các con chị gởi cho ngoại và dì trông nom. Ba ngày ba đêm trên chuyến tàu Thống nhất Sài Gòn - Hà Nội. Chị ngồi rồi đứng. Tiếng xình xịch của tàu lửa cộng thêm sự mỏi mệt của tứ chi tù túng không đi lại được, làm chị muốn nhắm mắt, nhưng tàu đông người quá, lại sợ mấy giỏ đồ thăm nuôi bị cuỗm mất. Ngồi lâu mỏi chân, chị rút chân lên thay đổi thế ngồi. Mấy phút sau, bỏ chân xuống thì đôi dép không cánh mà bay!
Tàu vào ga Hà Nội, đêm đã xuống, ánh sáng heo hắt vàng ố trong sân ga. Cái lạnh cắt da thịt tháng giêng, chị rùng mình nghĩ ngợi, làm sao sống được nơi nầy! Nhìn xe bán bánh bao. Những chiếc bánh trắng nghi ngút khói. Đang lạnh và đói, những tuyến nước bọt trong miệng chị trào ra, nó len lén bò quanh vành môi:
- Tôi mua năm cái.
Sau khi trả tiền, hai cha con tìm chỗ ngồi ăn. Chị đưa chiếc bánh nóng kề môi, hơi nóng tỏa ra, môi chị dần dần ấm lại. Khí trời lạnh quá làm nguội bánh ngay trong giây lát. Chị cắn miếng bánh. Ngậm không nhai được, mùi gì khai nồng quá độ. Có lẽ là mùi khai bột nổi. Ăn không chết đâu, nếu ăn chết sao họ dám bán công khai vậy! Nước miếng làm bánh mềm, chị nuốt vội. Cắn tiếp miếng thứ hai, ngậm phải miếng thịt. Ôi! Tanh sao mà tanh quá! Chị quay sang hỏi cha chồng:
- Ba! Ba ăn thấy sao?  Tanh mùi gì quá con muốn ói...
Ở đây thịt bán theo tem phiếu, theo tiêu chuẩn, thịt đâu ra để làm bánh! Chỉ có cá ế, chợ tan rồi người ta mua gom về làm nhân bánh thôi!
Phút giây nầy chị ao ước có một củ khoai mì thiu nuốt dễ hơn cho đỡ đói. Đã chín giờ tối, chị mặc thêm chiếc áo len, nhưng cũng cảm thấy lạnh như mình chưa mặc gì cả. Gọi xe xích lô đến khách sạn. Khách sạn không còn phòng trống. Người quản lý khách sạn cho biết sau mười hai giờ có người sẽ trả phòng. Ba chồng chị lẩm nhẩm tính, còn ba giờ nữa: " mình đợi vậy!" Ôi! Làm sao chị đợi được! Chị tưởng tượng sẽ hóa đá khi phải ngồi trước thềm khách sạn nầy thêm vài giờ nữa. Chị đang như ngồi trong tủ lạnh. Đôi dép đã mất trên tàu lửa, hai chân chị giẫm trên gạch đá mà tưởng chừng như trên những tảng băng. Ba ngày không rửa mặt súc miệng, không tắm rửa, chị nghe như có con gì ngọ nguậy trong châu thân.
Ba ơi! Hình như Ba có quen người ở Hà Nội nầy, Ba gọi xe cho con tới đó. Con sắp chết cóng đây!
Nhẫn vừa nói, môi đánh bò cáp, hai hàm răng cụng nhau côm cốp, chị rên hừ hừ.
Ngần ngừ mấy giây, cha chị gọi xe, hai cha con đến nhà Dì Dượng Hàn ở phố Hàng Buồm. Dì Dượng ở nhà tập thể. Tầng dưới là nhà giữ trẻ, từng trên chia ra làm nhiều phòng, mỗi phòng là một gia đình. Dì duợng có hai người con trai, chỗ ở thật chật chội. Có lẽ ba chị đã từng nghe dượng tả qua, nên ông ngần ngại không muốn đến làm phiền. Riêng Nhẫn thì mừng hết biết, chị được tắm qua loa, được thay bộ đồ đã mặc ba hôm, được có chỗ đặt hai giỏ đồ không sợ ai cuỗm mất mà chị mong mỏi trao đến tay chồng. Dị Dượng nầy tập kết ra Bắc năm 1954. Biết Nhẫn đi thăm nuôi chồng, họ gom thuốc lá thuốc tây trong nhà đem tặng chị. Thấy chị đi chân trần, bà Dì cũng cho chị đôi giày mới, bà đã mua chưa hề mang. Chị sung sướng nhất là tránh được giá buốt ngoài trời. Sáng hôm sau hai cha con ra sân ga mua vé tàu đi Vĩnh Phú.
Nầy, đưa giấy tờ Ba giữ, mầy ngồi đây coi mấy giỏ đồ, để tao vào mua vé. Cẩn thận nghen...! Cha chồng căn dặn trước khi chen vào quày vé.
Sau khi nắm được hai vé tàu trên tay, chen được ra ngoài sân ga cũng đủ đổ mồ hôi hột vì làn sóng người xô đẩy. Kẻ cố chen vô, người cố trở ra. Đến chỗ Nhẫn ngồi đợi, Cha chồng chị phát giác cái bốp của ông đã bị mất rồi. Ông đến gặp công an Ga cớ mất giấy tờ.
...Tiếng còi hụ vào Ga, Nhẫn cuống quít vì thấy người trên tàu đông lúc nhúc, Họ đeo hai bên cửa lên xuống như đàn kiến bò kín lối. Cha chị leo lên tàu qua cửa sổ, người bên trong xô đẩy ông bật ra. Ông nắm được bệ cửa, gồng hai tay, mang hai giỏ đồ, đong đưa người nửa trong nửa ngoài trên thành cửa. Nhẫn đứng chết trân dưới sân Ga. Chị biết trăm phần mình không thể nào lên tàu được. Con Tàu chuyển bánh một cách chậm chạp, rồi dần nhanh. Nhẫn run bần bật khi biết chắc chị bị rớt lại trên sân Ga xa lạ nầy. Bỗng, một cánh vạm vỡ ôm cứng người chị từ phía sau lưng, đưa người chị lên cao. Nhẫn hốt hoảng há hốc mồm. Nhưng khi thấy nhiều cánh tay của những người đứng ngay cửa lên xuống đưa ra, tay kia ôm chặt thanh sắt bệ cửa. Nhẫn lẹ làng chụp ngay cánh tay họ. Người đàn ông dưới đất chạy theo con tàu, tay đưa chị cao hơn ngang với bực cấp để chị có thể bước lên. Họ nhường chỗ cho chị và nghe có tiếng bảo đi tiếp vào bên trong. Chị làm theo như đó là mệnh lệnh! Vào được bên trong toa, chị cũng nghe được lời cha chồng hỏi:
- "Nhẫn! mầy lên được rồi phải không?
- Dạ!"
Nhẫn chưa qua cơn xúc động mạnh, nước mắt chảy ròng, chị cắn chặt môi, nhưng nước mắt từ đâu cứ tuông mãi. Chị muốn cám ơn những người xa lạ ngồi quanh nàng. Cám ơn ai đó đã nhảy xuống Tàu giúp chị mà chị chưa nhìn thấy mặt. Chị nghe nhiều tiếng hỏi lao nhao. Chị không biết nên trả lời ai câu hỏi nào. Chị chỉ nói vỏn vẹn có một câu:
- "Họ bảo chồng tôi đi học tập mười ngày, rồi họ đưa ra tận đây!".
Sau đó chị không nghe ai hỏi gì nữa. Hình như từng ấy lời cũng đủ xác định chị là ai và lý do chị có mặt trên chuyến tàu nầy.
Đến ga Ấm Thượng, người chỉ còn lưa thưa, hành khách xuống dần dần từng Ga. Hai cha con mang hành lý xuống tàu, rời Ga rồi theo người hướng dẫn đến nhà tiếp tân được dựng bên bờ sông. Căn nhà tiếp tân làm bằnn quá, sao Bác Sáu cứ lẩn quẩn bên chị, giỏ thức ăn của Bác nằm đây không về nấu ăn, cá thịt ươn hết, chồng con đợi ở nhà. Chị muốn hỏi nhưng còn ngần ngại vì nhớ lại câu chuyện mẹ kể: " Nghe con đi lấy chồng xa, Bác Sáu ôm má khóc nói - "tôi có ý trông con Nhẫn hơi lớn lớn tí nữa sẽ hỏi cưới cho Thằng T., Sao chị gả nó đi xa. Con còn nhỏ, gả sao sớm vậy? " Rồi hai bà cùng khóc! Đắn đo vài giây, chị bạo dạn hỏi:
- Bác Sáu, Bác có đợi ai không?
Thằng T. bảo Bác ra xem con mua bán thứ gì nhà có thể mua về xài thì mua giùm con. Bác muốn ngồi đây chơi với con xem con buôn bán.
Ngày xưa, nhà T. và nhà chị đối diện nhau, ngày Tết Bác Sáu làm mứt chanh đẹp lắm. Bà thường gọi chị qua nhà dạy cách làm. Ngay cả đến ngày giỗ, Bác cũng để dành mâm thức ăn ngon, nhưng chị chưa bao giờ ăn mâm đó mà chỉ cho hai em gái qua thôi. Chị và T. cùng học một lớp.
Ban ngày chị gượng cười gượng nói cho mẹ già an lòng. Có lần chị nghe mẹ nói với em gái: " Chồng nó không về chắc nó điên!". Đêm xuống con đã ngủ, chui vào mùng đắp chăn phủ đầu, chị khóc giọt dài giọt ngắn tha hồ tuông cho vơi sầu muộn.
Rồi có một ngày người đưa thư mang đến cho chị một tin vui. Chị được đi thăm nuôi chồng. Suốt ngày đêm chị miên man suy nghĩ sẽ mua món gì? Cám rang trộn đường - phòng ngừa phù thũng- Muối sả trộn bột ngọt - Trong rừng chắc là cần muối - Mắm ruốc xào sả ớt - Có thể để lâu không hư - Đường - Chắc là thèm ngọt lắm. Thịt chà bông -Món nầy mùi thịt thơm cám dỗ lũ con chị số một.
Ba đứa nhỏ cứ vây quanh chảo thịt, trời nóng bức mà chúng cứ ngồi sát bên lò, mắt thao láo nhìn. Mẹ nó dùng đũa trộn đều cho mau khô, chị lựa miếng nào có dính mỡ gắp cho vào miệng con, đứa khác nhìn chờ đợi, chị gắp miếng nữa cho vô miệng đứa kia, lây đũa trộn trộn, lựa miếng nào xâu xấu cho vào miệng đứa thứ ba. Ba đứa nhỏ chạy ra ngoài chơi mấy phút, nhai xong miếng thịt, mắt liếc liếc rồi cũng chạy vào nhìn chảo thịt thèm thuống. Chị lên tiếng:
- " Để gởi cho Ba chứ con!"
Chúng tản ra xa, nhưng cũng được vài phút thôi, lại trở vô bếp nói:
- "Con coi má làm thôi mà!".
Lòng thương con dào dạt, cũng bởi thiếu thốn nên con mình mới thèm như vậy. Thuở còn bé, cha mẹ mình không giàu có bằng ai, nhưng có bao giờ mình thèm món gì đâu. Bởi được cha mẹ cho ăn uống đầy đủ... Nước mắt chị ràn rụa, nhưng giả đò nói với con: " ngồi trong bếp nóng quá nên chảy nước mắt. Chị lấy đôi đũa sắt khua qua khua lại trên thành lò: " Sao không thấy cục than nào có khói mà làm mắt cay!" Con chị còn bé quá, không hiểu gì cả, tưởng mẹ nói thật. Chảo thịt khô rồi chỉ còn độ nửa lon guigô. Đọc lại bức thư của chồng, đọc mãi đọc hoài. Bức thư bao lần ướt nhão lại khô mà chị vẫn cứ quên không nhớ anh căn dặn những gì. Anh dặn chị mua bánh thuốc lào. Miền Bắc lạnh lắm nên anh quí thứ nầy! Hỏi mấy bà bán thuốc lá cho người ăn trầu -" Đây có bán thuốc lào không? " họ trả lời "không". Đi hết chợ chị không tìm thấy thuốc lào. Từ bé đến lớn chị không thấy ai ở quê chị hút thuốc lào nên không hiểu hình dạng nó ra sao. Chị chỉ thấy thuốc điếu, thuốc gói. Vô Sài Gòn hỏi mấy bà đi thăm nuôi trước, gởi tiền và nhờ mua giùm.


Phần II

Mọi thứ giấy tờ đã xong, hai giỏ thực phẩm vừa đủ sức cho hai cánh tay chị. Chị cùng cha chồng lên đường. Các con chị gởi cho ngoại và dì trông nom. Ba ngày ba đêm trên chuyến tàu Thống nhất Sài Gòn - Hà Nội. Chị ngồi rồi đứng. Tiếng xình xịch của tàu lửa cộng thêm sự mỏi mệt của tứ chi tù túng không đi lại được, làm chị muốn nhắm mắt, nhưng tàu đông người quá, lại sợ mấy giỏ đồ thăm nuôi bị cuỗm mất. Ngồi lâu mỏi chân, chị rút chân lên thay đổi thế ngồi. Mấy phút sau, bỏ chân xuống thì đôi dép không cánh mà bay!
Tàu vào ga Hà Nội, đêm đã xuống, ánh sáng heo hắt vàng ố trong sân ga. Cái lạnh cắt da thịt tháng giêng, chị rùng mình nghĩ ngợi, làm sao sống được nơi nầy! Nhìn xe bán bánh bao. Những chiếc bánh trắng nghi ngút khói. Đang lạnh và đói, những tuyến nước bọt trong miệng chị trào ra, nó len lén bò quanh vành môi:
- Tôi mua năm cái.
Sau khi trả tiền, hai cha con tìm chỗ ngồi ăn. Chị đưa chiếc bánh nóng kề môi, hơi nóng tỏa ra, môi chị dần dần ấm lại. Khí trời lạnh quá làm nguội bánh ngay trong giây lát. Chị cắn miếng bánh. Ngậm không nhai được, mùi gì khai nồng quá độ. Có lẽ là mùi khai bột nổi. Ăn không chết đâu, nếu ăn chết sao họ dám bán công khai vậy! Nước miếng làm bánh mềm, chị nuốt vội. Cắn tiếp miếng thứ hai, ngậm phải miếng thịt. Ôi! Tanh sao mà tanh quá! Chị quay sang hỏi cha chồng:
- Ba! Ba ăn thấy sao?  Tanh mùi gì quá con muốn ói...
Ở đây thịt bán theo tem phiếu, theo tiêu chuẩn, thịt đâu ra để làm bánh! Chỉ có cá ế, chợ tan rồi người ta mua gom về làm nhân bánh thôi!
Phút giây nầy chị ao ước có một củ khoai mì thiu nuốt dễ hơn cho đỡ đói. Đã chín giờ tối, chị mặc thêm chiếc áo len, nhưng cũng cảm thấy lạnh như mình chưa mặc gì cả. Gọi xe xích lô đến khách sạn. Khách sạn không còn phòng trống. Người quản lý khách sạn cho biết sau mười hai giờ có người sẽ trả phòng. Ba chồng chị lẩm nhẩm tính, còn ba giờ nữa: " mình đợi vậy!" Ôi! Làm sao chị đợi được! Chị tưởng tượng sẽ hóa đá khi phải ngồi trước thềm khách sạn nầy thêm vài giờ nữa. Chị đang như ngồi trong tủ lạnh. Đôi dép đã mất trên tàu lửa, hai chân chị giẫm trên gạch đá mà tưởng chừng như trên những tảng băng. Ba ngày không rửa mặt súc miệng, không tắm rửa, chị nghe như có con gì ngọ nguậy trong châu thân.
Ba ơi! Hình như Ba có quen người ở Hà Nội nầy, Ba gọi xe cho con tới đó. Con sắp chết cóng đây!
Nhẫn vừa nói, môi đánh bò cáp, hai hàm răng cụng nhau côm cốp, chị rên hừ hừ.
Ngần ngừ mấy giây, cha chị gọi xe, hai cha con đến nhà Dì Dượng Hàn ở phố Hàng Buồm. Dì Dượng ở nhà tập thể. Tầng dưới là nhà giữ trẻ, từng trên chia ra làm nhiều phòng, mỗi phòng là một gia đình. Dì duợng có hai người con trai, chỗ ở thật chật chội. Có lẽ ba chị đã từng nghe dượng tả qua, nên ông ngần ngại không muốn đến làm phiền. Riêng Nhẫn thì mừng hết biết, chị được tắm qua loa, được thay bộ đồ đã mặc ba hôm, được có chỗ đặt hai giỏ đồ không sợ ai cuỗm mất mà chị mong mỏi trao đến tay chồng. Dị Dượng nầy tập kết ra Bắc năm 1954. Biết Nhẫn đi thăm nuôi chồng, họ gom thuốc lá thuốc tây trong nhà đem tặng chị. Thấy chị đi chân trần, bà Dì cũng cho chị đôi giày mới, bà đã mua chưa hề mang. Chị sung sướng nhất là tránh được giá buốt ngoài trời. Sáng hôm sau hai cha con ra sân ga mua vé tàu đi Vĩnh Phú.
Nầy, đưa giấy tờ Ba giữ, mầy ngồi đây coi mấy giỏ đồ, để tao vào mua vé. Cẩn thận nghen...! Cha chồng căn dặn trước khi chen vào quày vé.
Sau khi nắm được hai vé tàu trên tay, chen được ra ngoài sân ga cũng đủ đổ mồ hôi hột vì làn sóng người xô đẩy. Kẻ cố chen vô, người cố trở ra. Đến chỗ Nhẫn ngồi đợi, Cha chồng chị phát giác cái bốp của ông đã bị mất rồi. Ông đến gặp công an Ga cớ mất giấy tờ.
...Tiếng còi hụ vào Ga, Nhẫn cuống quít vì thấy người trên tàu đông lúc nhúc, Họ đeo hai bên cửa lên xuống như đàn kiến bò kín lối. Cha chị leo lên tàu qua cửa sổ, người bên trong xô đẩy ông bật ra. Ông nắm được bệ cửa, gồng hai tay, mang hai giỏ đồ, đong đưa người nửa trong nửa ngoài trên thành cửa. Nhẫn đứng chết trân dưới sân Ga. Chị biết trăm phần mình không thể nào lên tàu được. Con Tàu chuyển bánh một cách chậm chạp, rồi dần nhanh. Nhẫn run bần bật khi biết chắc chị bị rớt lại trên sân Ga xa lạ nầy. Bỗng, một cánh vạm vỡ ôm cứng người chị từ phía sau lưng, đưa người chị lên cao. Nhẫn hốt hoảng há hốc mồm. Nhưng khi thấy nhiều cánh tay của những người đứng ngay cửa lên xuống đưa ra, tay kia ôm chặt thanh sắt bệ cửa. Nhẫn lẹ làng chụp ngay cánh tay họ. Người đàn ông dưới đất chạy theo con tàu, tay đưa chị cao hơn ngang với bực cấp để chị có thể bước lên. Họ nhường chỗ cho chị và nghe có tiếng bảo đi tiếp vào bên trong. Chị làm theo như đó là mệnh lệnh! Vào được bên trong toa, chị cũng nghe được lời cha chồng hỏi:
- "Nhẫn! mầy lên được rồi phải không?
- Dạ!"
Nhẫn chưa qua cơn xúc động mạnh, nước mắt chảy ròng, chị cắn chặt môi, nhưng nước mắt từ đâu cứ tuông mãi. Chị muốn cám ơn những người xa lạ ngồi quanh nàng. Cám ơn ai đó đã nhảy xuống Tàu giúp chị mà chị chưa nhìn thấy mặt. Chị nghe nhiều tiếng hỏi lao nhao. Chị không biết nên trả lời ai câu hỏi nào. Chị chỉ nói vỏn vẹn có một câu:
- "Họ bảo chồng tôi đi học tập mười ngày, rồi họ đưa ra tận đây!".
Sau đó chị không nghe ai hỏi gì nữa. Hình như từng ấy lời cũng đủ xác định chị là ai và lý do chị có mặt trên chuyến tàu nầy.
Đến ga Ấm Thượng, người chỉ còn lưa thưa, hành khách xuống dần dần từng Ga. Hai cha con mang hành lý xuống tàu, rời Ga rồi theo người hướng dẫn đến nhà tiếp tân được dựng bên bờ sông. Căn nhà tiếp tân làm bằnn quá, sao Bác Sáu cứ lẩn quẩn bên chị, giỏ thức ăn của Bác nằm đây không về nấu ăn, cá thịt ươn hết, chồng con đợi ở nhà. Chị muốn hỏi nhưng còn ngần ngại vì nhớ lại câu chuyện mẹ kể: " Nghe con đi lấy chồng xa, Bác Sáu ôm má khóc nói - "tôi có ý trông con Nhẫn hơi lớn lớn tí nữa sẽ hỏi cưới cho Thằng T., Sao chị gả nó đi xa. Con còn nhỏ, gả sao sớm vậy? " Rồi hai bà cùng khóc! Đắn đo vài giây, chị bạo dạn hỏi:
- Bác Sáu, Bác có đợi ai không?
Thằng T. bảo Bác ra xem con mua bán thứ gì nhà có thể mua về xài thì mua giùm con. Bác muốn ngồi đây chơi với con xem con buôn bán.
Ngày xưa, nhà T. và nhà chị đối diện nhau, ngày Tết Bác Sáu làm mứt chanh đẹp lắm. Bà thường gọi chị qua nhà dạy cách làm. Ngay cả đến ngày giỗ, Bác cũng để dành mâm thức ăn ngon, nhưng chị chưa bao giờ ăn mâm đó mà chỉ cho hai em gái qua thôi. Chị và T. cùng học một lớp.
Ban ngày chị gượng cười gượng nói cho mẹ già an lòng. Có lần chị nghe mẹ nói với em gái: " Chồng nó không về chắc nó điên!". Đêm xuống con đã ngủ, chui vào mùng đắp chăn phủ đầu, chị khóc giọt dài giọt ngắn tha hồ tuông cho vơi sầu muộn.
Rồi có một ngày người đưa thư mang đến cho chị một tin vui. Chị được đi thăm nuôi chồng. Suốt ngày đêm chị miên man suy nghĩ sẽ mua món gì? Cám rang trộn đường - phòng ngừa phù thũng- Muối sả trộn bột ngọt - Trong rừng chắc là cần muối - Mắm ruốc xào sả ớt - Có thể để lâu không hư - Đường - Chắc là thèm ngọt lắm. Thịt chà bông -Món nầy mùi thịt thơm cám dỗ lũ con chị số một.
Ba đứa nhỏ cứ vây quanh chảo thịt, trời nóng bức mà chúng cứ ngồi sát bên lò, mắt thao láo nhìn. Mẹ nó dùng đũa trộn đều cho mau khô, chị lựa miếng nào có dính mỡ gắp cho vào miệng con, đứa khác nhìn chờ đợi, chị gắp miếng nữa cho vô miệng đứa kia, lây đũa trộn trộn, lựa miếng nào xâu xấu cho vào miệng đứa thứ ba. Ba đứa nhỏ chạy ra ngoài chơi mấy phút, nhai xong miếng thịt, mắt liếc liếc rồi cũng chạy vào nhìn chảo thịt thèm thuống. Chị lên tiếng:
- " Để gởi cho Ba chứ con!"
Chúng tản ra xa, nhưng cũng được vài phút thôi, lại trở vô bếp nói:
- "Con coi má làm thôi mà!".
Lòng thương con dào dạt, cũng bởi thiếu thốn nên con mình mới thèm như vậy. Thuở còn bé, cha mẹ mình không giàu có bằng ai, nhưng có bao giờ mình thèm món gì đâu. Bởi được cha mẹ cho ăn uống đầy đủ... Nước mắt chị ràn rụa, nhưng giả đò nói với con: " ngồi trong bếp nóng quá nên chảy nước mắt. Chị lấy đôi đũa sắt khua qua khua lại trên thành lò: " Sao không thấy cục than nào có khói mà làm mắt cay!" Con chị còn bé quá, không hiểu gì cả, tưởng mẹ nói thật. Chảo thịt khô rồi chỉ còn độ nửa lon guigô. Đọc lại bức thư của chồng, đọc mãi đọc hoài. Bức thư bao lần ướt nhão lại khô mà chị vẫn cứ quên không nhớ anh căn dặn những gì. Anh dặn chị mua bánh thuốc lào. Miền Bắc lạnh lắm nên anh quí thứ nầy! Hỏi mấy bà bán thuốc lá cho người ăn trầu -" Đây có bán thuốc lào không? " họ trả lời "không". Đi hết chợ chị không tìm thấy thuốc lào. Từ bé đến lớn chị không thấy ai ở quê chị hút thuốc lào nên không hiểu hình dạng nó ra sao. Chị chỉ thấy thuốc điếu, thuốc gói. Vô Sài Gòn hỏi mấy bà đi thăm nuôi trước, gởi tiền và nhờ mua giùm.