uan án sát trở về phòng mình. Chuyến đi này ông cần phải chuẩn bị cẩn thận. Những người bà con của một kẻ can tội đại nghịch, dù là họ hàng xa hay gần, thường e dè sợ sệt quá đáng đối với các quan chức Nhà nước. Sự việc qua nhiều năm, tuy đã cũ nhưng lỡ ra người ta mới phát hiện thêm cái gì đó và họ vẫn có thể bị lôi kéo vào chỗ rắc rối tai hoạ! Quan án sát lấy ở chỗ nghiên bút một mảnh giấy đỏ, viết tên hai chữ to “Tống Lương”. Ông viết thêm ở bên phải hai chữ nhỏ “Đại biểu” và ở bên trái viết một địa chỉ do ông tưởng tượng ra thuộc tỉnh Quảng Đông. Sau khi thay một bộ quần áo bằng vải bông giản dị màu xanh biếc, đội chiếc mũ trùm nhỏ màu đen, ông ra khỏi khu toà án bằng cửa ngách. Ra phố, thấy một chiếc kiệu nhỏ đậu ở góc đường, ông đi lại bảo phu kiệu đưa ông đến nhà ông Hoàng bán ngũ kim. Nghe nói đến cái tên Hoàng, mới đầu phu kiệu từ chối, viện cớ đường xa khó đi. Sau thấy ông không mặc cả lại hứa thưởng thêm tiền thì họ nhận lời và nhanh nhảu lên đường. Hai bên đường phố các hàng quán san sát. Nhìn cảnh làm ăn buôn bán thịnh vượng dọc Đại Lộ, quan án sát liên tưởng tới hoàn cảnh của người bán ngũ kim không có tiền nộp cổ phần cho hội. Chắc hẳn gia tài ông ta đã bị khánh kiệt. Ông bảo phu kiệu dừng lại, vào hiệu mua một tấm vải bông màu xanh nhạt loại tốt. Lại sang cửa hàng bên cạnh mua thêm hai con vịt ám khói và một hộp bánh trung thu. Sau đó lên kiệu đi tiếp. Đi khỏi cái chợ, qua một vùng dân cư khá giả giống như khu dân cư nhà ông Minh, đến một khu nghèo khổ chằng chịt những ngõ ngách lát gạch cẩu thả, chật hẹp và hôi thối. Một tốp trẻ con mắt mũi nhem nhuốc, quần áo lôi thôi lếch thếch, rách rưới, đang nô đùa bên cạnh những đống rác. Thấy chiếc kiệu đi đến, một thứ lạ mắt ít khi chúng được nhìn thấy. Bọn trẻ ngừng chơi, trố mắt, há mồm, ngây ra đứng nhìn. Quan án sát quay mặt đi. Ông không muốn nhìn cảnh bọn trẻ! Ông bảo phu kiệu hạ xuống trước một quán trà rồi sai một người ở lại trông kiệu còn một người mang tấm vải cùng với cái làn tre đựng hai con vịt và bánh đi theo ông. Ông mừng thầm vì phu kiệu đã không phải đi loanh quanh mất thì giờ trong cái khu chằng chịt, toàn những ngõ ngách ngang dọc như mạng nhện này. Tuy nhiên, họ cũng phải hỏi thăm đường một đôi lần bằng tiếng địa phương. Cái gọi là cửa hàng của Hoàng chỉ là một cái lán con đơn giản dựng giữa trời, mái lợp bằng những mảnh vải bạt rách bươm, buộc đùm buộc túm vào với khung lán tồi tàn, vách trát bằng đất. Trước lán có một dãy bát đĩa rẻ tiền bằng kim loại treo lủng lẳng trên một cây sào buộc nằm ngang, dưới là cái bàn kê trên hai chiếc mễ, mặt bàn bày một số đĩa và bát bằng đất nung. Đứng sau cái “cơ nghiệp kếch xù” ấy là ông chủ hiệu, áo quần vá chằng vá đụp, đang hì hụi xâu mấy đồng xu vào một sợi dây. Khi quan án sát đặt tờ danh thiếp đỏ lên quầy hàng, người đàn ông lắc đầu nói: - Tôi chỉ đọc được chữ Tống, – ông ta nói bằng giọng yếu ớt. – Ông muốn hỏi ai ạ? - Tôi là Tống Lương, dân biểu tỉnh Quảng Đông, – quan án sát giải thích. – Tôi là anh em họ xa của bà nhà, muốn vào thăm anh chị một lúc rồi trở về kinh đô. Bộ mặt khó đăm đăm của Hoàng chợt tươi tỉnh. Ông ta quay về phía bà vợ đang ngồi khâu trên chiếc ghế dài kê sát tường, nói to: - Bà ơi, ông ấy bảo là người bà con của bà ở Quảng Đông! Thế là cuối cùng họ hàng cũng có người nhớ đến bà rồi. Tên ông ấy là Tống Lương, em họ của bà đấy! Thưa ông, xin mời ông quá bộ vào nhà. Ông vừa đi đường xa đến chắc là mệt lắm! Người vợ vội vàng đứng lên. Trong khi đó quan án sát bảo phu kiệu để các thứ lại cho ông và ra đợi ông ở cửa hiệu trước mặt. Ông hàng ngũ kim đưa quan án sát vào một gian nhà chật chội vừa làm chỗ ngủ, vừa làm chỗ đun nấu. Ông ta vội vàng lấy giẻ lau mặt bàn dính đầy mỡ. Quan án sát ngồi xuống chiếc ghế đẩu bằng tre và nói với người vợ ông ngũ kim: - Tôi mới nhận được thư của ông cậu tôi từ kinh đô gửi đến báo tin các cụ thân sinh ra chị đã mất, chị ạ và cho biết địa chỉ của chị. Hôm nay tôi có việc đi qua huyện Tần Hoài nên tìm đến nhà biếu chị một vài món quà nhỏ nhân ngày Tết Trung thu. Bà vợ ông ngũ kim cầm cái gói mở ra, trố mắt nhìn tấm vải. Tuổi bà có thể chỉ độ bốn mươi, mặt cân đối nhưng hốc hác và có rất nhiều nếp nhăn. - Chú rộng rãi quá, chú em họ ạ! – Ông chồng sững sờ thốt lên. – Trời ơi, thứ vải này đẹp quá! Biết lấy gì đền đáp lại tấm lòng tốt của chú… - Đơn giản thôi! Cứ cho người khách bộ hành đơn độc này chén một bữa mừng Tết Trung Thu với anh chị là được! Tôi cũng mang theo phần đóng góp nhỏ mọn của mình đây! Quan án sát mở một bên nắp làn đưa cho Hoàng hộp bánh trung thu. Người bán ngũ kim vẫn không rời mắt khỏi chiếc làn. - Hai con vịt nguyên! Chặt cẩn thận vào, bà nó ạ, rồi lấy hộ tôi mấy cái bát với cả chén uống rượu nữa! Hũ rượu vang ở góc nhà định để uống Tết, nhưng chưa bao giờ tôi nghĩ lại được uống với các thức nhắm như thế này. Ông ta rót nước trà vào chén cho quan án sát rồi lễ phép hỏi thăm vài câu về gia đình của ông ở Quảng Đông hiện còn những ai, về công việc và chuyến đi lần này của ông. Quan án sát kể cho ông ta nghe những câu chuyện do ông nghĩ ra nhưng có sức thuyết phục để khẳng định rằng ăn xong là ông phải đi ngay. - Bây giờ chúng ta ăn một con vịt, – quan án sát nói. – Còn một con để đến tối anh chị dùng. Người bán ngũ kim trịnh trọng nói. - Cứ ăn hết đi cậu ạ, không để cái gì đến bữa sau cả! Từ giờ đến tối ai mà biết được ông trời và con người sẽ đem đến cho chúng ta những tai hoạ mới gì nữa. Ông ta quay về phía bà vợ đang chăm chú lắng nghe câu chuyện giữa hai người, cất tiếng cười thanh thản khiến cho bộ mặt mòn mỏi vì sợ thiếu thốn của ông ta rạng rỡ hẳn lên. - Bà ơi, từ nay tôi hứa với bà, sẽ không bao giờ nói xấu gia đình nhà bà một nửa câu! Người vợ nhìn quan án sát và nói bằng một giọng hối tiếc: - Từ dạo xảy ra cái việc ghê gớm ấy, cậu ạ, không còn ai dám đến hỏi thăm vợ chồng chúng tôi nữa. - Ở tận miền Nam người ta cũng nói thế. – Quan án sát nhận xét. – Thật là ngao ngán, cô em gái của chị cũng chết trước ngày xảy ra tấn thảm kịch gia đình, nhưng nếu đứng trên quan điểm lợi ích chung của cả gia đình thì như thế lại hơn, chị ạ. Như thế chúng ta khỏi bị lôi kéo vào sự việc ấy. Hai vợ chồng ông ngũ kim gật đầu cho là phải. - Thế còn cháu Ái Viên thế nào rồi hả chị? – Quan án sát hỏi. - Ái Viên à? – Hoàng hỏi lại. – Nghe nói cách đây hai năm nó thi đỗ và đã trở thành nhà học giả rồi! Thế thì làm sao nó còn nhớ đến bác của nó nữa cơ chứ! - Vì sao em gái chị lại tự tử? Cô ấy bị ông đại tướng ngược đãi à? - Không, không phải thế, – người đàn bà chậm rãi trả lời, – Ông đại tướng đối xử với cô ấy tốt lắm, nhất là sau khi cô ấy sinh thằng Ái Viên, thằng con trai rất kháu khỉnh. Nhưng em gái tôi đã… - Cô ấy là một người độc ác… – Hoàng vửa bắt đầu mở miệng lại im bặt vì câu nói xen vào của vợ. - Ông ơi! Ông hãy giữ mồm giữ miệng một tí! Rồi bà quay sang nói với quan án sát: - Ở địa vị cô ấy không thể làm khác được, cậu ạ. Có thể đấy là lỗi của bố tôi. Chung quy… Người đàn bà rót nước vào các chén và thở dài: - Cho đến năm mười lăm tuổi, cô ấy vẫn còn là một cô gái dịu dàng và biết vâng lời. Tính rất yêu thích loài vật. Một hôm cô ấy mang về nhà một con cáo nhỏ. Bố tôi trông thấy rất sợ vì bộ lông của nó đen ngòm. Thế là ông đem giết nó đi. Việc ấy làm em gái tôi bị một cơn xúc động bột phát và từ đó trở đi, tính tình cô ấy thay đổi hẳn. Hoàng nhìn quan án sát vẻ lúng túng: - Hồn của con cáo cái nhập vào cô ấy đấy mà! Vợ Hoàng nói tiếp: - Bố tôi đã đi mời một giáo sĩ đạo Lão về nhà. Nhưng những lời nguyền rủa của ông thầy tu cũng chẳng xua đuổi được hồn con cáo cái đi. Năm mười sáu tuổi, em gái tôi trở thành một cô gái rất lẳng lơ, khêu gợi bất cứ anh thanh niên nào đến gặp. Cô ấy có nhan sắc, mẹ tôi buộc phải theo dõi suốt từ sáng đến tối. Thế rồi một hôm đẹp trời có một bà già bán lược và các đồ mỹ phẩm đến mách mối với bố tôi rằng bà vợ cả của tướng Mạc đang tìm nàng hầu cho ông chồng già của bà ấy. Biết tin đó, bố tôi rất mừng. Sau khi em tôi được dẫn vào ra mắt bà đệ nhất phu nhân và được bà ưng thuận thì mọi việc coi như xong xuôi êm thấm. Về nơi nhà cao cửa rộng, em gái tôi phải làm lụng vất vả nhưng được cái cứ mỗi lần tết đến, bà đệ nhất phu nhân lại cho cô ấy một tấm áo dài mới và sau khi sinh thằng Ái Viên, người ta chỉ còn đánh đập cô ấy đâu có một lần. - Chính cô ấy đã lừa dối mọi người, cái đồ đĩ – Hoàng không nhịn được nữa, miệng lầu bầu rồi bưng chén rượu lên uống một hơi. - Một hôm – bà vợ ông ngũ kim vén mớ tóc xám xoã xuống trán nói tiếp, – tôi ra chợ gặp đứa ở gái của bà đệ nhất phu nhân. Nó bảo tôi may mắn có một cô em gái lấy chồng giàu sang mà không quên gia đình, tuần lễ nào cũng về thăm bố mẹ. Tôi chợt hiểu ngay câu nói đó bao hàm một sự khinh bỉ ghê gớm bởi vì thực ra có đến sáu tháng nay cô ấy không bén mảng về nhà. Nhưng sau đó thì cô ấy về: về để chờ ngày ở cữ. Cái thai trong bụng không phải là con ông đại tướng. Tôi đưa cô ấy đến nhà bà đỡ. Bà đỡ cho uống đủ các thứ thuốc nhưng không ăn thua gì. Cuối cùng cô ấy đẻ ra một đứa con gái rồi về thú thật với ông đại tướng là mình trót dại, chửa hoang và đã vứt bỏ đứa con gái vừa mới đẻ ở ngoài đường. - Đấy, cô ấy như thế đấy! – Hoàng bực tức kêu lên. – Cô ấy là giống đàn bà cáo, là người không có trái tim! - Có lẽ cô ấy hối hận vì đã làm một việc thất đức, vứt bỏ đứa con mình dứt ruột đẻ ra! – Bà vợ ông ngũ kim nói. – Cô ấy bọc đứa trẻ đỏ hỏn vào một mảnh vải Ấn Độ để nó khỏi bị chết rét. Cậu có biết cái thứ vải vàng gọi là vải hoàng bào không? Rất đắt tiền, nhà sư dùng để… (thấy vẻ mặt quan án sát có vẻ sững sờ, bà vội nói). Tôi lấy làm tiếc đã kể cho cậu nghe câu chuyện không vui! Chuyện cũ rồi, nhưng tôi vẫn còn… Và bà sụt sịt khóc. - Thôi bà ơi, – ông bán ngũ kim vỗ vai vợ an ủi, – bây giờ không khóc nữa. Tôi với bà không có con cái… Cậu thông cảm, – ông nói với quan án sát, – vợ chồng tôi không có con nên hễ cứ nhắc đến chuyện ấy là bà nhà tôi lại tủi thân. Nói tóm lại là cái ông đại tướng già đã điều tra và biết tất cả cậu ạ. Theo lời một phu kiệu của ông đại tướng, thì ông ấy doạ sẽ tự tay chặt đầu kẻ ngoại tình với vợ ông ấy và chặt cả đầu cô ấy luôn thể. Cô ấy vội thắt cổ tử tự. Ông đại tướng già thì cũng chẳng kịp hạ thủ người tình địch, bởi vì ngay hôm sau ông đã bị lính nhà vua kéo đến bắt và chính ông ấy bị người ta chặt đầu! Câu chuyện thật là oái oăm cậu ạ! Nào, cậu uống nữa đi! Cả bà nữa, uống đi! - Tình nhân của cô ấy là ai thế? - Cái đó thì tôi chịu, chẳng biết, cậu ạ, – bà vợ lau nước mắt trả lời. – Thật quả cô ấy chỉ nói với tôi rằng ông ta là một người có học vấn rất cao, muốn vào ra triều đình lúc nào cũng được. - Tôi rất mừng là cậu đã tìm được chị của cậu, – Hoàng thốt lên mặt đã đỏ ửng. – Chị cậu phải làm việc vất vả nên già trước tuổi. Bà ấy định khâu vá thuê để nuôi tôi sống lần hồi ngày hai bữa, nhưng đúng bà ấy chẳng hiểu gì về công việc của đàn ông chúng tôi. Cậu cứ nghĩ mà xem! Bà ấy muốn tôi thôi không góp cổ phần với hội nữa! Tôi không nghe. Tôi bảo nếu như thế thì rồi sẽ phải bán cả cái quần mặc mùa rét của bà đi mà ăn đấy! Trong gia đình, người đàn ông không có trách nhiệm gì cả thì anh ta chỉ là một con chó hoang! Và bây giờ là tôi có lý cậu ạ, bởi vì nhờ tấm vải đẹp này, tôi sẽ có một bộ cánh tươm tất mặc vào để bán hàng được vài năm ấy chứ! Nó còn thuận lợi cho việc buôn bán của tôi nữa chứ! Một ông chủ áo quần bảnh bao đứng sau quầy hàng ai mà chả tín nhiệm hả cậu! Ăn cơm xong, quan án sát nói với vợ chồng ông ngũ kim: - Ngày mai anh chị đến chỗ làm việc của quan tri huyện mang theo tấm danh thiếp của tôi. Tôi đã nói chuyện với ông giám quận xem từ nay trở đi có việc gì khác và giao cho chị làm không? Nói xong quan án sát đứng dậy. Hoàng cùng với bà vợ cố giữ, nhưng ông giải thích với họ rằng ông cần phải đi ngay cho kịp chuyến đò ngang. Người phu kiệu dẫn ông đến quán trà, nơi chiếc kiệu đang chờ. Ông ngồi trên kiệu, tâm trạng rối bời. Kiệu đưa ông vào Đại Lộ và dừng lại ở góc phố. Ông trả tiền rồi đi thẳng đến toà án. Người lính gác ra mở cổng và báo cho quan tri huyện đang ở tiền sảnh tầng dưới ngôi dinh thự chính. Trông chừng cuộc họp thơ chưa bắt đầu, quan án sát đi nhanh về phía phòng mình. Ông mở ngăn kéo lấy tập hồ sơ vụ án nữ thi sĩ, rồi cứ đứng như thế mà giở tập hồ sơ đọc cho đến khi tìm được lá thư nặc danh tố giác cái xác người vùi dưới gốc cây anh đào sau đền Bạch Hạc. Ông lại rút lá thư nặc danh tố giác đại tướng Mạc trong ống tay áo ra, đặt hai lá thư bên cạnh nhau, vừa so sánh vừa vuốt chùm râu dài đen nhánh. Cả hai bức thư đều là bản sao do những viên thư lại viết, nét chữ không có gì đặc biệt, nhưng cách hành văn cho thấy hai lá thư có thể do một người viết. Quan án sát gật gù tỏ vẻ nghi hoặc rồi nhét cả hai lá thư vào ống tay áo, bước ra khỏi phòng đi về phía sân chính. Quan tri huyện tay cầm chiếc bút lông, môi mím chặt, đang ngồi sau chiếc bàn pha trà của ông, mặt bàn bề bộn giấy. Ngước mắt lên thấy quan án sát, quan tri huyện sôi nổi nói với bạn đồng nghiệp: - Tôi đang đọc và sửa lại những tác phẩm mới của tôi, ông Địch ạ. Ông thử nghe xem liệu ông viện sĩ có hoan nghênh cái nhịp điệu lặp đi lặp lại của bài ca ngợi này không nhỉ? Quan tri huyện sắp đọc cho quan án sát nghe bài thơ ông đang sửa thì quan án sát đã gạt đi: - Thôi thôi, để lần khác bác Lã ạ! Đệ phải truyền đạt cho quan bác một phát hiện rất kỳ lạ. – ông vừa nói vừa ngồi xuống trước mặt người bạn đồng sự. – Đệ chỉ nói ngắn gọn bởi vì đệ biết quan bác sắp phải đến thư viện, bây giờ gần bốn giờ rồi. - Ô không, chúng ta còn nhiều thời gian lắm, tiên sinh ạ! Bữa ăn trưa nay trên sân thứ tư quá dài. Thi sĩ triều đình và cô Dược Lan ra một vài câu thơ và chúng tôi vừa tranh luận vừa uống rượu mạnh! Bốn vị khách đều về phòng ngủ của mình ngủ trưa. Hiện giờ chắc chưa có ai thức dậy. - Tốt lắm! Như vậy là cả bốn người không ai đi đâu. Viên giám quận của quan bác cũng đỡ theo dõi họ. Thế này nhé, chàng phó bảng bị ám sát có người mẹ là hầu thiếp của đại tướng Mạc Đức Linh. Bà ta ngoại tình với một người, chưa biết là ai, có chửa và đã bỏ rơi đứa con gái mình đẻ ra. Đứa con gái bị bỏ rơi ấy không phải ai khác chính là Hoàng Liên, cô gái giữ miếu Cáo Đen! Trước con mắt sửng sốt của quan tri huyện, quan án sát giơ tay nói tiếp: - Đứa trẻ bị bỏ rơi được bọc vào một mảnh vải vàng và người nhặt được đứa bé đã lấy để đặt tên cho nó. Như vậy Hoàng Liên với phó bảng Tống là hai anh em cùng mẹ khác cha và đó là lý do tại sao Tống lại nói với Hoàng Liên là anh ta không thể lấy cô gái làm vợ. Như vậy cũng có nghĩ là bố Hoàng Liên và kẻ giết Tống chỉ là một. Trước khi bị bắt, vị đại tướng tuổi tác ấy đã nói với mẹ Tống rằng ông biết rõ ai là người tình của bà, hắn là một người bạn cũ của ông và ông sẽ giết cả hai. Mẹ Tống thắt cổ tự tử hôm trước thì hôm sau đại tướng Mạc bị bắt. Ông ta không còn kịp rửa hận với kẻ tình địch của mình. - Trời đất ơi! Làm sao mà ông biết được ngần ấy thứ? - Chủ yếu là ở trong các hồ sơ của ông đấy! Phó bảng Tống chắc đã biết rõ người tình của mẹ anh ta là ai. Chính hắn đã dùng thủ đoạn nham hiểm để ghép bố anh ta vào tội phản nghịch và để khỏi bị ông tố giác hắn về tội ngoại tình. Theo đệ, về điểm này Tống đã lầm bởi vì sau khi đọc các báo cáo chính thức, đệ tin rằng ông đại tướng có tội. Nhưng kẻ ngoại tình với vợ ông ta nhất định cũng phải là một kẻ thuộc nhóm âm mưu làm phản. Vì có thế hắn mới biết đích xác ông đại tướng phải bị bắt ngay từ những ngày đầu của cuộc điều tra, để ông không còn kịp chống lại hắn nữa! - Đừng vội ông Địch! – Quan tri huyện giơ tay nói. – Nếu ông đại tướng đích thực là có tội thì tại sao người tố giác ông ấy lại phải giết phó bảng Tống? Một người có hành động đáng khen ngợi tố giác một ông tướng can tội phản nghịch lẽ nào làm một việc tồi tệ như vậy? - Người đó, chắc phải giữ địa vị khá cao ở cung đình, bác Lã ạ. Và thuộc lớp người nói chung chỉ có tội ngoại tình là có thể đe doạ mạnh đến uy tín của họ mà thôi! Mặt khác, chắc ông ta phải liên hệ vào âm mưu làm phản của ông hoàng thứ chín thì mới biết rõ các lá thư giấu ở đâu cụ thể đến thế. Cũng chính vì lẽ đó mà mặc dầu triều đình đã hứa trọng thưởng, ông ta vẫn không dám xuất đầu lộ diện! - Đúng quá, trời ơi! Nhưng ông ta là ai, hả ông Địch? - Đệ sợ là một người nào đó trong ba vị thượng khách của quan bác, là ông Triệu, ông Trương hoặc Lỗ Huynh, quan bác ạ! Không, quan bác đừng phản đối vô ích. Đệ có bằng chứng không thể chối cãi được. Rồi đây, Hoàng Liên sẽ nói rõ chuyện gì sẽ xảy ra. Cho dù người bố ấy có bịt kín mặt đến thăm con gái thì cô gái kia vẫn có thể nhận ra giọng nói và dáng điệu, cử chỉ của ông ta, đệ cam đoan như thế! - Ông suy nghĩ về Lỗ Huynh chưa nghiêm túc đâu, ông Địch ạ. Đàn bà ai lại thích làm nhân tình của ông ta kia chứ! - Dứt khoát đệ không nghĩ như quan bác, bác Lã ạ. Người mẹ phó bảng Tống là một phụ nữ đồi bại. Theo lời của một người họ hàng với bà ta thì bà ta đã bị hồn của con cáo cái đen nhập vào. Nhưng dù sao bà ta vẫn cứ là một người đàn bà hư hỏng. Mười bảy tuổi làm vợ lẽ một ông già sáu mươi. Còn Người Đào Huyệt, về hình thức đệ đồng ý với quan bác là xấu xí, có thể không mua chuộc nổi bà ta, nhưng ông ta lại có cá tính rất mạnh mẽ, độc đoán và phụ nữ có nhiều người lại nhạy cảm với loại đàn ông này. Khi nào họp bình thơ quan bác có thể để ý tìm hiểu xem ông Trương và Người Đào Huyệt có ở Tần Hoài trong thời gian xảy ra vụ án đại tướng Mạc hay không? Về ông viện sĩ, chúng ta đều đã biết thời gian đó ông ấy có mặt ở Tần Hoài với tư cách tuần phủ của vùng này. Bây giờ, quan bác có thể cho gọi ông giám quận của quan bác đến đây được không? Quan tri huyện vỗ hai bàn tay vào nhau và khi đứa đầy tớ chạy vào, ông sai nó đi gọi viên giám quận. - Bác Lã ạ, – quan án sát nói, – đệ cũng muốn quan bác làm thế nào tìm hiểu xem trong ba vị khách ta nghi vấn, có vị nào có mặt ở vùng hồ vào mùa xuân năm ngoái, tức là vào thời gian nữ thi sĩ Dược Lan bị bắt ở đền Bạch Hạc? - Sao ông lại muốn biết việc ấy? – Quan tri huyện ngạc nhiên hỏi. - Bởi vì trong vụ Dược Lan, các quan chức có thẩm quyền trong việc điều tra và xét xử cũng dựa vào thư nặc danh do một người học vấn cao viết. Mỗi tên tội phạm thường có những mánh khoé độc đáo riêng của nó. Trong vụ đại tướng Mạc, bức thư đã tố giác đúng, nhưng đằng sau tố giác âm mưu làm phản, người viết thư nặc danh còn muốn thực hiện một mục tiêu khác nữa tức là muốn ngăn ngừa ông đại tướng làm một cái gì đó chống lại hắn ta. Mười tám năm sau, rất có thể cũng con người học thức giỏi giang đó lại dùng lối viết thư nặc danh để tố giác nữ thi sĩ Dược Lan. Nhưng một lần nữa, nội dung tố giác việc cái xác vùi dưới gốc cây anh đào vị tất đã là mục đích thực sự của hắn ta. Bởi vậy… Quan án sát không nói nữa khi thấy viên giám quận bước vào. Ông cầm lấy cây bút lông trên tay quan tri huyện viết lên mảnh giấy lên và địa chỉ của người bán ngũ kim, và viết cả cái tên Tống Lương vào đấy. - Sáng mai bà Hoàng sẽ đến đây, trước cửa công đường với một danh thiếp mang tên Tống Lương. – quan án sát nói với viên giám quận và đưa cho ông ta mảnh giấy ông vừa viết. – Quan tri huyện muốn ông giao những việc khâu vá cho bà ấy. Khi nào bà ấy đến, ông báo bà ấy chờ một lát vì có thể chúng tôi có việc cần gặp. Bây giờ ông tìm hộ ông cố vấn Cao vào đây. Viên giám quận vừa đi khỏi, quan tri huyện bứt rứt hỏi: - Tống Lương là ai thế? - Là đệ, quan bác ạ. – quan án sát đáp. Sau đó, ông thuật lại cho người bạn đồng sự của ông nghe câu chuyện ông đến nhà người bán ngũ kim như thế nào. - Họ là những người rất chất phác, – ông kết luận, – và không có con cái. Đệ định bàn với quan bác khi nào Hoàng Liên hoàn toàn hồi phục thì giao cho họ nuôi. Bây giờ, đệ cùng với viên cố vấn của quan bác phải đến ngay đấy tìm cô gái. Còn đây là bản sao hai lá thư nặc danh, – quan án sát lấy hai lá thư đưa cho quan tri huyện. – Quan bác là người giỏi nhất môn nhận xét những sắc thái tinh tế về phương tiện văn chương chữ nghĩa, đệ yêu cầu quan bác để mắt vào đấy một tý và thử cố gắng tìm hiểu xem có phải đó là lối hành văn của một người hay không? Quan bác bỏ ngay vào ống tay áo đi, ông cố vấn đã đến kia rồi! Quan tri huyện nói với viên cố vấn: - Ông Cao, tôi muốn ông đi cùng với ông bạn đồng nghiệp của tôi đến miếu Cáo Đen. Tôi quyết định quét sạch vùng đó. Trước hết, phải tìm được cô gái dở người, tự xưng là người giữ miếu. - Tôi với ông cùng đi chung một chiếc kiệu đến đấy, ông Cao ạ, – quan án sát nói cụ thể. – Ông thầy thuốc và ông giám quận sẽ ngồi chiếc kiệu thứ hai. Chiếc kiệu này phải đóng chặt các cửa bởi vì tôi nghe nói cô gái hiện đang bị ốm nặng. Viên cố vấn cúi rạp người: - Thưa ngài, tôi sẽ chuẩn bị ngay (và quay sang nói với quan tri huyện). Thưa ngài, người hầu của ông viện sĩ đang đợi ngoài kia. Hắn được ông viện sĩ cử đến đây để báo với ngài rằng ông viện sĩ đã sẵn sàng. - Trời ơi là trời! Những bài thơ của tôi bay tứ tung cả rồi! – Quan tri huyện thốt lên. Quan án sát giúp ông nhặt nhạnh những tờ giấy vứt bừa bãi trên mặt bàn. Sau đó hai người cùng đi với nhau đến sân thứ hai thì quan án sát đi một mình về phía cổng toà án. Viên cố vấn và chiếc kiệu đang chờ ông ở cổng chính. - Thưa ngài, ông thầy thuốc và ông giám quận đều đã ngồi cả trong chiếc cáng bịt kín kia. Kiệu bắt đầu đi. Viên cố vấn nói: - Thưa ngài, cái vùng đất hoang ấy rồi đây có thể biến thành một vườn hoa công cộng. Trong thành phố mà để một khu rậm rạp cho các loại du côn trú ngụ thì chẳng hay ho gì. Ngài có tán thành ý kiến đó không ạ? - Hoàn toàn tán thành. - Chắc ngài đã tìm được những tài liệu cần thiết ở phòng lưu trữ? - Vâng, vâng. Thấy quan án sát có vẻ không muốn nói chuyện, viên cố vấn thôi không nói nữa. Nhưng khi kiệu đến phố Đền Thờ, ông ta lại gợi chuyện: - Sáng hôm qua tôi đến gặp Lỗ Huynh ở ngôi đền cuối phố. Thưa ngài, tôi đã phải chật vật lắm ông ta mới nhận lời mời của quan tri huyện. Lúc đầu Người Đào Huyệt khăng khăng từ chối. Nhưng khi tôi nói, cả ngài cũng được quan tri huyện mời đến dự tiệc, lập tức ông ta đổi ý, nhận lời. Quan án sát nhổm người trên ghế: - Thế ông ta có giải thích tại sao lại như vậy không? - Ông ta nói ám chỉ ngài là người nổi tiếng khám phá các vụ hình sự và hình như còn nói đến một kinh nghiệm về loài cáo gì đấy. - Tôi hiểu. Ông Cao này, ông nghĩ gì về lời ám chỉ đó? - Thưa ngài không ạ. Người Đào Huyệt vốn là một nhân vật rất kỳ lạ. Hình như ông ta đặc biệt nhấn mạnh với tôi việc ông ta đến Tần Hoài chiều hôm kia… Trời, sao kiệu đang đi lại dừng thế này? Viên cố vấn thò đầu ra ngoài vừa đúng lúc người đội trưởng phu kiệu xuất hiện trước khuôn cửa sổ: - Phía trước có một đám đông người tụ tập, kiệu không thể đi qua được. Ông chờ một lát để tôi bảo họ dọn đường cho kiệu đi. Quan án sát thoáng nghe những tiếng kêu gào la hét hỗn độn từ đằng xa vẳng đến. Kiệu tiếp tục đi được một quãng dài rồi lại dừng. Lần này xuất hiện một trung sĩ cảnh vệ trước khuôn cửa sổ. Anh ta lạnh lùng chào ông cố vấn. - Chán quá. Tốt nhất là ông đừng nên đi nữa. Con bé mồ côi cha mẹ sống lang thang ở miếu hoang đang lên cơn dại. Nó… Quan án sát vội vàng mở cửa bước ra khỏi kiệu. Ông thấy sáu người cảnh vệ đứng thành hàng ngang, mũi kích nhọn hoắt chĩa ra phía trước ngăn tốp dân chúng tò mò, không cho họ vượt xa. Xa hơn một chút, Hoàng Liên nằm sõng sượt trên mặt đất, mặt ngửa lên trời, chiếc áo dài rách tả tơi và lấm bê bết trông rất thảm thương. Hai người lính đang dồn hết sức ghì chặt cô gái xuống đất bằng một chiếc bồ cào cán dài đến chục thước. Cách đó vài bước giữa đường phố không một bóng người qua lại, những người lính khác đang đốt một đống lửa lớn. - Thưa ngài, xin chớ lại gần, – người trung sĩ khuyên quan án sát. – Chúng tôi sẽ hoả thiêu nó để đảm bảo an toàn tuyệt đối. Chả biết cái bệnh chết tiệt ấy ở đâu ra? - Cái gì thế, ông trung sĩ? – Viên cố vấn cũng đi lại hỏi người trung sĩ. – Cô gái chết rồi à? - Thưa ông, vâng. Cách đây nửa giờ lính của tôi nghe thấy những tiếng hú man rợ trong bụi cây đằng kia và một thứ tiếng như chó sủa nghe rất lạ tai. Nghĩ là có chó dại đang đuổi cắn người, họ liền chạy về trụ sở lấy cái bồ cào. Tôi vừa bước chân ra khỏi cửa thì thấy con bé lang thang trong bụi cây nhảy xổ ra, miệng hú the thé nghe chói tai. Miệng nó méo xệch đi trông không còn ra hình thù gì nữa, mép sùi bọt. Nó đi về phía chúng tôi và bị một người của chúng tôi dùng bồ cào đâm vào cổ quật ngã, ghì nó xuống đất. Nó bám chặt hai tay vào cán bồ cào giãy giụa, vật lộn mạnh đến nỗi một người nữa phải vào tiếp sức. Rồi tự nhiên tay nó rời ra, nó chết. (Người trung sĩ hất chiếc mũ cứng ra sau gáy, lau mồ hôi trán). Quan tri huyện của chúng tôi kỳ lạ thật! Ông ấy đoán trước được sự việc xảy ra nên đã hạ lệnh cho chúng tôi canh gác lối vào khu miếu hoang. Vì thế chúng tôi kịp thời ngăn ngừa không để con bé ấy cắn phải ai. - Quan tri huyện chúng tôi tinh lắm! – Một người lính khác hớn hở nhận xét. Quan án sát ra hiệu gọi người thầy thuốc lại: - Cô gái này chết vì bệnh dại, – quan án sát nói. – Ông có đồng ý cho họ đốt xác không? - Thưa ngài nhất định phải đốt. Phải đốt cả cái bồ cào và cả những bụi cây con bé ấy đi qua nữa. Thưa ngài, đó là thứ bệnh khủng khiếp! - Ông ở đây giám sát mọi việc cho xong, – quan án sát dặn dò viên cố vấn. – Tôi quay về toà án.