Chương 16

    
rim đến ăn tối với Edith Hardenberg ở căn hộ của cô tại Grinzing tối hôm đó. Anh ta tìm thấy đường đến khu ngoại ô bằng phương tiện giao thông công cộng, và mang theo quà: một đôi nến tẩm hương liệu rất thơm tho, mà anh đặt lên trên một cái bàn nhỏ trong phòng ăn; và hai chai rượu vang đắt tiền.
Edith để anh vào, má hồng lên và bối rối hơn bất kỳ lúc nào, rồi quay trở lại về những thứ thành Vienna mà cô đã chuẩn bị trong cái bếp nhỏ của mình. Đã 20 năm kể từ ngày cô chuẩn bị bữa ăn cho một người đàn ông; cô tìm kiếm sự trầm tĩnh thường ngày, nhưng kinh ngạc thấy mình rất bồn chồn.
Karim đón chào cô với một nụ hôn nhẹ vào má ở cửa ra vào, làm cho cô càng trở nên bối rối hơn, rồi tìm thấy bản Nabucco của Verdi trên giá sách của cô và cho vào máy. Ngay lập tức hương thơm của những cây nến, êm dịu và mê đắm, thêm vào nhịp điệu cao quý của "Hợp xướng Xlavơ" lan toả khắp căn hộ.
Điều này giống hệt như  đội neviot đã miêu tả: rất ấm áp, rất nhỏ bé, rất sạch sẽ. Căn hộ này là của một người phụ nữ khô cứng sống một thân một mình.
Khi đồ ăn đã xong, Edith giới thiệu với những lời xin lỗi bối rối. Karim thử món thịt và tuyên bố đó là thứ ngon nhất anh từng được dùng, làm cho cô càng bối rối hơn nữa, nhưng rất dễ chịu.
Họ nói chuyện trong khi ăn, về văn hoá; về chuyến thăm đã được dự định đến Cung điện Schonbrunn và để xem những con ngựa Lippizzaner lừng danh, trường đua ngựa Tây Ban Nha bên trong Hofburg tại Josefplatz.
Edith ăn cũng như khi cô làm bất cứ chuyện gì khác - nói một cách chính xác, giống như một con chim đang mổ xác chết. Cô buộc tóc ra đằng sau như mọi khi, thành một búi to
sau đầu.
Trong ánh sáng của những ngọn nến, vì anh đã tắt đèn điện trên bàn, Karim trở nên đẹp trai một cách hắc ám và lịch thiệp như chưa bao giờ thế. Anh rót đầy cốc rượu của cô ngay lập tức, nên cô uống nhiều hơn số rượu cô tự cho phép mình trong thường thường.
Hiệu ứng của thức ăn, rượu vang, nến, âm nhạc, và sự có mặt của một người bạn trẻ tuổi dần dần làm giảm đi sự đề kháng của cô.
Trên những cái đĩa rỗng Karim ngả người về phía trước và nhìn vào mắt cô.
- Edith?
- Vâng.
- Tôi có được phép hỏi cô một điều không?
- Nếu anh muốn.
- Tại sao cô lại để tóc như thế
Đó là một câu hỏi bất ngờ, rất riêng tư. Cô thở rất sâu ra.
- Tôi... tôi vẫn luôn như thế mà.
Không, điều đó không đúng. Đã có thời, cô nhớ lại, với Horst, khi nó đã dài xuống đến vai cô, dầy và nâu, trong cái mùa hè năm 1970. Đó là thời khi nó đã nâu trong gió của hồ ở Schlosspark ở Laxenburg.
Karim nhổm lên không nói lời nào và đi vòng ra sau lưng cô Cô cảm thấy nỗi sợ tăng lên. Điều này thật kích thích.
Những ngón tay đầy kinh nghiệm ve vuốt làm cái lược cắm vào búi tóc rời ra. Điều này phải chấm dứt. Cô cảm thấy cả người nổi gai, tóc cô trở nên mất trật tự, rơi xuống sau lưng cô. Cô ngồi cứng đơ ở trên ghế. Cùng những ngón tay đó vuốt mái tóc cô và dần đi xuống khuôn mặt cô.
Karim đứng sau cô, và cô nhìn sang. Anh ta rút tay lại và mỉm cười.
- Như thế này đẹp hơn đấy. Cô trông trẻ ra mười tuổi và đẹp hơn nhiều. Hãy ngồi lên ghế sofa đi. Cô bật cái đĩa cô thích nhất còn tôi đi chuẩn bị cà phê, được chứ?
Không đợi được phép, anh ta cầm lấy đôi bàn tay nhỏ nhắn của cô và đỡ cô đứng dậy khỏi ghế. Để một tay buông thõng, anh dẫn cô ra khỏi phòng bếp để đi sang phòng khách.
Rồi anh quay trở lại trong bếp, để tay kia xuống. Ơn Chúa anh ta đã làm thế. Cô cảm thấy run rẩy từ đầu đến chân. Như thế có thể hướng đến một tình bạn trong trắng kiểu Platon. Nhưng khi đó, anh ta không hề chạm vào cô, không thực sự chạm vào cô. Cô có thể, dĩ nhiên, không bao giờ cho phép loại việc như thế.
Cô liếc nhìn dung nhan mình trong một cái gương treo trên tường, đỏ hồng và bối rối, tóc rơi xuống hai vai, trùm lên tai, đổ xuống khuôn mặt cô. Cô nghĩ cô đã có một cái liếccủa Mỹ và Prowler của Hải quân đè nát. Các phi công Iraq bay đêm đó không có chỉ dẫn bằng lời và không có rađa hướng lối. Một cách khôn ngoan, hầu hết đều bay về nhà.
Bao quát phần phía nam của biên giới là 60 chiếc tiếp nhiên liệu: KC-135 và KC-10 của Mỹ, KA-6D của Hải quân Mỹ và Victor và VC-10 của Anh. Công việc của chúng là nhận những chiếc máy bay chiến đấu đến từ Arập Xêut, cấp nhiên liệu để chúng đi làm nhiệm vụ, rồi gặp chúng trên dường chúng lui về để tiếp nhiên liệu nữa để về được nhà. Điều này nghe có vẻ thường, nhưng trên thực tế được làm trong bóng tối được miêu tả bởi một lái máy bay là "cố nhét spaghetti vào một cái lỗ nhỏ".
Và bên ngoài Vịnh, nơi chúng đã ở đó 5 tháng nay, những chiếc Hawkeye E-2 của Hải quân Mỹ và những chiếc Sentry AWACS E-3 của USAF bay vòng vòng. ra đa của chúng hướng lên mọi máy bay của mình và của bên đối phương trên bầu trời, cảnh báo, khuyên nhủ, hướng lối, và nhìn ngó.
Vào lúc hoàng hôn, những chiếc rađa của Iraq đã gần như bị quét sạch, các căn cứ quân sự của nước này trở nên mù loà Và những trung tâm chỉ huy chính bị phá huỷ. Có thể mất đến bốn ngày đêm nữa mới có thể hoàn thành công việc, nhưng thế thượng phong về không lực đã thấy rõ. Sau đó có thể đến các trạm phát điện, các tháp thông tin, liên lạc điện thoại, các trạm hoãn, kho chứa máy bay, các tháp điều khiển, và tất cả những cái được coi là thiết bị để sản xuất và trữ vũ khí huỷ diệt toàn bộ.
Sau đó có thể đến sự "xuống cấp" có hệ thống dưới 50% lực lượng không quân của quân đội Iraq ở phía nam và tây nam biên giới với Kuwait, một điều kiện mà tướng Schwarzkopf nhấn mạnh trước khi ông có thể dùng quân trên bộ tấn công.
Hai nhân tố khi đó chưa được biết đến sau này có thể làm thay đổi tiến trình cuộc chiến. Một là quyết định của Iraq bắn một loạt tên lửa Scud vào Israell cái còn lại là một hành động nóng nảy của đại uý Don Walker của Đội bay chiến thuật số 336.
Bình minh đang lên vào buổi sáng ngày 17 tháng Giêng trên Baghdad đã bị rung chuyển rất mạnh. Các công dân không thể ngủ tiếp sau một chấn động vào lúc ba giờ sáng, và khi ánh sáng ban ngày đến, một số trong đó đã liều lĩnh ra ngoài để thám thính một cách tò mò một số địa điểm chính của thành phố. Họ sống sót qua đêm dường như đã là cả một sự kỳ diệu, vì họ không thể không nhận ra rằng 20 chỗ đang bốc khói đã được lựa chọn cẩn thận và được bắn với độ chính xác mà dân thường không hề bị nguy hiểm gì lớn.
Nhưng cảm giác sốc thật sự là giữa các quan chức. Saddam Hussein đã rời khỏi Dinh Tổng thống và đang trốn ở boong ke kỳ ảo lạ lùng của mình ở sau và dưới khách sạn Rashid, vẫn còn rất đông người phương Tây, chủ yếu là giới truyền thông.
Boong ke đã được xây dựng nhiều năm trước đây trong một khu chống được động đất, chủ yếu với công nghệ Thuỵ Điển. Các biện pháp an ninh của nó rất tinh vi và thực sự là một cái hộp ở trong một cái hộp khác, và bên dưới và xung quanh cái hộp bên trong là hàng loạt những sức mạnh để bảo vệ những người trong đó khỏi một quả bom nguyên tử, giảm bớt các xung lực có thể làm đảo lộn cả thành phố bên trên mà ở dưới chỉ còn thấy như một chấn động nhỏ.
Mặc dù đường vào phải đi qua cả một loạt những hệ thống ống nước ở dưới khách sạn, thì cấu trúc chính vẫn nằm dưới Rashid, cái đã được xây dựng có tính toán ở mặt đất phía trên như một nơi ở đặc biệt dành cho người phương Tây ở Baghdad.
Bất kỳ kẻ thù nào có ý định thâm nhập sâu bằng cách ném bom vào boong ke sẽ phải chơi Rashid trước.
Dù cố gắng cách nào, những ống ngầm xung quanh Rais vẫn rất chắc chắn tạo ra những rung động ban đêm. Chầm chậm, mức độ của thảm hoạ sẽ đi vào trong mọi tâm trí.
Họ đã trông chờ tất cả vào một trận ném bom boong ke, cái đã làm cho các vị trí bị san phẳng và hàng nghìn người dân vô tội phải chết. Thảm hoạ này sẽ được giới báo chí đưa tin, sẽ được quay phim và chứng tỏ cho tất ca các khán giả rồ cả người vì sợ ở nhà. Do đó có thể bắt đầu làn sóng phản đối tông thông Bush và nước Mỹ trên toàn thế giới, có thể đạt đến một phiên họp khẩn cấp của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc và phiếu chống của Trung Quốc và Nga.
Rõ ràng rằng "Con của Chó" từ bên kia Đại Tây Dương không thể dám làm. Cho đến lúc này khi các vị tướng của Iraq đã đề phòng, những quả bom rơi lân cận nơi họ đã nhắm đến, nhưng đó là tất cả. Với tất cả các vị trí trọng yếu về quân sự ở Baghdad được xây dựng có chủ đích tại các khu dân cư đông đúc, sẽ là không thể đối với các thương vong dân thường để phải tránh. Và trong một lần đi vòng quanh thành phố 20 điểm chỉ huy, các địa điểm tên lửa, căn cứ rađa, và các trung tâm liên lạc bị bắn vào, những cái trong các toà nhà ở tầm ngắm đã sống hơn là các cửa sổ bị vỡ và thậm chí không bị hư hại gì quá nặng cả.
Giới cầm quyền phải tự thoả mãn với việc tự sáng tác một danh sách dân thường bị chết và kêu la rằng Không quân Mỹ đã bắn rụng như lá mùa thu. Phần lớn người lraq, trong nhiều năm bị tuyên truyền làm mê mụ, tin tưởng ở các báo cáo đầu tiên đó - trong một thời gian.
Các viên tướng chịu trách nhiệm phòng không biết rõ hơn. Rõ ràng với họ đã mất hầu hết các ra đa áo trước mọi chuyện, rằng các SAM của họ - các tên lửa đất đối không - đã bị mù, và liên lạc với các đơn vị bên ngoài đã bị cắt đứt hoàn toàn. Tồi tệ hơn nữa, những người vận hành ra đa sống sót đã làm thiệt hại lớn hơn do các máy bay thả bom chỉ đơn giản là không làm hiện lên trên màn hình. Những tên nói dối đã ngay lập tức bị tóm cổ.
Một số thiệt hại về dân thường trên thực tế cũng có xảy ra. Ít nhất hai tên lửa đạn đạo Tomahawk đã nổ trật mục tiêu. Một cái đã làm sập hai ngôi nhà và làm lật mái một nhà thờ, mà báo chí đã đưa tin vào buổi trưa.
Quả còn lại đã rơi vào đất trong phố và tạo ra một lỗ sâu hoắm. Trong buổi trưa đầu tiên xác một người phụ nữ đã được tìm thấy ở dưới đáy, bị nát nhừ bởi sức ép.
Những loạt thả bom tiếp tục trong ngày, đến nỗi cứu thương không được chuẩn bị về cáng, đưa đến nhà xác của bệnh viện gần nhất, và để nó lại đó. Bệnh viện lại gần với một trung tâm chỉ huy Không quân đã bị phá huỷ, và tất cả các giường đều có các nhân viên bị thương ở đó nằm. Nhiều xác người đã được đưa đến cùng nhà xác đó, tất cả đều chết vì bom. Người phụ nữ chỉ là một trong số đó.
Với các nguồn tin ở mục tin khẩn cấp, nhà bệnh học làm việc rất nhanh và đầy tò mò. Sự định dạng và nguyên nhân cái chết là những ưu tiên hàng đầu của ông ta. và ông ta không có thời gian để khám những bệnh nhẹ. Qua thành phố tiếng ì ùng của bom nổ có thể nghe thấy, và ánh chớp của lưới đạn phòng thủ cũng không ngừng. ông ta không nghi ngờ gì rằng tối và đêm có thể sẽ mang lại cho ông nhiều xác chết hơn.
Điều làm vị bác sĩ ngạc nhiên là tất cả các xác chết của ông đều là nhân viên Nhà nước, trừ người phụ nữ. Thứ bụi có trong vệt máu trên khuôn mặt đã nhừ nát của cô ta, đi kèm với chỗ cô ta được tìm thấy, cho thấy không có giải thích nào ngoài việc cô ta đang chạy thì quả tên lửa đã rơi xuống bãi đất và giết chết cô ta. Xác chết đã được gói lại, rồi đem đi chôn.
Chiếc xắc tay của cô ta được tìm thấy gần xác chết, và nó chứa một gói bột, son môi, và những cái thẻ của cô ta. Đó là Leila Al-Hilla, không nghi ngờ gì nữa là nạn nhân dân thường đầu tiên của đợt bom, nhà bệnh học kiệt sức đã lệnh đưa cô ta đi để chôn ngay lập tức.
Khám nghiệm tử thi mà ngày 17 tháng Giêng đó không thể thực hiện có thể cho thấy người đàn bà đã bị hiếp dâm nhiều lần và rất tàn bạo trước khi bị đánh một cách có hệ thống đến chết. Mãi nhiều giờ sau đó thứ bột trong hố bom mới được tìm thấy.
Tướng Abdullah Kadin đã chuyển từ văn phòng tráng lệ của mình ở Bộ Quốc phòng hai ngày trước. Không thể có chuyện ở lại đó để bị bom Mỹ băm nhừ, và ông ta dược chắc rằng Bộ có thể bị ném trúng và bị phá huỷ trước khi cuộc không chiến còn nhiều ngày nữa. ông ta đã đúng.
Ông đã về ngôi biệt thự của mình, mà ông có thể chắc chắn một cách có lý là khá không được biết tới - dù rất xa hoa - không hề nằm trên bản đồ mục tiêu của Mỹ. Về điểm thì ông lại tiếp tục đúng.
Ngôi biệt thự từ lâu đã được cung cấp với phòng liên lạc riêng, với nhân viên từ Bộ vận hành. Tất cả các máy móc liên lạc cho đại bản doanh chỉ huy của Quân đội xung quanh
Baghdad đã được chôn ngầm, xây cáp quang, cái cũng ở ngoài tầm của những máy bay ném bom.
Chỉ các đơn vị xa mới được thông tin qua vô tuyến điện, với một dường dây nối - dĩ nhiên, là những đơn vị ở Kuwait.
Vấn đề của ông, khi bóng tối đã trùm lên Baghdad đêm đó, là không biết dùng cách nào để liên lạc với các vị chỉ huy Quân đội hay truyền lệnh gì cho họ. Họ có thể không tham dự vào cuộc không chiến, đã được lệnh phân tán xe tăng của mình càng trên diện rộng càng tốt, giữa những dãy cát hay chôn chúng xuống trong các boong ke ngầm sâu dưới đất và chờ đợi.
Vấn đề của ông ta đúng hơn là an ninh cá nhân, và ông ta không hề sợ người Mỹ.
Hai đêm trước, tỉnh dậy trong giường của mình với một bộ mặt nhàu nhĩ vì rượu arak như thường lệ, ông ta chui vào nhà tắm, ông nghĩ cánh cửa bị kẹt và xô thật mạnh, 200 pound cơ thể ông ta lao đánh ầm vào và cánh cửa mở tung ra.
Rất hung ác, nhưng Abdullah Kadin không phải đến từ một phố hậu gần Tikrit để có thể chỉ huy tất cả các xe tăng của lraq ngoài Đội Vệ binh, đã không leo lên bằng con đường huyết thống bên trong đảng Ba'ath, và đã không có được một vị trí được tin cậy trong Hội đồng Chỉ huy Cách mạng mà không có hàng đống khôn ngoan của con thú.
Ông ta đã im lặng nhìn chằm chằm vào nhân tình của mình, quấn mình trong một chiếc áo dài ngồi trên bồn cầu, tờ giấy là mặt sau của một hộp Kleenx, mồm cô ta thành hình chữ O vì kinh ngạc và hoảng sợ, chiếc bút vẫn còn lủng lẳng. Rồi ông đá vào chân cô ta và đấm vào hàm cô.
Khi cô ta bị nhúng đầu vào trong nước, ông ta có thời gian đọc báo cáo cô ta đang chuẩn bị và gọi khẩn cấp anh chàng Kemal trung thành từ chỗ của anh ta đi qua sân. Chính Kemal là người chịu trách nhiệm cho toàn bộ toà nhà.
Kađiri đã đọc đi đọc lại bản báo cáo cô ta gần như đã viết xong. Liệu nó có liên quan đến những thói quen và sở thích cá nhân của ông ta, một kẻ ghét thư từ, ông ta có thể đã đuổi và chỉ đơn giản là giết cô ta. Những kẻ xung quanh Rais cũng khá giống Rais. Ông cũng biết là Rais sẽ chẳng để ý đâu.
Điều đó còn tồi tệ hơn. Vẻ ngoài ông ta nói về những điều đã xảy ra trong chính phủ và trong Quân đội. Quá rõ là cô ta đang làm gián điệp. Ông cần biết cô ta đã làm thế trong bao lâu và đã báo những gì, và cơ bản hơn cả, là làm cho kẻ nào. Kemal đầu tiên sung sướng vô cùng, với sự cho phép của ông chủ. Không người đàn ông nào thoả mãn đến thế sau khi Kemal đã kết thúc cuộc hỏi cung. Mất hàng giờ. Rồi, Kadiri đã biết, Kemal đã có tất - chí ít, mọi điều cô gái giang hồ biết.
Sau đó, Kemal tiếp tục sự thoả mãn riêng của mình cho đến khi cô ta chết.
Kadiri đã được thuyết phục rằng cô ta không biết sự thật về người đàn ông đã trả tiền cho cô ta và thuê cô ta do thám ông, nhưng bức tranh đó đã đủ để vẽ ra Hassan Rahmani.
Sự mô tả của những vụ đổi chác thông tin lấy tiền trong phòng xưng tội của nhà thờ Thánh Joseph cho thấy người đàn ông rất chuyên nghiệp, và Rahmani rõ ràng là người như thế. Điều có thể bị nhìn thấy không làm Kadiri bận lòng. Tất cả những người xung quanh Rais đều bị nhìn thấy; trên thực tế, họ nhìn lẫn nhau. Các quy tắc của Rais rất đơn giản và rõ ràng.
Mọi người ở cấp cao đều bị theo dõi và bị báo cáo bởi ba trong số những người khác. Một sự phản bội có thể và có khả năng làm sụp đổ tất cả Do đó, ít kẻ phản bội có thể đi xa được. Một trong số những người đó tin tưởng có thể báo cáo về vấn đề, và điều đó có thể đến được tai Rais.
Để làm vấn đề thêm phức tạp, mỗi thành viên xung quanh đều đôi khi bị thử, để xem thử phản ứng của người đó. Một đồng nghiệp, được sử dụng để làm điều đó, có thể lôi kéo theo người bạn và làm anh ta liên luỵ.
Nếu người bạn đồng ý, thế là anh ta tiêu. Nếu anh ta thất bại không báo cáo được người đề nghị, anh ta cũng tiêu. Thế là cách nào cũng có thể là một sự khiêu khích - điều đó chỉ đơn giản là quá bất cẩn để mà làm khác. Do đó, tất cả đều báo cáo về những người khác.
Nhưng ở đây thì lại khác. Rahmani là giám đốc Phản gián. Liệu ông ta có báo cáo về chính mình, và nếu có thế, thì tại sao? Liệu đó có phải là một chiến dịch với sự hiểu biết và đồng tình của chính bản thân Rais, và nếu đúng thế. thì tại sao?
Ông ta đã nói gì? Viên tướng băn khoăn. Mọi điều đều rất kín đáo, hẳn nhiên rồi. Nhưng phản bội ư?
Cái xác ở trong toà nhà cho đến khi bom rơi xuống, khi Kemal đã tìm thấy một hố bom ở một bãi đất trống để đùn nó xuống. Viên tướng nhấn mạnh là cái túi xắc cần để bên cạnh đó. Hãy để cái thằng con hoang Rahmani đó biết điều gì đã xảy đến với kế hoạch chó má của hắn.
Khi đã quá nửa đêm, tướng Abdullah Kadiri lên cơn nóng sốt, rỏ nước vào arak. Nếu đó chỉ là Rahmani, thì ông ta có thể kết thúc tên con hoang. Nhưng bằng cách nào có thể biết cái thang đó dẫn đến đâu? Ông ta có thể cần cẩn trọng, cẩn trọng hơn nhiều so với trước. Những chuyến đi đêm vào thành phố cần kết thinh viên, một người ngoại quốc, một người Arập, và một người Hồi giáo. Thế mà mình cũng không thèm để ý.
Đại tá Dick Beatty của USAF đang đứng trên sân trong đêm đó, rất sâu ở dưới đường sân bay Cũ ở Riyadh. Hố Đen không bao giờ dừng, nó không bao giờ giảm đi, và trong những ngày đầu tiên của cuộc không chiến. nó đã làm việc nhiều hơn và nhanh hơn bất kỳ khi nào.
Bản kế hoạch tài năng của tướng Chuck Horner cho cuộc chiến trên không đã được thử nghiệm bằng sự sai chỗ do bởi sự đa dạng của hàng trăm máy bay đi săn lùng các điểm bắn tên lửa Scud thay vì bắn vào các mục tiêu đã được chỉ định trước.
Bất kỳ vị tướng đánh trận nào cũng sẽ khẳng định rằng một kế hoạch cần được thực hiện đúng từng ly từng tý, nhưng khi quả bóng đã bay lên, thì không bao giờ giống được như thế hết cả. Cuộc khủng hoảng do các hoả tiễn rơi xuống Israel gây ra đã chứng tỏ một vấn đề nghiêm trọng. Tel Aviv đã gào lên với Washington, và Washington đã gào vào Riyadh. Sự đa dạng của tất cả những máy bay đó chỉ đi tìm những máy phóng di động mạnh là cái giá Washington phải trả để giữ Israel không nhảy vào với những hành động trả đua, và các lệnh của Washington cũng không có luận lý gì cả. Mọi người đều có thể thấy rằng Israel đã mất kiên nhẫn và việc họ tham gia cuộc chiến có thể gây ra thảm hoạ đối với Liên quân giờ đây đang họp nhau lại để chống Iraq, nhưng vấn đề còn lớn hơn nữa.
Các mục tiêu thông thường được định ra cho ngày thứ ba đã bị dời lại vì thiếu lực lượng máy bay, và hiệu ứng giống như những. con đôminô. Một vấn đề thêm nữa là điều có thể vẫn không có Giám sát Thiệt hại do bom, hay BDA. Điều này là cốt yếu, và phải được thực hiện. Lựa chọn có thể là như thế.
Các BDA là rất cốt tử bởi vì Hố Đen phải biết được mức độ của thành công, hay nếu không, của làn sóng các máy bay chiến đấu mỗi ngày. Nếu một trung tâm chỉ huy chủ yếu của Iraq, chỗ của rađa, hay một khẩu đội tên lửa có ở Bộ phận Tác chiến Bay, điều đó có thể rất dễ bị tấn công. Nhưng nếu nó đã bị phá huỷ chưa? Nếu đã, thì ở mức độ nào? Mười phần trăm, năm mươi phần trăm, hay chỉ là một cơn gió thoảng?
Chỉ đơn giản là giả dụ rằng căn cứ của Iraq đã bị thổi bay là không ổn. Ngày tiếp sau, các máy bay Liên quân không nghi ngờ gì có thể được gửi đến địa điểm đó trong một nhiệm vụ nữa. Nếu địa điểm đó vẫn còn hoạt động được, các phi công có thể hy sinh.
Vậy mỗi ngày các nhiệm vụ được điều lên, và các phi công mệt mỏi miêu tả một cách chính xác việc mình đã làm và đã tiêu diệt được gì. Hoặc nghĩ họ đã đâm phải gì. Ngày tiếp theo, các máy bay khác bay đến các mục tiêu và chụp ảnh chúng.
Do đó, mỗi ngày khi Cơ quan Nhiệm vụ Bay bắt đầu chuyến bay ba ngày để chuẩn bị, danh mục nguyên gốc của các mục tiêu được chỉ định phải bao gồm cả các nhiệm vụ cần đến thứ hai, để kết thúc công việc chỉ được thực hiện một lần.
Ngày 20 tháng Giêng, ngày thứ tư của cuộc chiến trên không, các lực lượng bay của Liên quân đã không chính thức đến được gần để bỏ phí các nhà máy công nghiệp đã được nhắm đến như những cái tạo ra vũ khí tiêu diệt hàng loạt. Chúng vẫn đặt trọng tâm vào SEAD - áp lực của Các lực lượng Phòng không địch.
Đêm đó, đại tá Beatty chuẩn bị danh sách các nhiệm vụ chụp ảnh trộm ngày hôm sau. Vào khoảng nửa đêm, ông đã rất gần, và những lệnh sớm đã được truyền đi theo đường của mình đến các đội bay khác nhau được chỉ định cho nhiệm vụ chụp ảnh từ trên không vào bình minh.
- Được rồi, thưa ngài.
Một sĩ quan cấp cao của Hải quân Mỹ, đứng bên cạnh ông. Viên đại tá liếc nhìn vào mục tiêu.
- Anh muốn nói gì vậy, Tarmiya?
- Tôi đã nói rồi, thưa ngài.
- Thế Tarmiya là cái quái quỷ gì vậy?
- Đây này, thưa ngài.
Viên đại tá liếc nhìn lên bản đồ hàng không. Địa điểm chẳng có nghĩa gì với ông hết cả.
- Rađa à? Tên lửa, căn cứ không quân, điểm chỉ huy?
- Không, thưa ngài. Cơ sở sản xuất công nghiệp.
Đại tá đã mệt. Đã qua một đêm dài, và có thể còn phải tiếp tục đến bình minh.
- Vì chúa, chúng ta chưa nhằm vào các mục tiêu công nghiệp đâu. Nhưng dù sao cũng đưa tôi danh sách nào.
Ông dùng mắt chạy qua danh sách. Nó bao gồm gần như tất cả các cơ sở công nghiệp mà Liên quân biết đến có liên quan đến sản xuất vũ khí; nó có các nhà máy được biết sản xuất vỏ đạn, thuốc nổ, xe cộ, linh kiện súng, và xe tăng.
Trong hàng đầu ti&úc. Dù thế nào đi nữa, khi cuộc chiến tranh trên không đã bắt đầu, thì đã là thời gian để dừng lại rồi.
Simon Paxman bay về London. Không còn vấn đề gì nữa đế tiếp tục ở lại Riyadh. Jericho chắc hẳn đã bị đá bởi CIA, mặc dù sư đoàn vô hình ở Baghdad có thể còn chưa biết điều đó, và Mike Martin vẫn ở lại cho đến khi có thể trốn thoát ra sa mạc và tìm cách an toàn trốn qua biên giới.
Tiếp theo đó, Paxman có thể đặt tay lên tim cuộc họp vào buổi tối ngày 18 với tiến sĩ Terry Martin như là một sự trùng hợp thật sự. Anh ta biết Martin sống ở Bayswater, cũng như chính anh ta, nhưng đó là một khu ngoại ô rộng lớn với nhiều cửa hàng.
Với người vợ đã đi thăm mẹ ốm và chưa biết lúc nào quay về, Paxman đã đến nhà vào căn hộ trống không và một tủ lạnh rỗng tuếch, thế là anh ta đi mua sắm ở siêu thị mở cửa muộn ở Westbourne Grove.
Xe của Terry Martin suýt đâm thẳng vào anh ta khi anh ta đang đi qua góc của những ngăn hàng pasta và thức ăn gia súc Cả hai người đều la hoảng.
- Tôi có được phép biết anh không đấy? Martin hỏi với một nụ cười bối rối.
Lúc đó trong đường không có ai khác.
- Sao không chứ? Paxman nói. Tôi chỉ là một công chức bình thường đang đi mua đồ cho bữa tối thôi mà.
Họ cùng nhau đi mua đồ và thoả thuận đến ăn ở một cửa hàng Ấn Độ. Hilary, có vẻ như thế, cũng đang đi xa.
Paxman có thể, dĩ nhiên, không làm điều đó. Anh ta có thể không bao giờ cảm thấy bất tiện rằng người anh của Terry Martin đang ở trong một tình cảnh khá là nguy ngập và rằng anh ta, với những người khác, đã đẩy anh ta vào đó, điều đó có thể không làm anh ta bận tâm lớn rằng nhà học giả tin người có thể thực sự tin rằng người anh em yêu quý của mình đang được an toàn trong Arập Xêut. Mọi thứ đều nhấn mạnh rằng người kia không bận tâm đến cái loại việc đó. Nhưng anh ta lại làm thế.
Đó là một mối bận tâm khác. Steve Laing là thượng cấp của anh ở Nhà Thế kỷ, nhưng Laing chưa từng bao giờ đến Iraq. ông ta chuyên về Ai Cập và Jordan. Paxman biết Iraq – và tiếng Arập. Không như Terry Martin, dĩ nhiên, nhưng Martin là biệt lệ. Paxman biết khá đủ, qua nhiều chuyến đến thăm trước khi trở thành chỉ huy bàn Iraq, để tạo ra một sự kính trọng chân thành với trình độ các nhà khoa học lraq và sự giỏi giang của các kỹ sư của họ. Không có gì bí mật rằng phần lớn các viện kỹ thuật của Anh đều coi những người tốt nghiệp ở Iraq là giỏi nhất trong thế giới A rập.
Điều bận tâm đã đeo đẳng anh ta từ khi được các thượng cấp cho biết báo cáo cuối cùng của Jericho có thể không gì hơn là một thứ vô nghĩa chỉ đơn giản là sự lo lắng rằng, dù mọi thứ lệch lạc, lraq giờ đây có thể còn tiến lên xa hơn các nhà khoa học phương Tây đã chuẩn bị để tin.
Anh ta đợi cho đến khi hai suất ăn đã được dọn ra, được bao quanh bởi các lọ nhỏ gia vị mà nếu không có thì không món ăn Ấn Độ nào được là hoàn chỉnh cả, rồi nói:
- Terry này, anh ta nói, tôi sẽ làm một điều mà nếu nói ra có thể là cắt đứt sự nghiệp của tôi trong cơ quan đó.
Terry ngừng lại một chút.
- Có vẻ trầm trọng đó. Tại sao nào?
- Bởi vì tôi đã không báo cho anh.
Nhà học giả dừng lại khi đang gắp một mẩu xoài vào đĩa.
- Tôi không được coi là đáng tin nữa à?
- Chính Steve Laing đã bắt tôi phải làm thế đấy.
- Không phải. Vấn đề là - anh quá lo lắng đấy.
Paxman không được chuẩn bị để dùng những  từ chửi thề của Laing.
- Có thể là thế. Đó là chuyện huấn luyện mà. Giới học giả không thích những thứ rắc rối dường như không có lời giải đáp.
- Còn chúng tôi thì phải tiếp tục lo lắng cho đến khi cái mẫu tự rắc rối đó bắt đầu có ý nghĩa. Câu đó có ý nghĩa gì khác không nhỉ?
- Có đấy, đó là những việc khác.
Paxman đã chọn món gà; Martin thích đồ nóng hơn, vindaloo. Vì anh biết món ăn phương Đông của mình, Martin uống trà đen, chứ không phải bia ướp lạnh, cái chỉ làm cho món ăn trở nên tồi tệ hơn mà thôi. Anh nháy mắt với Paxman qua khoé mắt.
- Được rồi. Thế lời thú tội to lớn là gì nào?
- Liệu anh có hứa là không ai biết nữa không?
- Dĩ nhiên rồi.
- Đã có một lời nói dối.
Paxman đã không có chủ định nhỏ nhất nào tiết lộ sự tồn tại của Jericho. Nhóm người biết có cá chìm ở Iraq rất nhỏ và nên chỉ là như thế.
- Liệu tôi có được nghe không đấy?
- Không. Đã bị khoá rồi. Đừng tiếp cận Sean Plummer. Ông ta đã phải chối, vàwler EA-6B cùng đi với nhiệm vụ như thế, có trang bị các HARM trong trường hợp rơi vào một địa điểm tên lửa SAM do rađa chỉ đường. Chiếc Prowler có thể sử dụng các HARM của mình để thối bay rada, và chiếc Avenger có thể sử dụng bom của mình vào các tên lửa.
Trong trường hợp Quân lực Iraq hiện ra, hai chiếc Tomcat nữa có thể giương súng lên, ở phía dưới và ở một bên người chụp ảnh, những chiếc ra a AWG-9 mạnh mẽ của họ có khả năng làm nhiễu độ đo của các phi công Iraq trước khi thoát khỏi lưới đạn.
Tất cả những thứ kim loại và công nghệ đó để bảo vệ cái đang treo dưới và đằng sau chân của Darren Cleary, một Hệ thống Pod Nhận biết Không quân Chiến thuật, hay TARPS.
Treo hơi nghiêng về bên phải của chiếc Tomcat, TARPS trông giống như một cái hộp ngầm dài 17 fít. Nó chỉ hơi phức tạp hơn một chiếc Pentax của khách du lịch.
Ở mũi của nó là một máy chụp ảnh mạnh với hai hướng: lên trước và xuống, hay thẳng xuống. Dưới nó là chiếc máy chụp toàn cảnh nhìn ra bên ngoài, ở bên cạnh, và phía dưới. Sau nó là bộ nhận biết được bọc kỹ, dành để ghi sức nóng (độ nóng) các hình ảnh và nguồn gốc của nó. Trong một vòng cuối cùng, phi công có thể nhìn trên màn hình phía trước bên trong khoang lái của mình cái anh ta đang chụp trong khi vẫn ở phía trên.
Darren Cleary nâng độ cao lên 15 nghìn fít, cùng với phần còn lại của đội hộ tống mình, và họ bắt đầu kết nối với chiếc truyền nhiên liệu KC-135 ngay ở phía nam biên giới Iraq.
Không bị làm rối bởi sự kháng cự Iraq, Cleary chụp ảnh 11 mục tiêu chính đã được ra lệnh rồi bay qua Tarmiya cho địa điểm dược quan tâm ở mức độ thứ yếu.
Khi bay qua Tarmiya, anh nhìn liếc qua màn hình và lẩm bẩm "Cái chó chết gì thế này?" Đó là thời khắc các ống kính 750 của những máy camera chính của anh đang chọn để bấm máy.
Sau lần tiếp nhiên liệu thứ hai nhiệm vụ đỗ về chiếc Ranger không có rắc rối nào. Các nhân viên mặt 'đất gỡ những chiếc camera và mang chúng vào phòng ảnh để rửa thành phim âm bản.
Cleary đang nói vắn tắt về nhiệm vụ bất đắc dĩ của mình, Lùi ngồi xuống cái bàn nhẹ cùng với nhân viên tình báo. Khi các phim âm bản đã được đưa lên màn hình với ánh sáng trắng ở dưới, Cleary giải thích cái mà mỗi khung đã chụp và nói ở nơi nào. Viên sĩ quan tình báo ghi chép cho báo cáo của anh ta, cái có thể được gắn vào với báo cáo của Cleary, kèm với các bức ảnh.
Khi họ xem đến những bức cuối cùng, viên sĩ quan tình báo hỏi:
- Gì thế này?
- Đừng có hỏi tôi, Cleary nói. Nó đến từ cái mục tiêu ở Tarmiya đấy. Anh còn nhớ không - cái mà Riyadh đã thêm vào ở phút cuối ấy?
- Phải rồi. Thế những cái này là ở bên trong nhà máy à?
Thì cứ nhìn những cái đĩa quay nhựa khổng lồ này,
Cleary đề xuất một cách tinh quái.
Đó là câu nói hóc hiểm. Viên sĩ quan tình báo đưa nó vào báo cáo của mình, đi cùng với một lời chứng nhận không phải là ý tưởng vớ vẩn như người ta đã nghĩ. Khi cái gói đã đầy, một chiếc Viking S-3 Lockheed được chuyển lên trên boong chiếc Ranger và đưa toàn bộ cái gói về Riyadh. Darren Cleary quay trở lại với các phi vụ bay chiến đấu, không bao giờ chạm trán với những chiếc MIG nổi danh, và rời khỏi vùng Vịnh cùng chiếc USS Ranger vào cuối tháng Tư năm 1991.
Wolfgang Gemuetlich ngày càng trở nên lo lắng, qua cái buổi sáng hôm đó, vào trạng thái của người thư ký riêng của mình.
Cô ta thật lịch thiệp và trang trọng như chưa bao giờ thế và có ích hết mức ông ta có thể yêu cầu - và ngài Gemuetlich đòi hỏi rất nhiều. Không phải người có sự nhạy cảm cao, thoạt tiên ông chưa nhìn thấy điều gì bất thường, nhưng chuyến đến thăm văn phòng riêng của cô ta để lấy một bức thư, ông ta quan sát có cái gì đó không bình thường ở cô.
Dĩ nhiên không có gì phải lo lắng, và rõ ràng không nhẹ dạ - ông ta có thể không bao giờ lượng thứ cho điều đó. Đó là một trạng thái tâm lý cô ta có với mình cô ta. Ở lần đến thứ ba ông ta quan sát cô cận hơn, như, đầu cúi gập trên quyển sổ, cô ghi ra lời đọc của ông ta.
Đúng là bộ đồng phục làm việc màu tối vẫn đúng chỗ, dài quá đầu gối. Tóc vẫn được cặp lại ở đằng sau thành một búi sau đầu Lần đến thứ tư ông ta nhận ra với một sự kinh hoàng rằng Edith Hardenberg đang có một bộ mặt thoa phấn. Không nhiều lắm, nhưng nhận ra được. Ông ta kiểm tra nhanh để chắc rằng không có son trên môi cô.
Có thể, ông ta lý luận, ông đã tự đánh lừa mình. Đó là tháng Giêng, trời lạnh bên ngoài có thể làm da cô trắng bệch ra; không nghi ngờ gì nữa phấn là để đỡ làm nhợt nhạt. Nhưng vẫn còn cái gì đó khác nữa.
Đôi mắt. Không có kẻ mắt - Chúa ơi, hãy đừng có kẻ mắt nhé. Ông ta kiểm tra lại, nhưng rõ là không có. Ông ta đã tự huyễn hoặc mình, ông lại tự trấn an. Vào giờ ăn trưa khi ông ta trải chiếc khăn trải bàn ra và ăn những chiếc xăng uých được chuẩn bị kỹ càng bởi bà Gemuetlich, như mọi ngày, thì lời giải đáp đã đến.
Chúng ánh lên. Đôi mắt của cô Hardenberg ánh lên. Không thể là do khí hậu mùa đông được - cô đang ở trong nhà trong suất bốn giờ đồng hồ cơ mà. Ông chủ ngân hàng để chiếc xăng uých ăn dở xuống và nhận ra ông đã nhìn thấy triệu chứng đó trong một trong số các thư ký trẻ ngay trước giờ được nghỉ làm vào thứ Sáu.
Đó là hạnh phúc. Edith Hardenberg đang thực sự hạnh phúc. Điều đó thể hiện ra, ông ta giờ đây đã nhận ra, theo cách cô ta bước đi, cách cô ta nói năng, và cách cô ta nhìn. Cô đã giống như mọi buổi sáng - rằng, có dùng phấn. Thế là đủ để làm khuấy động Wolfgang Gemuetlich rất nhiều. Ông ta hy vọng cô ta đã không tiêu tiền.
Những bức ảnh chụp chớp nhoáng do trung uý chỉ huy Darren Cleary chụp đã dược đưa đến Riyadh trong buổi chiều, một phần của một đợt những hình ảnh mới mẻ đã đến được đại bản doanh CENTAF mỗi ngày.
Một số trong số những hình ảnh đó đến từ các vệ tinh KH- 11 và KH-12 ở phía trên mặt đất, cung cấp những bức ảnh kích thước lớn, tỷ lệ cao, về cả đất nước Iraq. Nếu chúng tỏ ra không có gì khác biệt so với hôm trước đó, thì có nghĩa là đã sa lầy.
Những cái khác đến từ những phi vụ chụp ảnh bất thường bay thấp hơn so với những chiếc TR-1. Một số cho thấy các hoạt động của Iraq, quân sự hoặc công nghiệp - những hoạt động chuyển quân, các máy bay chiến đấu nếu không có ở đó trước, những máy bắn tên lửa tại các địa điểm mới. Chúng đến với cơ quan Phân tích Mục tiêu.
Những bức ảnh từ chiếc Tomcat của Ranger dành cho Bộ phận Đánh giá Thiệt hại do bom. Chúng được lọc chọn qua Barn, tập hợp những lều xanh ở bên lề một căn cứ quân sự; rồi, chúng được dán nhãn và chỉ định, rồi lên đường đến Hố Đen, nơi chúng đổ bộ xuống phòng BDA.
Đại tá Beatty bắt tay vào việc lúc bảy giờ sáng. Ông làm việc hai giờ đồng hồ nhìn vào các điểm nóng là địa điểm tên lửa (một phần đã bị phá huỷ, hai khẩu đội rõ ràng đã câm họng) và một trung tâm thông tin (bằng rub), cộng với một ma trận những lá chắn máy bay được bảo vệ mà các MIG để trong nhà của Iraq, hay những chiếc Mirage, và Sukhois được phân tán.
Khi ông xem đến khoảng một chục bức ảnh về nhà máy ở Tarmiya, ông nhăn trán, đứng lên, và đi lại quanh một chiếc bàn của một trung sĩ bay người Anh của Không lực Hoàng gia.
- Charlie, cái gì thế này?
- Tarmiya, thưa ngài. Ngài còn nhớ cái nhà máy đã bị chiếc Eagle bắn ngày hôm qua không - cái chưa hề có trong danh sách ấy?
- Ôi, phải rồi, cái nhà máy chưa bao giờ là mục tiêu ấy à?
- Chính nó đấy. Một chiếc Tomcat từ tàu Ranger đã chụp được nó ngay sau mười giờ sáng nay đấy.
Đại tá Beatty đập tay vào những bức ảnh.
- Thế cái quỷ quái gì đang diễn ra ở dưới này thế
- Không biết, thưa ngài. Chính vì thế tôi phải chuyển sang cho ngài. Không ai có thể làm rõ được.
- Tốt, cái anh chàng Eagle này chắc hẳn đã tình cờ vớ đúng đấy.
Viên đại tá người Mỹ và viên sĩ quan người Anh nhìn chằm chằm vào các bức ảnh do chiếc Tomcat chụp về từ Tarmiya. Chúng rất rõ, đủ độ phân giải. Một số từ khung camera trước và dưới ở trước mũi pod TARPS cho thấy nhà máy đổ nát khi chiếc Tomcat tiếp cận từ 15 nghìn fít; những bức khác từ camera toàn cảnh ở khoảng giữa của khu. Những người ở Barn đã rút lại chỉ lấy những cái đẹp nhất và rõ nhất.
- Nhà máy này to cỡ nào? viên đại tá hỏi.
- Khoảng chừng mườm km dài và rộng sáu km, thưa ngài.
Cái mái ngói khổng lồ đã bị lật ra, và chỉ một mảnh bị lộ nằm lên một khoảng vuông của sàn nhà của cái nhà máy Iraq.
Trong ba phần tư còn lại đã được nhìn rõ, toàn bộ bố trí của nhà máy có thể thấy rõ theo cách nhìn từ trên cao. Có những phân xưởng chia ra, và trong mỗi cái có một cái đĩa màu đen lớn nằm rất lớn trên sàn.
- Là kim loại à?
- Đúng vậy, thưa ngài, dựa theo máy quét cảm ứng. Thép hoặc là cái gì đó.
Lại càng rối rắm hơn, và lý do cho tất cả những chú ý của những người ở BDA, là phản ứng đã bị chôn, với nhiều người khác từ các toà nhà quân sự, trong một cuộc thanh trừng hàng loạt.
Hassan Rahmani không còn tin rằng điệp viên của mình bị bom nổ trúng khi đang đi qua một khu đất hoang giữa đêm, rằng anh ta tin vào ma quỷ. Chỉ có những con ma duy nhất trên bầu trời thủ đô Baghdad là những chiếc máy bay ném bom vô hình của Mỹ mà anh đã đọc được trên các tạp chí phương Tây, và không có ma quỷ theo cách suy luận của lôgic. Do đó đó là cái chết của Leila Al-Hilla.
Kết luận duy nhất theo lôgic của anh ta là Kadiri đã phát hiện các hoạt động bên ngoài của mình và đã dừng lại. Điều đó có nghĩa cô ta có thể đã nói ra trước khi chết.
Điều đó có nghĩa là, với anh, Kadiri đã trở thành một kẻ thù hùng mạnh và hết sức nguy hiểm. Tồi tệ hơn thế, mối duy nhất của anh nối với các phiên họp kín của chế độ đã mất biến.
Liệu anh ta có biết rằng Kadiri đã từng lo đến chính anh, Rahmani có thể thấy thoải mái. Nhưng anh ta không hề hay biết. Anh ta chỉ biết rằng từ lúc này trở đi phải cực kỳ thận trọng.
Vào ngày thứ hai của cuộc không chiến, Iraq bắn loạt tên lửa đầu tiên vào Israel. Báo chí ngay lập tức thông báo chúng là những tên lửa Scud-Bs do Xô viết sản xuất, và cái tên đó sẽ đeo đuổi trong suốt cuộc chiến. Trên thực tế, không có tên lửa Scud nào hết cả.
Vấn đề của cuộc bắn giết là không hề điên rồ. lraq nhận ra khá rõ rằng Israel không phải là một đất nước được chuẩn bị để tiếp nhận số lượng lớn dân thường thiệt mạng. Ngay khi quả tên lửa đầu tiên rơi vào vùng ngoại ô thành phố Tel Aviv, Israel đã trả đũa bằng cách tham chiến. Đó chính là điều mà Baghdad mong muốn.
Trong Liên quân 50 nước tập hợp để chống Iraq có 17 quốc gia Arập, và nếu có điều gì làm chia rẽ từ lòng tin Hồi giáo, thì là sự thù ghét người lsrael. Iraq đã tính toán, có thể là đúng, rằng Israel có thể bị khiêu khích để tham gia cuộc chiến bằng một cuộc tấn công chống lại họ, các nước Arập trong liên quân có thể rút lui. Ngay cả Fahd, quốc vương của Arập Xêut và là người cầm trịch của hai vùng đất thánh, cũng có thể ở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan.
Những phản ứng đầu tiên của vụ bắn tên lửa vào Israel là chúng có thể mang theo chất độc sinh học hay mầm vi trùng gây bệnh. Đã như vậy, Israel không thể ngồi ngoài được nữa. Đã được nhanh chóng chứng tỏ rằng ngòi nổ chiến tranh đã bùng lên.
Nhưng hiệu ứng tâm lý trong lsrael còn to lớn hơn nhiều. Nước Mỹ ngay lập tức gây áp lực buộc Jerusalem không được bắn trả đũa. Liên quân, Itzhak Shamir được cho biết, có thể đề phòng giúp chuyện đó. Israel đã thực sự bắn trả đũa theo cách của mình bằng đợt những máy bay ném bom F- 15 nhưng được gọi lại khi vẫn trong không phận Israel.
Chiếc Scud thật sự là một quả tên lửa Xô viết to đùng, bướng bỉnh mà Iraq đã mua 900 quả nhiều năm trước đây. Nó có tầm bắn dưới 300 km và có trọng lượng gần 1000 pound. Nó không được dẫn đường, và ngay cả trong hình dáng nguyên thuỷ của mình nó cũng có thể, trong tầm bắn tối đa, đậu vào bất kỳ đâu trong phạm vi cách đích nửa dặm.
Theo quan điểm của Iraq, rõ ràng bề ngoài chẳng ích lợi gì để mua cả. Nó không thể với tới Teheran trong cuộc chiến Iran-  Iraq, và chắc chắn là không thể nào bay đến Israel được, ngay cả khi được bắn đi từ điểm cực tây của Iraq.
Điều người Iraq làm trong lúc đó, với sự giúp đỡ của Đức, thật kỳ quặc. Họ đã cắt những quả Scud thành nhiều đoạn và sử dụng ba trong số chúng tạo ra những quả tên lửa mới. Để không gây chú ý nhiều quá vào đó, tên lửa Al-Husayn mới là một sự hỗn độn.
Bằng cách thêm vào Iraq đã tăng được tầm bắn lên tới 620 km có thể đến được (và trên thực tế đã đến được) Teheran và lsrael. Nhưng trọng lượng của nó đã được giảm xuống chỉ còn 160 pound. Sự hướng lối của nó, luôn sai hướng, giờ đây thật loạn xạ. Hai trong số chúng, được bắn đi vào Israel, đã không chỉ bắn trượt Tel Aviv, mà còn trượt cả nước đó và rơi ngay vào Jordan.
Nhưng với tư cách là một thứ vũ khí gây khủng bố thì rõ ràng nó có hữu hiệu. Ngay cả dù tất cả những quả Al-Husayn rơi trên Israel đã có trọng lượng giảm hơn bom 2000 pound rơi ở Iraq, thì nó lại làm cho dân chúng Israel một phen kinh hoảng.
Nước Mỹ trả lời bằng ba cách. Đúng 1000 phát được bắn ra để hạ những quả tên lửa đến và thậm chí còn với cả những cái phóng cơ động hơn. Pháo của những quả tên lửa Patriot của Mỹ được gửi đến Israel trong vài giờ với mục đích bắn hạ các quả tên lửa bay đến nhưng chủ yếu là với mục đích bảo Israel đứng ngoài cuộc chiến.
Và SAS, mà sau đó là lính Mũ nồi xanh của Mỹ, được gửi đến các sa mạc miền tây lraq để tìm các máy phóng tên lửa cơ động và hơn nữa là phá huỷ chúng với những tên lửa Milan của mình hay gọi máy bay đến bằng vô tuyến điện.
Những chiếc Patriot, mặc dù đã có được những ưu điểm nổi bật, chỉ có được những thành công hạn chế - nhưng đó không phải lỗi của chúng. Raytheon đã thiết kế Patriot để cho máy bay, chứ không phải tên lửa, và chúng đã được áp dụng quá hấp tấp cho một vai trò mới. Lý do chúng hiếm khi đạt được mục đích không bao giờ được để lộ.
Vấn đề là, khi mở rộng tầm bắn của tên lửa Scud bằng cách đổi chúng thành Al-Husayn, người Iraq cũng đã tăng tầm cao của chúng. Tên lửa mới này, đi vào không trung bên trong của đường bay hình parabôn của mình, nóng rực lên khi đáp xuống, một điều mà tên lửa Scud không bao giờ được thiết kế để trở thành như thế. Khi quay trở lại bầu khí quyển trái đất thì nó nổ tung. Cái rơi xuống Israel không phải toàn bộ quả tên lửa mà chỉ là một đám khói bụi mà thôi.
Chiếc Patriot, đang làm việc của mình, đi lên để ngăn chặn và tìm kiếm không mảnh kim loại nào được đi đến. Cho nên bộ não nhỏ bé của nó nói cái đã được lập trình để làm -
đi đến cái to nhất. Thường thì nó chỉ tiêu tốn nhiên liệu, rơi ra ngoài tầm khống chế. Đầu đạn, nhỏ hơn nhiều và dính chặt vào đằng sau, chỉ rơi tự do mà thôi. Nhiều cái đã không hề nổ, và phần lớn khẩu đội pháo của lsrael bị ảnh hưởng thiệt hại.
Nếu cái được gọi là tên lửa Scud là một đòn khủng bố tâm lý thì Patriot lại là một thứ nâng cao tâm lý. Nhưng tâm lý có tác dụng, là giải pháp tốt để giữ Israel ở ngoài cuộc chiến.
Một phần khác của lời hứa là tên lửa đã cải tiến đáng kể đã sẵn sàng - được dựng lên vào năm 1994. Phần thứ ba ngay ở lsrael để chọn dược 100 mục tiêu phụ mà không lực Liên quân cần đến được. Các lựa chọn đã được thực hiện - chủ yếu là các mục tiêu do vị trí địa lý không có gì để làm với sự giải phóng Kuwait ở bên kia bán đảo.
Các máy bay ném bom của không lực Mỹ và Anh để chống tên lửa Scud có được rất nhiều thắng lợi, những lời tuyên bố.có ngay sự hoài nghi của CIA, đối với sự điên giận của tướng Chuck Horner và tướng Schwarzkopf.
Hai năm trước cuộc chiến tranh, Washington đã chính thức từ chối rằng một máy phóng tên lửa Scud di động đã bị phá huỷ bởi không quân - một đề xuất hiện nay vẫn còn có khả năng làm bấy kỳ phi công nào trở nên giận điên lên. Vấn đề là ở chỗ các phi công đã vô cùng thất vọng bởi maskirovka.
Nếu sa mạc phía nam của Iraq là một cái bàn bi-a chẳng có hình thù gì, thì các sa mạc tây và tây bắc có địa hình núi đá, dốc, và có tới cả nghìn wadis và gullies. Đó là vùng đất trên đó Mike Martin đã đi trong phi vụ đột nhập Baghdad. Trước khi phóng các tên lửa để tấn công, Baghdad đã tạo ra hàng đống máy phóng tên lửa Scud dỏm, và những cái đó được giấu giếm, cùng với những cái thật, ở khắp mọi nơi.
Thói quen là sản xuất chúng trong đêm, một ống kim loại cứng để trên một cái xe tải to, và vào bình minh một thùng dầu và vải trong ống. Xa hơn, các bộ cảm ứng của AWACS sẽ bắt được hơi nóng và coi đó là một bệ phóng tên lửa. Các phi công sẽ căn điểm đó để thả bom.
Những người không bị lừa bịp kiểu đó là người của SAS. Mặc dù chỉ một nhúm người, họ cũng lao vào các sa mạc phía tây trên những chiếc Land-Rover và xe mô tô, trong suốt những ngày nóng như đổ lửa và những đêm buốt giá, và theo dõi. Từ cách xa 200 yard, họ có thể thấy rằng đó thực sự là một máy phóng di động chứ không phải của giả.
Khi các máy phóng tên lửa thứ thiệt ra khỏi các chỗ cất giấu và bên dưới những cây cầu nơi chúng được giấu để tránh sự quan sát từ trên không trung, những con người lặng lẽ trong quân phục nhìn qua ống nhòm. Nếu có quá nhiều người Iraq quanh đó, họ sẽ bình thản gọi lên các đội bay bằng điện đàm. Nếu có thể thực hiện ở đó, họ bèn sử dụng chính những tên lửa Milan chống tăng của mình, tạo ra một tiếng nổ rất to khi đâm vào xe tăng của một Al-Husayn thứ thiệt.
Đã được nhận ra từ sớm có một đường bắc-nam vô hình chạy trong sa mạc. Ở phía tây con đường đó, tên lửa của lraq có thể đến được Israel; phía đông, là ngoài tầm. Công việc là khủng bố các đội bay Iraq để sao cho họ không dám đi thám thính về phía tây con đường này mà chỉ bắn từ phía đông và phải khuất phục trước sức mạnh vượt trội. Mất tám ngày, và rồi các cuộc tấn công bằng tên lửa vào Israel đã ngừng lại. Chúng không bao giờ lại tiếp tục nữa.
Về sau, con đường Baghdad-Jordan đã được sử dụng như một đường phân cáe; yêu câu
- Không có gì đâu. Mọi việc ổn, tất cả các đơn vị.
- Không thể làm một đội nào à?
- Không thực tế. Bởi vì về chiến dịch săn đuổi tên lửa Scud, chúng ta đã chậm rồi. Nào, tiếp tục đi, 4300 đã xuống Diego. Chúng có năng lực đấy.
- Tốt rồi, hãy đưa chúng cho Buffs.
- Nếu ngài tha lỗi tôi đã nói, viên sĩ quan bay nhận xét, với sự lịch thiệp rất trang trọng nhấn mạnh vào những cái mặt nạ không lấy gì làm hay ho. Các Buff không phải là những tay thả bom chính xác tuyệt đối đâu.
- Xem nào. Charlie, trong 24 giờ nữa những tên Iraq đó sẽ xoá sạch dấu vết. Chúng ta không có lựa chọn nào khác. Hãy đưa nó sang cho Buffs.
- Vâng, thưa ngài.
Mike Martin cẩn trọng nằm im trong toà nhà của người Xô viết thêm vài ngày nữa. Tay giúp việc người Nga và vợ ông ta rất bực bội, không ngủ được đêm vì những loạt bom và tên lửa rơi không dứt đi cùng với tiếng gầm rú của đạn phòng không Iraq to mồm nhưng chẳng mấy hiệu quả.
Họ đã rất thận trọng với cửa sổ với tất cả các tay lái bay người Mỹ hay Anh, nhưng cũng sẽ không còn gì ăn, và dạ dày Nga là một luận lý thúc đẩy. Giải pháp là gửi Mahmoud người làm vườn đi chợ trở lại.
Martin đạp xe vòng vòng quanh thành phố trong vòng ba ngày, khi anh nhìn thấy vạch phấn. Nó nằm trên bức tường phía sau của một trong những ngôi nhà của khu Khayat cổ ở Karadit-Mariam, và có nghĩa là Jericho đã gửi hàng đến hòm thư chết tương ứng.
Mặc dù có bom rơi, sự sống hàng ngày của người dân vẫn diễn ra và bắt đầu thích ứng dược. Không một lời nào thốt ra, trốn dưới những tảng đá và rồi chỉ một thành viên gia đình không thể phản bội nói với người của AMAM, sự nhận ra đã ám ảnh tầng lớp lao động rằng "Con của Chó" và "Con của Naji" có vẻ như đã có vẻ đánh trúng dược cái muốn đánh và để phần còn lại được yên.
Sau 5 ngày Cung điện Tổng thống trở thành một đống bùng nhùng. Bộ Quốc phòng không còn tồn tại, cũng chẳng còn trao đối điện thoại hay những trạm phát điện chính. Thậm chí còn kinh hơn, tất cả 9 cây cầu giờ đây đã trang hoàng cho đáy dòng Tigris, nhưng một loạt những nhà doanh nghiệp đã dựng ngay dịch vụ phà qua sông, rộng đủ để chớ cả xe tải và xe hơi, một số còn mang được chục hành khách và xe đạp của họ, với chỉ vài mảnh ghép lại.
Phần lớn các toà nhà chính vẫn còn chưa bị động đến. Khách sạn Rashid ở Karch vẫn đầy dân báo chí nước ngoài, thậm chí dù cho Rais chắc hẳn đã xuống trú chân ở dưới đó. Còn tồi tệ hơn thế, đại bản doanh của AMAM, một khu những toà nhà liên kết với nhau với vẻ ngoài tồi tàn và bên trong tối tân trong một khu phố chắc chắn gần Qasr-el-Abyad ở Risafa, vẫn còn yên lành. Bên dưới hai ngôi nhà trong số đó là Nhà tập, không bao giờ được nêu tên chỉ trừ khi thầm thì, là Omar Khatib Đồ tể đang khai thác người bị bắt.
Qua sông đến Mansour, toà nhà văn phòng lớn đơn độc tạo thành đại bản doanh của Mukhabarat, cả nước ngoài và Phản gián, vẫn chưa bị tìm ra.
Mike Martin xem xét vấn đề của phấn đánh dấu khi anh đạp xe về toà biệt thự Xô viết. Anh biết những mệnh lệnh với mình đều là chính thức - không có cách tiếp cận nào. Anh liệu đã từng là một nhà ngoại giao người Chile tên là Benz Moncada thì anh có thể nghe theo lời chỉ dẫn đó, và luôn đúng. Nhưng Moncada đã không được huấn luyện để nằm bất động, nếu là cần thiết trong một số ngày, trong một trạm quan sát đơn lẻ và nhìn ngó cảnh vật xung quanh cho đến khi những con chim đến làm tổ trên mũ anh ta.
Đêm hôm đó, đi bộ, Martin lại đi qua sông đến Rifasa khi các máy bay chiến đấu đã bắt đầu và đi đến chợ rau quả ở Kasra. Có những khuôn mặt hai bên đường đây đó, đang ngả về phía trước như những ngôi nhà bình thường có thể thoát khỏi một tên lửa tự  hành Tomahawk và anh đã chỉ là một trong sốchúng. Quan trọng hơn, sự đánh bạc của anh coi các đội tuần tra của AMAM chẳng ra gì: chúng không có khiếu đánh hơi đối với những phố rộng với người Mỹ ở trên đầu.
Anh tìm thấy điểm quan sát của mình trên mái của một nhà kho hoa quả, từ lề của nó anh có thể nhìn ngó con phố, bức tường của chợ rau quả. Và gạch và cái cán cờ đánh dấu chỗ hòm thư. Trong tám tiếng đồng hồ, từ tám giờ tối đến bốn giờ sáng hôm sau, anh chỉ nằm và nhìn.
Nếu hòm thư đã lộ, AMAM không thể sử dụng dưới 20 người. Lúc nào đó sẽ có gì đó như một tiếng giày trên đá, một tiếng ho, một cử động nào đó, một ánh diêm, một điếu thuốc cháy, giọng ra lệnh bằng cổ họng đê buộc tất cả trật tự; nhất định phải có cái gì đó. Anh chỉ đơn giản là không tin người của Khatib hay Rahmani có thể bất động và im lặng trong suốt tám tiếng đồng hồ.
Ngay trước bốn giờ sáng, trận ném bom kết thúc. Không có ánh sáng nào trong chợ phía dưới. Anh kiểm tra lại lần nữa xem có máy camera nào trên một cái cửa sổ cao nào không, nhưng trong khu đó không hề có cái cửa sổ ở trên cao nào. Lúc bốn giờ 10 phút anh trườn khỏi mái nhà, đi ngang qua đường, trong cái dish-dash màu ghi sẫm di chuyển trong bóng tối, tìm thấy viên gạch, lấy đi bức thông điệp: và đi.
Anh vượt tường khu nhà của Bí thư thứ nhất Kulikov ngay trước bình minh và đã nằm gọn trong túi ngũ của mình trước khi bất kỳ ai có thể tỉnh giấc.
Thông điệp từ Jericho rất ngắn gọn: Anh ta không nghe ngóng dược gì từ chín ngày nay. Anh ta đã không nhìn thấy phấn đánh dấu. Kể từ lần gửi thông điệp cuối cùng đến giờ không có liên lạc nào hết. Không hề có tiền công chuyển vào trong tài khoản ngân hàng của anh ta. Liệu thông điệp của anh ta có sao không; anh ta biết điều đó bởi vì anh ta đã kiểm tra. Có gì sai trái chăng?
Martin không chuyển thông điệp này đến Riyadh. Anh biết anh không nên làm trái mệnh lệnh, nhưng anh tin là anh, chứ không phải Paxman, là người đang ở chốt và anh có quyền có quyết định nào đó cho bản thân mình. Anh đã liều thân đêm nay để cho một cái đã tính toán trước; anh đã sử dụng những kỹ năng của mình chống lại người mà anh biết là thấp hơn trong một trò chơi nguy hiểm. Liệu còn có cái gì đó che giấu con đường dưới sự kiểm soát, anh có thể tiêu khi anh ta đến, và không ai có thể nhìn thấy anh ta.
Có thể là Paxman đã đúng và rằng Jericho đã hỏng. Cũng có khả năng Jericho chỉ đơn giản đã gửi tin đi vì đúng là anh ta đã nghe Saddam Hussein nói vậy. Điểm rắc rối là hai triệu đôla mà CIA từ chối trả. Martin tự viết câu trả lời. Anh nói là đã có một số vấn đề bởi sự bắt đầu cuộc không kích nhưng một chút kiên nhẫn nữa cũng chẳng có hại gì. Anh nói Jericho rằng thông điệp trước của anh ta đã được lấy và đã được chuyển đi, nhưng rằng anh ta, Jencho, cũng phải hiểu một triệu đôla là một số tiền rất lớn và rằng thông tin còn cần được kiểm tra lại nữa. Việc đó có thể phải mất chút thời gian. Jericho nên bình tĩnh trong khoảng thời gian rối tinh này và chờ đợi khi có dấu phấn đánh dấu sau báo hiệu cho anh ta mọi việc lại đã đâu vào đấy
Trong ngày Martin để lại bức thông điệp vào sau viên gạch trên tường gần chỗ của thành cổ Aadhamiya, và trong bụi anh viết phấn lên bề mặt đỏ quạch của cái cửa gara ôtô ở Yarmuk.
24 giờ sau, dấu phấn lại xuất hiện. Mỗi đêm Martin đều mở máy hướng về Riyadh nhưng không gì đến cả. Anh biết các mệnh lệnh bảo mình trốn khỏi Baghdad và rằng những người quản lý anh có khả năng đang chờ anh vượt biên giới. Anh quyết định đợi thêm một thời gian nữa.
Diego Garcia không phải một trong những địa điểm du lịch được ưa thích nhất trên thế giới. Nó chỉ là một hòn đảo nhỏ. còn nhỏ hơn một đám san hô, ở tận cùng quần đảo Chagos ở phía nam Ấn Độ Dương. Đã từng là lãnh thổ thuộc Anh, đã nhiều năm nay nó được chuyển sang cho Mỹ thuê.
Mặc dù sự trơ trọi của mình, trong chiến tranh vùng Vịnh nó đã đóng vai trò chủ nhà cho đội ném bom số 4300 cực nhanh của USAF, là những pháo đài bay B-52.  B-52 không nghi ngờ gì nữa là ông anh già cả nhất trong cuộc chiến, đã phục vụ từ hơn 30 năm nay. Với nhiều cái trong đó đã từng là xương sống của Chỉ huy Bay Chiến dịch, đóng trụ
sở ở Omaha, Nebraska, đấu sĩ bò tót bay đã vòng quanh vương quốc Xô viết ngày và đêm mang theo những khí cụ chiến tranh.
B-52 có thể là già nua, nhưng vẫn là loại máy bay ném bom gây khiếp sợ, và trong chiến tranh vùng Vịnh phiên bản G đã nâng cấp được sử dụng để tạo nên hiệu ứng phá huỷ trong những đội thọc sâu của Iraq có tên là Vệ binh Cộng hoà trong các sa mạc ở nam Kuwait. Nếu điều quan trọng của Quân đội Iraq là những boong ke và với những cánh quân nổi lên tại vùng đất của Liên quân để phản công, thì nó là một phần vì quan trọng của nó được rải ra và tinh thần bị bẻ gãy bởi những chiếc B-52 bay lượn vòng quanh.
 Chỉ có 80 chiếc máy bay ném bom loại này trong cuộc chiến, nhưng trọng tải cực lớn của nó và số lượng bom chở được rất nhiều đã đổ xuống 26.000 tấn bom theo lệnh, 40% số bom được ném xuống trong toàn cuộc chiến.
Chúng rất lớn trên mặt đất, sải cánh của chúng, đến tám động cơ Pratt và Whitney J-57 trong bốn cụm, mỗi cụm mang hai chiếc, đổ xuống mặt đất. Khi cất cánh với trọng lượng tối đa. các cánh nâng lên trước, như thể trượt lên trên cái đồi lớn như một con mòng biển. Chỉ trong khi bay chúng mới dựng thẳng lên theo đúng chiều của mình.
Một trong các nguyên nhân chúng tạo ra nỗi kinh hoàng lớn đến vậy cho Vệ binh Cquot;Boomer" Henry ngồi ở đằng sau.
Trên địa điểm chiếc máy phóng tên lửa Scud cố định, Walker nhào xuống để nhận rõ mục tiêu. Trong cơn điên giận của mình, nó bị che lấp bởi mây đen do gió bụi sa mạc gây nên, một shamal đã nổi lên, tạo ra bởi gió sa mạc rất mạnh đổ xuống phía dưới.
Những quả bom có laser hướng lối của anh không thể trật mục tiêu, miễn là nó có thể theo hướng đã được lên  mục tiêu từ chính đội bay của anh. Để lên được hướng đúng, anh phải nhìn thấy mục tiêu của mình.
Điên lên và đang dần hết nhiên liệu, anh quay đi. Hai lần thất vọng trong một buổi sáng thế là đã quá đủ. Anh ghét hạ cánh với đầy bom đạn như cũ. Nhưng không có chỗ nào để trút trên đường về ở phía nam hết cả.
Ba phút sau, anh nhìn thấy một khu công nghiệp rất lớn ở ngay dưới.
Cái gì thế Anh hỏi Tim. WSO kiểm tra trên bản đồ lược của mình.
- Gọi là Tarmiya.
- Chúa ơi, nó to quá.
- Ừ
Dù cả hai đều không biết, khu công nghiệp Tarmiya chứa tới 381 toà nhà và chiếm một khu vực rộng đến mười dặm vuông.
- Có trong danh sách không?
- Không thấy.
- Cứ chơi đi. Randy, chuẩn bị nhé.
- ừ chơi đi, người cùng bay với anh nói qua không trung.
Walker chúi chiếc Eagle xuống 10.000 fít. Khu công nghiệp trải ra rộng ngút ngát. Trong trung tâm là một toà nhà mênh mông, kích cỡ của một sân vận động.
- Vào đi
- Don, chơi thôi chứ.
Hạ xuống 8.000 fít, Walker kích hoạt hệ thống hướng lối bằng laser và hướng về cái nhà máy khổng lồ ở dưới ngay trước mặt anh. Màn hình trước mắt chỉ ra khoảng cách đang ngắn dần lại và cho anh vài giây để bắn. Khi đã đạt đến số không, anh nhấn nút thả bom, giữ mũi mình hướng vào mục đích đang đến.
Loé laser lên trước hai quả bom là hệ thống PAVEWAY. Dưới sự phóng ra của anh là môđun hướng lối tên là LANTIRN. LANTIRN chỉ ra một đường vô hình hướng tới mục tiêu, nơi đường đó phản ngược lại để tạo ra một kiểu sóng điện từ hướng ngược về.
Chiếc mũi PAVEWAY những cái hình chóp cảm ứng được cái giỏ đó, đi vào trong, và theo đường ống đi xuống và đi vào trong cho đến khi chạm được một cách chính xác nơi đường đó hướng đến.
Cả hai quả bom đều thực hiện được công việc của mình. Chúng nổ tung dưới mái nhà máy. Nhìn thấy chúng nổ, Don Walker lại lao lên, trượt xuống Eagle, và lao ngược lên 25.000 fít Một giờ sau, anh và người bay cùng, sau một lần tiếp nhiên liệu giữa đường, bay về Al Kharz.
Trước khi trượt xuống mũi, Walker nhìn thấy chớp sáng bùng lên của hai vụ nổ và một cột khói lớn nổi lên, và anh nhìn liếc về đám mây bụi tiếp theo quả bom nổ.
Điều anh không nhìn thấy là hai quả bom này đã nổ bùng ở một đầu nhà máy, để một mái nhà chổng ngược lên vào không khí như lá buồm một con thuyền trên biển.
Anh cũng không quan sát thấy cơn gió sa mạc mạnh sáng đó - cũng giống như cái đã tạo ra cơn bão cát thổi bay địa điểm Scud - làm nốt phần còn lại. Nó làm lật mái của nhà máy, làm tung nó về đằng sau như mở một hộp cá xác đin, như những tờ mảnh thép bay tung toé về đủ các hướng.
Quay về căn cứ, Don Walker, cũng giống như tất cả các phi công khác, được lui về. Đó là một quá trình đáng ngán với mọi phi công, nhưng cần phải hoàn thành. Chịu trách nhiệm là sĩ quan tình báo đội bay, thiếu tá Beth Kroger.
Không ai cho là gorilla có được thắng lợi, nhưng mọi phi công đều đã có được mục tiêu thứ yếu của mình, trừ một cái. Những vũ khí nóng của họ người sĩ quan đã bỏ mục tiêu thứ yếu của mình và tấn công hú hoạ một chỗ khác.
- Các anh làm cái đó vì quỷ quái gì vậy? Kroger hỏi.
- Bởi vì nó rất lớn và trông có vẻ quan trọng.
- Nó có trong Danh Sách Nhiệm vụ đâu nào, cô lên tiếng.
Cô chỉ vào mục tiêu đã được lựa chọn, vị trí chính xác và miêu tả của nó, và báo cáo về thiệt hại do bom và cùng với sự lưu ý của TACC - Trung tâm Quản lý Chiến thuật Bay, cái chia sẻ căn cứ của CENTAF dưới đại bản doanh Không quân Arập Xêut với các nhà phân tích của Hố Đen ở Riyadh.
- Nếu làm nổ tung một nhà máy đóng nước hay một nhà máy sản xuất thức ăn trẻ em, thì các anh liệu hồn đấy, cô ta cảnh báo Walker.
- Cô cũng biết đấy, Beth, cô rất đẹp khi cô nổi giận, anh chọc tức cô.
Beth Kroger là một sĩ quan có sự nghiệp tốt. Nếu cô ta để bị phỉnh phờ, thì cô thích đại tá trở lên cơ.
- Đại uý anh đi lạc đề rồi đấy, cô nói với anh, và đi để cất bản báo cáo của mình.
Walker nhún vai và đi về nghỉ. Cô ta nói đúng, dù sao đi nữa. Nếu anh chỉ tính đến việc trại trẻ mồ côi lớn nhất thế giới. Khi nó xảy ra, thì người ta không bao giờ nói Don Walker chỉ cái anh đã chạm phải sáng hôm đó. Nhưng đó không phải một trại trẻ mồ côi.