uốt một tháng liền Tácdăng trở thành quý khách thường ngày của nữ bá tước Đơ Côngđơ. Chàng tiếp xúc với nhiều người thuộc tầng lớp thượng lưu, quý tộc thường tới tụ tập quanh bàn trà ở nhà nữ bá tước vào buổi chiều. Tuy nhiên bà chủ nhà Ônga cũng thu xếp rất khéo để mỗi ngày có ít nhất là có một tiếng đồng hồ được ở cạnh Tácdăng. Có một dạo, Ônga rất sợ những lời đe dọa của Nicôlai. Ngồi bên cạnh chàng trai khôi ngô, khỏe mạnh, cô vẫn chỉ nhìn chàng như nhìn một người bạn. Nhưng có thể những câu nói sỗ sàng của thằng em trai đã tác động mạnh đến cô. Cô cảm thấy có một ma lực nào đó đang kéo cô lại gần chàng trai mắt xám. Sức mạnh ấy huyền bí hơn và trẻ trung hơn người chồng của cô. Cô hoàn toàn không ý thức được rằng, cô đang cần một tình bạn tri kỷ với một người ngang tuổi mình. Người đàn bà hai mươi tuổi không thể nào hồn nhiên giãi bày mọi chuyện với người chồng ở tuổi bốn mươi. Tácdăng chỉ hơn Ônga có hai tuổi nên cô cảm thấy bao giờ chàng cũng hiểu cô. Chàng thật cởi mở, cao thượng và hào hiệp. Tất nhiên không bao giờ chàng làm cô phải sợ.
Trong khi đó Rôcốp vẫn rình mò, quan sát xem hai người gần gũi nhau tới mức độ nào. Nhìn đôi tri kỷ ngồi với nhau, hắn không giấu được niềm vui ác độc. Từ khi nghe nói Tácdăng đã biết những hoạt động gián điệp của mình, Rôcốp rất căm tức nhưng cũng rất sợ lọt vào tay cơ quan phản gián và các kẻ thù đủ loại. Hắn chỉ mong có dịp thuận lợi là thủ tiêu bằng được kẻ ngáng đường. Hắn muốn thủ tiêu Tácdăng, đồng thời bắt chàng trước lúc chết phải xin lỗi hắn.
Lúc bấy giờ Tácdăng đang sống những ngày hạnh phúc nhất tính từ khi nhóm người của giáo sư Potơ đột ngột kéo đến phá vỡ cuộc sống yên tĩnh giữa rừng già của chàng. Chàng thích gặp gỡ các vị khách của nữ bá tước. Lối xử sự thân tình và thiện cảm của nữ bá tước đối với chàng khiến lòng chàng dào dạt niềm vui. Cô chủ trẻ tuổi xinh đẹp đã xua đuổi những ý nghĩ buồn bã của chàng và thực sự làm dịu nỗi đau từ con tim tan vỡ. Thỉnh thoảng trung úy Ácnốt cũng đi cùng Tácdăng đến thăm gia đình bá tước. Hai người đàn ông Pháp này đã quen biết nhau từ lâu. Bá tước rất ít khi tham dự các bữa ăn chiều và các buổi khiêu vũ. Công việc ngập đầu! Từ công sở, ông thường về nhà khi trời sắp sáng.
Rôcốp theo sát Tácdăng từng bước. Hắn mong bắt gặp Tácdăng trong lâu đài của bá tước Đơ Côngđơ vào một đêm nào đấy. Nhưng sự kiên nhẫn của hắn gần như vô hiệu. Mặc dù nhiều lần Tácdăng tháp tùng nữ bá tước từ nhà hát Ôpêra về lâu đài, nhưng lần nào Tácdăng cũng chỉ dừng lại ở cổng. Phút tiễn biệt ấy thường diễn ra ngay trước cái mũi đánh hơi của Rôcốp giữa lùm cây. Rôcốp vô cùng tức tối. Đã tới lúc hắn cảm thấy không thể chờ đợi Tácdăng rơi vào cạm bẫy nếu như hắn không nhờ Páplôvích giúp một tay. Hắn tìm đến Páplôvích và cả hai đứa chụm đầu bày mưu đưa Tácdăng vào tròng.
Suốt mấy ngày liền hai đứa chụm đầu trước đống báo, đọc mờ cả mắt. Chúng thuê người theo dõi từng bước đi của Tácdăng. Cuói cùng chúng cũng được đền bù. Một hôm, có tờ nhật báo phát hành buổi sớm, đăng tin về cuộc chiêu đãi của viên đại sứ Đức, được tổ chức vào buổi tối hôm sau. Trong số các thượng khách được mời, có tên bá tước Đơ Côngđơ. Nếu như Đơ Côngđơ đến dự tiệc, ông ta không thể trở về lâu đài của mình trước mười hai giờ đêm.
Chiều tối hôm sau, Páplôvích lảng vảng trước cổng đại sứ quán Đức. Hắn nhìn kỹ mặt từng người ra vào. Chờ một lúc, hắn đã trông thấy bá tước Đơ Côngđơ bước ra khỏi xe, vào cổng. Páplôvích chỉ chờ có thế. Hắn vội vã trở về phòng mình. Rôcốp đang ngồi chờ ở đó.
Tới 11 giờ đêm, Páplôvích nhấc điện thoại và quay số.
- Alô! Xin lỗi! Đấy có phải là nhà của trung úy Ácnốt không? - Páplôvích hỏi và lập tức nhận được liên lạc - Tôi có lời nhắn cho ngài Tácdăng. Ông làm ơn gọi ngài ấy nghe trực tiếp.
Im lặng, chờ đợi.
- Ngài Tácdăng đấy ạ? Vâng, đúng thế, thưa ngài! Tôi là Phơrăngxoa, người hầu của nữ bá tước Đơ Côngđơ. Ngài còn nhớ tôi chứ? Tôi mang cho ngài một lời nhắn quan trọng của nữ bá tước đáng yêu. Nữ bá tước rất khó ở... Không, thưa ngài! Tôi cũng chẳng biết có chuyện gì. Tôi chỉ có thể nói lại lời của nữ bá tước rằng ngài hãy đến ngay tức khắc. Được không ạ? Vâng, cảm ơn ngài! Cầu Chúa ban phước lành cho ngài!
Páplôvích đặt ống nghe xuống, cười nhăn nhở. Hắn quay sang phía đồng bọn, nói: "Đi đến nhà nữ bá tước phải mất nửa tiếng. Mọi việc bây giờ phụ thuộc vào tâm trạng của cái thằng điên ấy. Không biết hắn có chịu nán lại trong phòng nữ bá tước một lúc, khi biết mình bị lừa hay không. Tao cho là Ônga sẽ không để cho hắn đi về ngay. Thư cho bá tước Đơ Côngđơ đây phải không? Được rồi. Bắt tay vào việc!
Páplôvích không để mất thời gian. Tới cổng sứ quán Đức, hắn đưa bức thư cho người thường trực, nhờ chuyển hộ.
- Đây là thư gửi cho bá tước Raun Đơ Côngđơ. Thư khẩn. Ông chạy đưa ngay! Thư tới tay bá tước sớm chừng nào tốt chừng ây! - Páplôvích đưa thư và nhét vào lòng bàn tay người gác cổng mấy đồng bạc. Xong việc, hắn quay luôn về phòng.
Chỉ vài phút sau, bá tước Đơ Côngđơ đã hấp tấp mở phong bì. Đọc xong bức thư, mặt ông tái mét, hai tay run lẩy bẩy. Mảnh giấy có những dòng chữ viết vội:
Thưa bá tước kính mến! Tôi là người không muốn cho tên tuổi và danh dự của ngài bị vấy bẩn. Người đàn ông trẻ tuổi mà lâu nay vẫn là khách quý hàng ngày của bá tước hiện giờ đang ở trong phòng riêng của nữ bá tước. Nếu bá tước không tin thì chẳng cần vội về lâu đài làm gì. Bạn của bá tước. Sau khi Páplôvích gọi điện cho Tácdăng, Rôcốp cũng quay số gọi điện cho chị gái của mình. Tiếng của người hầu phòng vang trong ống nghe:
- Bà chủ đang mệt - Cô hầu trả lời, có ý không muốn đi gọi nữ bá tước.
- Tôi muốn nhắn cho nữ bá tước một tin rất quan trọng - Rôcốp giục giã - Hãy bảo bà dậy ngay để nghe điện thoại. Năm phút nữa tôi sẽ gọi lại - Rôcốp nói rồi thả ống nghe xuống máy.
Páplôvích bước đến gần máy.
- Bá tước chắc chắn nhận được thư chứ? - Rôcốp hỏi.
- Thật là tuyệt! Bà chị quý hóa của tao sẽ vào khuê phòng thay áo ngủ. Rồi một lúc sau, chàng Đôngkisốt trung thành sẽ được Giắc của chúng ta dẫn vào phòng như một vị khách không mời mà đến. Những lời thanh minh, giải thích sẽ chỉ kéo dài vài giây thôi. Trong bọ đồ ngủ mỏng tanh, Ông ta đầy sức hấp dẫn. Bà ta sẽ rất kinh ngạc khi thấy Tácdăng. Nhưng chắc bà ta sẽ không nổi giận... Rồi khi hai người đang quấn lấy nhau thì ngài bá tước xông vào. Kế hoạch của chúng ta thật tuyệt mỹ, Alếcxây ạ! Rất đang uống một chai rượu của Pơlanxơn để mừng sức khỏe ngài Tácdăng đáng kính. Đừng quên rằng bá tước Đơ Côngđơ là một tay kiếm có hạng của Pari và là một quý tộc bắn giỏi nhất trên đất Pháp
*
Khi Tácdăng đến lâu đài của bá tước Đơ Côngđơ, Giắc đã chờ sẵn ở cửa.
- Đi lối này, mời ngài! - Người hầu nói rồi dẫn khách leo lên một cầu thang rộng rãi, màu cẩm thạch. Hắn dừng lại mở cửa, vén tấm màn che (có vẻ) nặng nề ra, rồi cúi đầu, giật lùi, tránh lối cho khách đi vào. Tácdăng đã trông thấy Ônga đang ngồi cạnh máy điện thoại. Cô có vẻ nóng ruột. Những ngón tay xinh xắn của cô gõ liên tục lên mặt bàn, vì vậy cô không hề biết có người bước vào.
- Ônga! - Tácdăng khẽ gọi - Có chuyện gì xảy ra thế?
Nữ bá tước quay đầu lại và kêu lên kinh ngạc:
- Tácdăng! Anh làm gì ở đây? Ai để cho anh vào tận đây? Thế này là thế nào?
Tácdăng đứng sững lại, bối rối hồi lâu. Nhưng rồi chàng cũng nhận ra rằng cô gái có phần cường điệu sự ngạc nhiên. Hình như đằng sau sự ngạc nhiên, bối rối đó còn có cả niềm vui mà cô cố kiềm chế.
- Cô đã gọi tôi đến phải không, Ônga?
- Làm gì tôi lại gọi anh vào lúc nửa đêm thế này? Lạy Chúa tôi! Tácdăng! Anh nghĩ rằng tôi điên hay sao?
- Phơrăngxoa gọi điện thoại bảo rằng cô nhắn tôi đến ngay. Cô đang khó chịu và đang cần sự giúp đỡ của tôi.
- Phơrăngxoa? Phơrăngxoa nào?
- Phơrăngxoa nói rằng hắn là người phục vụ trong lâu đài của cô. Hắn nói thế nên tôi tin ngay.
- Trong số người hầu của tôi chẳng có ai là Phơrăngxoa cả. Có lẽ người nào đó đùa bỡn ngài đấy thôi.
Ônga phán đoán rồi bật cười rất vui vẻ.
- Nhưng tôi sợ rằng đây là một trò đùa quá mức, Ônga ạ! - Tácdăng nghiêm mặt trả lời - Tôi cảm thấy trong chuyện này còn có một cái gì khác nữa, chứ không phải chỉ vì mục đích đùa vui.
- Anh nghĩ gì thế? Chẳng lẽ anh chỉ nghĩ...
- Ngài bá tước hiện giờ ở đâu? - Tácdăng cắt lời Ônga.
- Đang ở trong sứ quán Đức.
- Thế thì đây lại là một trò chơi mới của ông em trai quý hóa của cô. Ngày mai bá tước sẽ biết hết mọi chuyện. Chắc chắn cuộc gặp gỡ này của chúng ta là do Rôcốp bày đặt.
- Thằng vô lại! - Ônga lẩm bẩm nguyền rủa.
Nhưng chỉ một vài giây sau, Ônga như đã quên hết mọi chuyện. Cô đứng dậy, tiến lại gần Tácdăng rồi nhìn đăm đăm vào mắt chàng. Đôi mắt cô lúc này ánh lên như đôi mắt của một con thú yếu đuối đang bị săn đuổi đến đường cùng ngõ cụt. Cái nhìn vừa bối rối vừa như dò hỏi Tácdăng. Cô khẽ rùng mình rồi đưa tay lên bờ vai vạm vỡ của chàng.
- Chúng ta phải làm gì bây giờ, Tácdăng? - Cô gái thầm thì hỏi - Ngày mai, cả Pari sẽ biết chuyện này.
Tiếng nói thầm thì và đôi mắt tội nghiệp của Ônga làm Tácdăng nhớ đến người đàn bà đẹp trong rừng già năm xưa. Một người đàn bà trông rất đang thương, trong cơn sợ hãi không thể không chạy về phía người vệ sĩ tự nhiên của mình là người đàn ông. Tácdăng thẫn thờ cầm lấy bàn tay ấm áp của cô gái. Chàng cảm thấy không thể điều khiển nổi những ý nghĩ của mình nữa. Hình như chàng đang đi theo một tiếng gọi mơ hồ, nhưng thẳm sâu trong lòng mình. Lúc này, chưa bao giờ chàng lại ở gần cô đến thế. Hai người nhìn vào mắt nhau bằng cái nhìn của những kẻ biết mình đang phạm tội. Đột nhiên cô gái như dồn hết can đảm, vòng tay ôm chặt vai chàng rồi ôm lấy cổ chàng.
Còn Tácdăng của chúng ta thì sao đây?
Chàng cũng ôm chặt lấy cô gái bé bỏng, run rẩy vào lòng mình rồi đặt lên dôi môi nóng hổi của cô những cái hôn.
*
Vừa đọc xong lá thư do người gác cổng trao cho, bá tước Đơ Côngđơ vội vã xin lỗi viên tham tán sứ quán để ra về. Sau này khi nhớ lại, Đơ Côngđơ cũng không thể nào nhớ nổi mình đã cáo từ bằng những câu gì nữa. Suốt dọc đường trở về, mọi vật đều nhòe đi trước mắt bá tước. Ông chỉ thấy mắt mình nhìn rõ mọi vật khi đã đứng trước cửa ra vào. Ông đã bình tĩnh trở lại. Không biết vì lý do nào đó gã Giắc lại không khóa cổng. Nếu như mọi ngày, bá tước không cần để tâm tới điều đó. Còn bây giờ, chiếc cổng để ngỏ làm ông rất băn khoăn. Ông thận trọng bước lên cầu thang, men theo hàng hiên, rón rén đến cửa buồng ngủ của vợ. Tay ông thủ một chiếc gậy rất to và nặng. Còn trái tim ông thì co xiết lại cái quyết định giết người.
Ônga trông thấy bá tước đầu tiên. Cùng với tiếng kêu hoảng hốt, cô quẫy người thoát ra khỏi vòng tay của Tácdăng. Tácdăng quay đầu lại vừa đúng lúc cây gậy bổ xuống đầu mình. Một nhát, hai nhát rồi ba nhát. Nhát nào cũng trúng đích. Tácdăng vẫn ngồi im. Nhưng tiếc thay những cú đập cứ mỗi lúc lại làm thức dậy ở chàng trai tốt bụng này con thú dữ của rừng già năm xưa. Với một tiếng thét man dại của con vượn đực, Tácdăng nhảy bổ vào người đàn ông Pháp. Trong nháy mắt, chiếc gậy bị bẻ gẫy làm đôi và bị quẳng sang bên. Tácdăng bẻ chiếc gậy như bẻ một que diêm. Không còn là Tácdăng nữa rồi! Con sư tử nổi điên của rừng sâu nguyên thủy đã vung tay chộp lấy cổ họng đối thủ.
Sự việc diễn ra quá nhanh, tới mức Ônga Đơ Côngđơ cứ đứng im như hóa đá, hai mắt mở trừng trừng. Bỗng cô gái như chợt tỉnh, vội vã xông tới chỗ hai người đàn ông. Mặt dù tuyệt vọng, cô vẫn cố gắng kéo vai Tácdăng ra khỏi chồng mình.
- Lạy Chúa tôi! - Ônga kêu lên - Anh giết Raun mất. Anh đang giết chồng tôi đấy.
Tácdăng như bị điếc vì cơn giận dữ. Chàng hoàn toàn không nghe thấy tiếng gọi của Ônga. Một vài giây sau, chàng đã hất cái cơ thể mềm oặt của đối thủ sang bên, dặt một bàn chân lên đó và ngẩng cao đầu nhìn trần nhà. Ngay lúc đó, cả lâu đài của bá tước Đơ Côngđơ như rung lên vì tiếng thét chiến thắng của một con thú trước xác kẻ thù. Từ hầm chứa rượu cho tới những cánh đồng lân cận, ai ai cũng nghe thấy tiếng thét khủng khiếp ấy. Lũ đày tớ đờ đẫn, đứng im, không biết có chuyện gì xảy ra. Còn nữ bá tước thì quỳ sụp xuống bên thi thể người chồng, chắp tay cầu nguyện.
Có thể thấy trong đôi mắt Tácdăng lúc này một vệt sương mù màu hồng đang từ từ mỏng dần, loãng ra. Mọi vật quanh Tácdăng bắt đầu hiện trở lại như đúng cái diện mạo vốn có của chúng. Tácdăng cũng bắt đầu hồi tỉnh, trở lại với bản tính con người. Cái nhìn của chàng như bị dính chặt vào người thiếu phụ đang run run cầu nguyện.
- Ônga! - Tácdăng thầm thì gọi.
Cô gái ngẩng đầu lên nhìn. Cô đoán rằng mình sẽ nhìn thấy trong đôi mắt Tácdăng những tia chớp man dại. Nhưng hoàn toàn ngược lại với dự đoán, cô chỉ thấy trong đôi mắt ấy nỗi buồn vời vợi, xa xăm.
- Lạy Chúa! Tácdăng! - Cô gái lên tiếng gọi - Anh thử nhìn lại xem anh đã làm gì! Đó là chồng tôi. Tôi yêu ông ấy. Còn anh thì lại giết đi.
Tácdăng ôm lấy cái thi thể bất động của bá tước Đơ Côngđơ đặt lên giường. Sau đó, chàng áp tai vào ngực nạn nhân, lắng nghe nhịp đập.
- Ônga! Lấy cho tôi một ít rượu mạnh! - Tácdăng ra lệnh.
Cô gái hấp tấp đi lấy rượu. Mọi người xúm đến và tìm cách đưa vào cổ họng bá tước một vài ngụm rượu. Từ đôi môi bá tước bật ra một hơi thở nhẹ. Cái đầu khẽ cựa quậy. Bá tước bắt đầu rên rỉ.
- Không chêt! - Tácdăng thở phào nhẹ nhõm - Ơn Chúa lòng lành!
- Vì sao anh lại hành động như thế? Tácdăng! - Cô gái trách móc.
- Tôi cũng không biết nữa. Ông ấy đã đánh tôi. Điều đó làm tôi nổi giận. Tôi đã thấy loài vượn làm như vậy - Tácdăng im lặng một lát rồi nói tiếp - Ônga này! Cho đến bây giờ cô vẫn không biết câu chuyện đời tôi. Tôi đã phải hành động như vậy và đã coi như một chuyện bình thường. Tôi chưa bao giờ trông thấy mặt cha mình. Còn người mẹ duy nhất mà tôi biết lại là một con vượn. Tới năm mười bảy tuôi, tôi mới trông thấy loài người. Và năm hai mươi tuổi, lần đầu tiên tôi mới biết tới người da trắng. Cách đây không lâu tôi chỉ là một con thú man rợ của rừng già châu Phi. Đừng lên án tôi quá nghiêm khắc, Ônga ạ! Chỉ mới hai năm thôi. Hai năm làm sao đủ cho tôi từ một con vật của rừng xanh biến thành một người đàn ông da trắng. Để thực sự là một con người, điều đó cần bao nhiêu thế kỷ!
- Tôi hoàn toàn không lên án anh đâu, Tácdăng! Đó là lỗi của tôi. Còn bây giờ anh đi đi! Không thể để cho chồng tôi nhìn thấy anh ở đây. Vĩnh biệt anh!
Tácdăng cúi đầu buồn bã, bước ra khỏi lâu đài.
Khi đã thấy lòng mình thư thái, Tácdăng đi thẳng tới đồn cảnh sát. Cơ quan này cách đường phố Maule chỉ vài trăm bước. Ở đó Tácdăng tìm được một cảnh sát mà chàng đã gây chuyện trước đây vài tuần lễ. Viên cảnh sát tỏ ra rất vui vì được gặp lại đối thủ vĩ đại của mình. Sau vài phút hàn huyên cho qua chuyện, Tácdăng hỏi viên cảnh sát có nghe thấy người ta nói về hai người đàn ông là Nicôlai Rô cốp và Alecxây Páplôvích hay không.
- Tất nhiên là tôi thường nghe nói, thưa ngài - Viên cảnh sát vui vẻ trả lời - Cả hai đều có tên trong sổ đen. Mặc dù chưa có bằng chứng cụ thể, nhưng chúng tôi cho rằng việc theo dõi chúng không thừa chút nào. Đó là biện pháp an ninh cần thiết. Có thể xem chúng như một đối tượng hình sự nguy hiểm. Nhưng vì sao ngài lại hỏi tới chúng?
- Tôi biết chúng - Tácdăng trả lời - Tôi rất mong có dịp nói chuyện với Rôcốp. Tôi rất biết ơn ngài, nếu ngài vui lòng cho tôi biết địa chỉ của hắn.
Một lát sau, Tácdăng chào tạm biệt viên cảnh sát vui tính. Chàng đút vào túi mẩu giấy ghi địa chỉ của Rôcốp rồi vội vã đi đến bến xe tắc xi.
Cũng trong quãng thời gian đó, Rôcốp cùng Páplôvích đã quay về phòng ở của Rôcốp. Cả hai đều vui vẻ tán chuyện về sự kiện mà chúng gây ra trong lâu đài. Chúng gọi điện thoại tới ban biên tập của hai tờ báo buổi sáng và hứa rằng chúng sẽ cung cấp cho phóng viên tư liệu về một sự kiện nghiêm trọng mới xảy ra trong giới thượng lưu. Sự kiện đó sẽ khuấy động cuộc sống yên tĩnh của thành phố.
Ngoài cầu thang đã vang lên tiếng bước chân nằng nặng.
- Cánh nhà báo chính xác như kim đồng hồ! - Rôcốp lên tiếng khi nghe tiếng gõ cửa gấp gáp - Mời ngài vào!
Rôcốp đứng dậy, nhếch môi chuẩn bị trước một nụ cười để đón vị khách nhà báo. Nhưng ngay lập tức nụ cười vụt tắt, khuôn mặt Rôcốp dài thuỗn ra vì bắt gặp trước cửa không phải một nhà báo, mà là đôi mắt xám giận dữ của Tácdăng.
- Đồ quỷ tha ma bắt! - Rôcốp nguyền rủa và chồm dậy khỏi ghế - Ông muốn gì ở đây?
- Ngồi xuống đi! - Tácdăng nghiêm giọng ra lệnh.
Chàng nói nhỏ tới mức hai gã đàn ông phải dỏng tai nghe.
Tuy vậy cái giọng trầm trầm khỏe khoắn của Tácdăng buộc chúng phải nghe lời, không dám cựa quậy.
- Chúng mày biết rõ vì sao tao đến đây, - Tácdăng tiếp lời, nhưng vẫn không cất cao giọng - Tao rất muốn giết mày. Nhưng vì mày là em trai của nữ bá tước Đơ Côngđơ nên tao không giết. Tạm thời là như vậy. Tao sẽ cho mày một cơ hội. Cái mạng của Páplôvích cũng không đáng để tao phải mất công xắn tay áo. Nó chỉ là một con dao cùn của mày. Cho nên tao sẽ không giết nó trước khi thanh toán xong mọi chuyện với mày. Trước khi tao ra khỏi phòng này, chúng mày phải làm theo lời tao. Trước hết hãy viết lời thú nhận về những việc làm bẩn thỉu của chúng mày vừa rồi. Cả hai phải ký tên cẩn thận. Thứ hai, chúng mày phải viết lời cam kết là không để báo chí mảy may biết gì về chuyện rắc rối mà chúng mày đã gây ra. Nếu mày không làm hai điều tao nói, thì mày phải biết cái gì đang chờ mày. Mày hiểu chứ?
Rồi không đợi câu trả lời, chàng trai quát lên:
- Bắt tay vào việc đi, nhanh lên! Ở đây có đủ cả giấy, bút, mực.
Rôcốp cau mày, tỏ ra giận dữ. Hắn cố gắng làm bộ không sợ lời đe dọa. Nhưng thoắt một cái, hắn đã thấy những ngón tay cứng như thép của Tácdăng dưới cổ họng mình. Trong khi đó Páplôvích cố tìm cách chuồn ra khỏi cửa. Nhưng chân hắn chưa rời khỏi bậc cửa, cả người hắn đã bị nâng bổng lên cao rồi rơi bắn vào góc phòng. Khi thấy mặt Rôcốp đỏ bừng vì tụ máu, Tácdăng thả lỏng ngón tay bóp cổ, để cho Rôcốp thở rồi đặt hắn trở lại ghế bành. Một lát sau, Páplôvích vừa lê bước vừa thở khò khè, tiến tới ngồi chung bàn với hắn. Cả hai ngoan ngoãn cầm bút như hai cậu học trò.
- Viết đi! - Tácdăng ra lệnh - nếu tao phải sờ cổ chúng mày lần thứ hai thì tao không biết lỏng tay đâu.
Rôcốp bắt đầu viết.
- Này, đừng bỏ sót một chi tiết nào! - Tácdăng nói - Phải ghi đầy đủ họ tên từng người.
Bên ngoài chợt vang lên tiếng gõ cửa.
- Xin mời vào!
Tácdăng đáp lại tiếng gõ cửa. Người đẩy cửa bước vào là một chàng trai mặt mũi đỏ lựng như da gà chọi.
- Xin phép tự giới thiệu! Tôi là Máctin, nhà báo, người chuyên viết phóng sự. Tôi được biết là ngài Rôcốp sẽ cho tôi nhiều thông tin hấp dẫn.
- Chuyện nhầm lẫn đấy thôi, bạn ạ! - Tácdăng trả lời rồi quay sang hai gã đàn ông đang cắn bút - Các bạn chẳng có chuyện gì thú vị cho báo chí, đúng không, Nicôlai thân mến!
Rôcốp ngẩng đầu lên khỏi mặt bàn. Mặt hắn vẫn méo đi vì sợ hãi.
- Đúng như thế! Tôi chẳng có chuyện gì thú vị cho báo chí cả... Tạm thời trước mắt...
- Thậm chí sau này cũng chẳn có gì, đúng không Ni cô lai thân mến! - Tácdăng nói và trừng mắt nhìn Rôcốp.
- Vâng, đúng thế! Thậm chí sau này cũng chẳng có gì - Rôcốp nhắc lại theo Tácdăng.
- Tôi rất tiếc, thưa ngài! - Tácdăng đưa tay bắt tay nhà báo - Tiếc là ngài đã mất công tới đây chỉ vì một sự hiểu nhầm. Tạm biệt ngài! Chúc ngài ngủ ngon!
Tácdăng tiễn nhà báo ra tới cửa rồi quay lại bàn. Cầm trong tay lời tự thú của hai kẻ tội phạm, Tácdăng nói với Rôcốp:
- Liệu đấy! tao rất muốn rời khỏi Pari. Sớm hay muộn tao cũng sẽ giết mày để chị mày khỏi bị quấy rầy.
Một cuộc đấu súng Khi Tácdăng từ chỗ Rôcốp trở về, Ácnốt vẫn đang ngủ. Chàng trai lặng lẽ đi vào vì không muốn làm bạn mình thức giấc. Tới sáng hôm sau, chàng mới kể lại thật tỉ mỉ cho bạn biết chuyện xảy ra đêm trước.
- Tôi thật là đần độn! - Tácdăng kết thúc câu chuyện của mình - Đơ Côngđơ và vợ ông ta đều là bạn của tôi. Tôi biết ơn họ rất nhiều. Xuýt nữa thì tôi giết chết bá tước. Còn với Ônga thì tôi lại bôi nhọ danh dự của cô ấy. Tôi đã phá vỡ hạnh phúc gia đình của họ.
- Cậu yêu Ônga Đơ Côngđơ phải không? - Ácnốt hỏi.
- Nếu như tôi biết chắc chắn rằng cô ta yêu tôi, tôi sẽ không trả lời anh câu ấy, Pôn ạ! Dù có gạt đi hết mọi định kiến thì tôi vẫn có thể nói rằng tôi không yêu cô ta. Cả hai chúng tôi chỉ trở thành nạn nhân của thứ bệnh hôn mê trong giây lát thôi. Đó không phải là tình yêu. Nếu như bá tước không trở về thì cơn hôn mê đó sẽ kết thúc nhanh chóng, rời khỏi chúng tôi đột ngột, cũng giống như lúc nó bắt đầu xuất hiện mà thôi. Như anh biết đấy, về đàn bà thì tôi không có nhiều kinh nghiệm. Ônga Đơ Côngđơ là một người đàn bà đẹp. Vẻ đẹp của cô ấy, tình cảm chân thành của cô ấy và tất cả bầu không khí dễ chịu xung quanh cô ấy có thể quật ngã bất kỳ một người đàn ông văn minh nào. Nhưng đáng tiếc là tôi vẫn chưa có đủ những tiêu chuẩn để làm một con người - một người văn minh. Ở tôi, có lẽ thứ duy nhất được coi là văn minh, chỉ là quần áo mà thôi. Tôi không hợp chút nào với cuộc sống Pari. Tôi có cảm giác là càng ngày tôi càng bị sa lầy trong thành phố này. Tôi đang bị cầm tù trong cuộc sống văn minh này. Bất kỳ sự giữ gìn, bất kỳ nghi thức nào của cuộc sống này cũng làm tôi khó chịu. Tôi không thể cố gắng hơn được nữa, Pôn ạ! Cho nên tôi nghĩ rằng, tốt nhất là tôi quay lại rừng sâu. Tôi sẽ tiếp tục sống cuộc đời mà thiên nhiên đã định sẵn cho tôi.
- Đừng suy nghĩ một cách bi đát như thế, ông bạn thân mến của tôi! - Ácnốt trả lời - Cậu đã hành động và xử sự mọi chuyện còn văn minh hơn cả những người tự coi là văn minh. Còn chuyện rời khỏi Pari thì tạm thời hãy gác lại, đừng tính đến vội! Bởi vì Raun đang chờ cậu giải thích chuyện rắc rối đó...
Ácnốt đoán không nhầm chút nào. Khoảng một tuần lễ sau, vào quãng giữa trưa, có người nào đó tên là Phơlôbe tới gõ cửa. Tácdăng và Ácnốt vừa ăn trưa xong, Phơlôbe tỏ ra là một người đàn ông lịch duyệt. Bằng cử chỉ cúi đầu nhã nhặn, Phơlôbe chuyển cho Tácdăng lời thách đấu của bá tước Đơ Côngđơ. Theo lời thách đấu để bảo toàn danh dự, Tácdăng phải cử một người bạn nào đó đến gặp Phơlôbe để thảo luận các thể lệ và nhận trách nhiệm làm chứng cho cuộc đấu. Vào quãng hai giờ chiều, người làm chứng của cả hai phía sẽ gặp nhau.
Phơlôbe ra về. Chàng trung úy im lặng nhìn ông bạn trẻ tuổi của mình một cách lo lắng.
- Thế nào? - Trung úy khẽ nhún vai hỏi.
- Chẳng còn cách nào khác. Chỉ còn giết người hoặc bị người giết. Thế thôi! - Tácdăng trả lời thản nhiên - Tôi phải đi quá nhanh theo bước chân của những người văn minh đấy, Pôn ạ!
- Thế cậu định chọn thứ vũ khí nào? - Ácnốt hỏi, - Đơ Côngđơ nổi tiếng là một tay kiếm. Còn bắn súng thì ông ta là một tay thiện xạ.
- Tôi sẽ đấu bằng cung tên tẩm thuốc độc, hoặc phóng lao trong khoảng cách hai chục bước - Tácdăng trả lời và cười vui vẻ - Chả lẽ cứ phải đấu bằng súng ngắn?
- Ông ấy sẽ giết chết cậu mất thôi.
- Tôi cũng nghĩ như thế, - Tácdăng trả lời - Người và động vật trước sau đều phải chết một lần.
- Tôi nghĩ cậu nên chọn kiếm, - Chàng trung úy khuyên bạn rất chân thành - Ngài bá tước có thể hài lòng, dừng tay kiếm khi thấy bạn bị thương nặng. Mà bị thương vì kiếm thì vẫn nhiều hy vọng chạy chữa hơn là súng.
- Tôi đấu súng ngắn! - Tácdăng trả lời kiên quyết.
Trung úy Ácnốt giương mắt nhìn bạn. Anh cố gắng thuyết phục Tácdăng đấu kiếm. Nhưng mọi cố gắng của anh đều vô ích. Tácdăng vẫn khăng khăng giữ quyết định đấu súng của mình.
Khoảng hơn bốn giờ chiều, Ácnốt từ chỗ Phơlôbe buồn bã trở về.
- Mọi việc đã được bàn tính và thỏa thuận xong xuôi, Tácdăng ạ! - Ácnốt nói - Sáng sớm ngày mai, tại khu đất hoang gần con đường Êtam... Phơlôbe tự ý chọn địa điểm và thời gian. Tôi cũng không thấy có gì phải phản đối cả.
- Được rồi! - Tácdăng gật đầu, chẳng hề băn khoăn.
Buổi tối, trước khi đi ngủ, Tácdăng ngồi viết một vài lá thư. Sau khi soát lại các địa chỉ, Tácdăng cho tất cả vào chung một phong bì rồi đưa cho Ácnốt. Xong xuôi, chàng sửa soạn đi ngủ, miệng lẩm nhẩm mấy bài hát hành quân.
Trung úy Ácnốt còn ngồi lại một mình. Anh rủa thầm tất cả mọi sự trên đời. Chưa bao giờ anh thấy khổ tâm như lúc này. Chẳng còn hy vọng gì nữa! Từ xưa tới nay, có mấy khi Tácdăng cầm súng! Anh hình dung ra cảnh buổi sớm sau trân quyết đấu: Lúc mặt trời lên là anh phải đứng cạnh xác Tácdăng... Thật không thể nào hiểu nổi! Làm sao Tácdăng lại nhẹ dạ, nông nổi đến thế?
*
- Giờ này không phải là giờ thuận lợi cho việc giết nhau! - Tácdăng ngồi trên giường ngủ, vươn vai bìn luận.
Trời đã sáng rõ mặt người. Tácdăng vẫn chưa hết buồn ngủ. Chàng đã ngủ rất ngon. Nếu không có người hầu phòng đánh thức và đứng kèm bên giường, chắc chắn chàng lại lăn vào chăn ngủ tiếp.
Trung úy Ácnốt đã đứng bên cạnh cửa, trang phục gọn gàng. Suốt đêm qua anh không hề chợp mắt, vì thế lúc này anh vừa mệt mỏi, vừa bồn chồn không yên.
- Rõ ràng là cậu ngủ suốt đêm như một đứa trẻ - Ácnốt nhìn Tácdăng, nói.
Tácdăng cười hồn nhiên:
- Nghe giọng anh là biết ngay. Anh nghĩ về trận đấu nhiều hơn tôi. Còn tôi thì bây giờ mới sực nhớ ra.
Nhìn Tácdăng cười, trung úy cũng phải cười theo:
- Cũng không đơn giản như thế đâu - Ácnốt trả lời - Cậu khoái chí vì thấy tôi căng thẳng thần kinh. Nhưng cậu nhớ cho! Bây giờ không phải cậu đi ra thao trường tập bắn bia mà là đi làm bia cho người ta bắn. Cậu sẽ phải đối mặt với một xạ thủ hạng kiện tướng của nước Pháp.
Tácdăng nhún vai, nói:
- Bây giờ tôi đi là để đền tội, Pôn ạ! Vì vậy cần phải để cho đối thủ của mình dễ bắn. Có thật bá tước Đơ Côngđơ là người bắn giỏi không?
- Cậu hy vọng sẽ giết được ông ấy hay sao? - Chàng trung úy kêu lên.
- Tôi không nói là thích giết bá tước. Nhưng anh cũng thừa biết là điều ấy vẫn có thể xảy ra.
Nếu như Ácnốt biết được những ý nghĩ trong đầu bạn mình, có lẽ anh còn hoảng hốt hơn nhiều. Nhất là từ lúc anh biết rằng bá tước sẽ yêu cầu Tácdăng xin lỗi.
Cả hai người bạn lặng lẽ bước lên xe. Chiếc xe chạy xuyên qua những đoạn đường còn đầy bóng tối, hướng tới vùng Êtam. Dọc đường, cả hai vẫn không nói năng gì. Mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng.
Trung úy Ácnốt cảm thấy trong lòng như có một tảng băng đè nặng. Bởi vì tự trong trái tim mình, Ácnốt rất yêu Tácdăng. Chẳng biết Chúa Trời xui khiến thế nào mà anh lại có chàng. Số phận đã định sắn như thế chăng? Mặc dù cuộc sống giữa anh và chàng trai này rất khác nhau. Nhưng tính cách đàn ông, lòng dũng cảm, lối sống trọng danh dự của mỗi người đã tạo thành nhưng mối dây liên kết, càng ngày càng ràng buộc chặt hai người lại với nhau. Cả hai đều hiểu nhau và đều tự hào về tình bạn của mình.
Lúc này ở trong xe, Tácdăng đang chìm sâu vào những kỷ niệm đẹp đẽ của đời mình. Chàng đã có một tuổi thơ yên bình giữa chốn rừng xanh. Chàng đã lang thang không biết bao nhiêu lần xung quanh ngôi nhà gỗ bí ẩn mà người ta vẫn nói là chỗ ở của cha chàng. Chàng nhớ mình đã ngồi cắn môi hàng giờ trước những cuốn sách ố vàng có những bức tranh lý thú. Chàng cũng không hiểu vì sao chàng lại khám phá ra những điều thiêng liêng ẩn chứa sau những dòng chữ viết, để rồi cuối cùng chàng đã nắm được bản chất và sức mạnh của ngôn ngữ loài người. Chàng đã tự học đọc trước khi học viết, đã nói thầm trong đầu bao nhiêu năm, cho tới khi gặp người thì mới bật ra tiếng nói ở vành môi... Một nụ cười thoáng nở trên môi chàng, khi chàng nhớ tới ngày ngồi bên Potơrôva giữa rừng sâu...
Dòng ý nghĩ của Tácdăng bị cắt đứt bởi một cú phanh gấp. Đã tới điểm hẹn! Lúc này thì không còn thời gian cho tưởng tượng. Cần phải quay về với hiện tại. Tácdăng biết mình đang đi tới chỗ chết. Nhưng chàng không hề sợ hãi. Đối với một công dân của rừng sâu nguyên thủy, cái chết chẳng phải là một cái gì ghê gớm, đáng phải quan tâm. Luật của tự nhiên chỉ bắt người ta đấu tranh cho sự sống, chứ không bắt người ta phải sợ mất sự sống.
Tácdăng và Ácnốt tiến ra phía trước. Đi sau lưng họ là bá tước Đơ Côngđơ, ngài Phơlôbe và một người đàn ông nữa được giới thiệu là bác sĩ. Hai người làm chứng gặp nhau, bàn bạc nhỏ với nhau một chỗ. Tácdăng và Đơ Côngđơ đứng cách nhau không xa, nhưng lại đối mặt nhìn nhau, không nói. Chỉ một lát sau hai người được lệnh chuẩn bị bước vào cuộc đấu.
Ácnốt và Phơlôbe kiểm tra súng lần nữa. Hai đối thủ nhìn nhau trong khi Phơlôbe nhắc lại những điều kiện và thể lệ của trận quyết đấu. Hai người sẽ đứng quay lưng vào nhau, súng để sẵn bên hông. Sau khi nghe lệnh, mỗi người sẽ tiến về phía của mình. Sau khi bước được mười bước, trung úy Ácnốt sẽ ra mệnh lệnh cuối cùng. Hai đấu thủ sẽ quay lại bắn nhau, mỗi người được bắn ba lần.
Trong lúc Phơlôbe đang phổ biến luật lệ, Tácdăng moi hộp thuốc ra, rút một điếu rồi bình thản châm lửa. Còn Đơ Côngđơ lúc này đã trở thành một người đàn ông có máu lạnh. Nếu không tanh máu, làm sao có thể trở thành xạ thủ của nước Pháp?
Cuối cùng, Phơlôbe ra hiệu cho Ácnốt để mỗi người đứng vào vị trí của mình.
- Chuẩn bị xong chưa, các ngài? - Phơlôbe hỏi to.
- Xong - Đơ Côngđơ trả lời.
Tácdăng cũng gật đầu. Phơlôbe ra lệnh tiếp rồi cùng Ácnốt lùi về sau mấy bước để tránh đường đạn của hai địch thủ.
Một bước, hai bước... sáu bước, bảy bước...
Khóe mắt Ácnốt ứa ra hai giọt lệ. Anh thương Tácdăng biết bao! Chín bước... Chỉ còn một bước cuối cùng nữa thôi! Chàng trung úy tội nghiệp cắn răng, đưa tay ra lệnh. Tim Ácnốt thắt lại. Có khác gì chính anh ra lệnh cho Tácdăng phải chết.
Đơ Côngđơ quay ngoắt mình, nổ súng. Tácdăng cũng quay lại. Bàn tay Tácdăng cầm súng nhưng cánh tay vẫn thả lỏng dọc thân. Sau phát súng của mình, bá tước Đơ Côngđơ có vẻ do dự. Ông chờ cho đối thủ của mình ngã quỵ xuống đất. Là một xạ thủ dày dạn kinh nghiệm, ông biết rằng ông đã bắn trúng địch thủ.
Tácdăng vẫn đứng im, không hề giương súng. Đơ Côngđơ xiết cò lần nữa. Nhưng thật kỳ lạ! Tácdăng vẫn hoàn toàn thờ ơ, không hề nghiêng mình tránh đạn. Thậm chí Tácdăng vẫn phì phèo điếu thuốc trên môi. Thái độ của chàng làm cho vị xạ thủ Pháp mất bình tĩnh.
Hình như Đơ Côngđơ đã đoán được vì sao đối thủ của mình tự nguyện làm vật hy sinh. Thậm chí ông còn mong hai viên đạn của mình không làm địch thủ bị đau để địch thủ của mình đủ sức giương súng bắn. Ông cảm thấy ớn lạnh xương sống. Thật là quỷ tha ma bắt! Anh chàng này là người thế nào? Đã trúng hai phát đạn mà gã vẫn đứng im, chờ phát đạn thứ ba? Đơ Côngđơ lại giương súng ngắm lần thứ ba. Nhưng ông đã mất bình tĩnh. Viên đạn thứ ba không trúng đích, bay vọt vào không trung.
Trong phút chốc cả hai đối thủ đều đứng im như hai pho tượng... Bốn mắt chăm chăm nhìn nhau. Tácdăng có vẻ thất vọng, chán chường. Còn Đơ Côngđơ thì mỗi lúc một run lên vì sợ hãi.
- Lạy Chúa tôi! Ông bắn đi! - Bá tước kêu lên.
Nhưng ngay cả lần này Tácdăng cũng như không nghe thấy gì. Chàng không bắn, mà đi thẳng về phía đối thủ. Hai người làm chứng vội vã lao vào định ngăn hai đối thủ. Họ không biết Tácdăng định làm gì. Nhưng chàng không bắn mà chỉ giơ hai tay lên đầu, xua xua.
- Các anh đừng lo! - Tácdăng nói - Tôi không làm gì ông ta đâu.
Thái độ của Tácdăng khó hiểu tới mức cả viên trung úy lẫn Phơlôbe đều dừng bước, đờ đẫn. Tácdăng vẫn tiếp tục bước tới. Cuối cùng, chàng đã dừng sát mặt bá tước.
- Súng của ngài không tốt - Tácdăng nói - Ngài dùng khẩu súng của tôi mà thử bắn lại xem sao!
Tácdăng đưa súng của mình cho Đơ Côngđơ.
- Lạy Chúa tôi! - Bá tước kêu lên - Ông điên hay sao!
- Không bao giờ! - Tácdăng lắc đầu - Nhưng tôi là kẻ đáng tội chết. Tôi muốn chuộc lại tội lỗi mà tôi đã gây ra cho vợ của ngài. Ngài cứ cầm lấy súng của tôi mà bắn cho hết đạn đi!
- Không bao giờ! - Đến lượt bá tước lại lắc đầu - Nếu tôi làm thế, thì không phải đấu súng vì danh dự mà là gây án giết người. Ông đã làm gì vợ tôi? Cô ấy cứ thề với tôi là...
- Quả thực là tôi không có ý định gì - Tácdăng nói - Hoàn toàn không có gì. Mặc dù có rất nhiều chứng cứ tổn hạn tới danh dự của cô ấy và tổn hại hạnh phúc vợ chồng ngài, nhưng quả thực không hề có chuyện gì. Đối với ngài, tôi chưa bao giờ có ý nghĩ thù địch. Nhưng cuối cùng thì lỗi vẫn thuộc về tôi. Chính vì vậy mà tôi định giũ sạch tội lỗi của mình bằng cái chết. Tôi thất vọng vì ngài chẳng phải là thiện xa như lời người ta đồn đại.
- Ông nói rằng lỗi hoàn toàn thuộc về ông? - Đơ Côngđơ hỏi một cách bối rối.
- Hoàn toàn do tôi, thưa ngài! Vợ ngài là một người đàn bà trong sáng và cao thượng. Cô ấy chỉ yêu có một mình ngài mà thôi. Chuyện tôi với cô ấy trong phòng ngủ không phải do cô ấy, cũng không phải do tôi. Đây là bằng chứng. Nếu ông chưa tin, ông có thể đọc - Tácdăng nói và đưa cho bá tước tờ giấy tự thú của Rôcốp.
Đơ Côngđơ cầm lấy tờ giấy và bắt đầu đọc. Ácnốt và Phơlôbe vẫn đứng ngây như phỗng, đảo mắt nhìn bá tước rồi lại nhìn Tácdăng. Trận đấu đã kết thúc hết sức kỳ dị! Chẳng một ai lên tiếng. Cuối cùng bá tước đã đọc xong tờ giấy. Ông nhìn Tácdăng, xúc động:
- Ông là người rất cao thương và dũng cảm! - Bá tước cất giọng run run! - Lạy Chúa! May mà tôi không bắn chết ông!
Như những người Pháp chân chính, Đơ Côngđơ rất dễ xúc động. Ông đưa tay ra bắt và ôm lấy Tácdăng. Cùng lúc ấy Phơlôbe cũng ngã vào vòng tay Ácnốt. Chẳng ai quan tâm tới bác sĩ đang đứng gần đó. Có lẽ vì vậy mà ông bác sĩ thấy mình phải lên tiếng cho đỡ tự ái. Ông nói với bốn người đàn ông kỳ quặc đang ôm nhau lúc đó rằng ông phải có trách nhiệm khám cho Tácdăng.
- Chàng trai này ít ra cũng bị trúng đạn một lần - bác sĩ nói - Thậm chí trúng cả ba phát.
- Hai phát thôi! - Tácdăng cải chính - Một lần vào vai, một lần vào hông. Cả hai phát tôi đều biết ngay. Nhưng tôi nghĩ là...
Ông bác sĩ không để Tácdăng nói nhiều. Ông bắt Tácdăng cởi áo nằm ngửa ra đám cỏ. Sau một hồi chăm sóc, các vết thương đã cầm máu và được băng bó cẩn thận.
Một giờ sau, tất cả quay về Pari. Họ ngồi chung trong xe của trung úy Ácnốt như những người bạn tốt nhất của nhau. Nhờ tờ giấy thú tội, chứng tổ lòng chung thủy của vợ, bá tước Đơ Côngđơ cảm thấy lòng mình trở nên thanh thản. Ông không còn ghen với Tácdăng nữa. Đúng là chàng trai này đã nhận về mình phần trách nhiệm nhiều hơn. Còn nếu như chàng có nói dối, khuếch đại lên phần tội lỗi của mình thì càng phải tha thứ cho chàng. Bởi vì chung quy, chàng hành động như vậy là vì hạnh phúc của Ônga cũng như hạnh phúc chung của vợ chồng bá tước. Cần phải nhìn chàng như một người đàn ông cao thượng và nhân ái.
Về tới Pari, Tácdăng buộc phải nằm lên giường chờ cho vết thương lành hẳn. Chàng rất bực bội vì cho rằng việc đó quá ư thừa thãi và ngốc nghếch. Nhưng bác sĩ và trung úy Ácnốt thì coi đó là những vết thương rất nặng.
- Anh định trêu đùa tôi phải không? - Tácdăng nhăn nhó với Ácnốt - Chả lã cứ nằm lì trên giường chỉ vì hai cái nốt ngứa ngáy này hay sao. Lúc tôi còn nhỉ, một con đười ươi còn cắn xé tôi đau hơn nhiều. Mà có lẽ chỗ nằm của tôi lúc đó còn mềm mại hơn chiếc giường này. Đó là một cái đệm bằng những cây lau rừng. Tôi không nhớ là đã nằm mấy tuần trong bụi cỏ, dưới sự chăm nom của Kala. Kala bất hạnh và kính mến của tôi! Người mẹ ấy đã xua đuổi ruồi muỗi và nhặt bọ ra khỏi những vết thương cho tôi. Không một loài thú dữ nào dám bén mảng tới gần hai mẹ con tôi. Trông thấy sư tử liếm mép nhìn tôi thèm thuồng, Kala nhe răng, giận dữ như hóa điên. Tất cả thú dữ khi ấy đều phải sợ mẹ tôi. Khi tôi đòi uống nước, Kala đi lấy nước rất nhanh. Anh có biết Kala lấy nước cho tôi bằng gì không? Chỉ có một cách duy nhất là... bằng mồm. Nghe chuyện này, có lẽ ông bác sĩ đáng kính và lẩm cẩm của chúng ta lại rút khẩu trang lên bịt mũi đấy... Thế mà tôi vẫn khỏi, vẫn khỏe manh. Còn bây giờ thì anh cứ bắt tôi nằm cả ngày để gãi. Ở trong rừng mà đổ tí máu thế này thì chả ai thèm để ý. Quá lắm thì Kala chỉ ngửi vài cái rồi bỏ đi.
Công việc điều trị của bác sĩ kết thúc rất sớm. Sau vài ngày Tácdăng đã được phép ngồi dậy, đi lại. Bá tước Đơ Côngđơ đã đến thăm Tácdăng mấy lần. Khi nghe Tácdăng phàn nàn, đòi đi làm. Đơ Côngđơ đã hứa tìm việc cho chàng. Ít lâu sau, Tácdăng được người bạn mới đó gửi giấy mời tới văn phòng.
Bá tước Đơ Côngđơ đón tiếp Tácdăng rất niềm nở, chân thành. Ông chúc mừng chàng đã khỏe manh. Tuy vậy, suốt buổi chuyện trò, cả hai không hề nhắc tới vết thương và trận đấu trong bình minh của họ.
- Tôi nghĩ rằng tôi đã có gì đó cho ngài rồi đấy, ngài Tácdăng ạ! - Bá tước nói - Đó là một công việc đòi hỏi không chỉ sự xả thân dũng cảm mà cả ý thức trách nhiệm và trí thông minh nữa. Tôi không tìm được người nào thỏa mãn được những yêu cầu đó, trừ ông, ông bạn quý mến! Tôi nghĩ rằng rồi một vài năm nữa, ông có thể sẽ có một địa vị xứng đáng, thậm chí có thể trong giới ngoại giao. Nhưng trước mắt, ông hãy đảm nhiệm công việc của một đặc phái viên trong Bộ Chiến tranh một thời gian đã. Ông đi theo tôi! Bây giờ tôi sẽ dẫn ông tới gặp một vị tướng mà ông ta sẽ là cấp chỉ huy trực tiếp của ông. Có lẽ phải để ông ấy nói cho ông biết mọi nhiệm vụ cụ thể. Sau đó tự ông quyết định lấy, nhận hay không là tùy ông thôi, ông bạn ạ!
Bá tước dẫn Tácdăng tới văn phòng của trung tướng Rôsơ - Cục trưởng Cục tình báo. Bá tước tạm biệt ông bạn trẻ và quay về trong khi tướng Rôsơ đang say sưa trình bày những đặc quyền và ưu thế của một chiến sỹ tình báo.
Sáng hôm sau, Tácdăng tỉnh giấc sớm hơn mọi ngày. Chàng sửa soạn tới văn phòng của Rôsơ để hoàn chỉnh những thủ tục cuối cùng. Với bộ mặt rạng rỡ vì vui sướng, Tácdăng chạy đi báo tin cho Ácnốt. Thế là cuối cùng chàng đã trở thành một người hữu ích! Chàng sẽ làm ra tiền! Nhưng điều quan trọng nhất là chàng sẽ được ngao du khắp đó đây để hiểu thêm về thế giới con người.
Tácdăng có vẻ bị cụt hứng vì Ácnốt không chia sẻ niềm vui với mình.
- Cậu vui mừng vì được rời khỏi Pari, đúng không? - Ácnốt giả vờ cau có - Điều đó cũng có nghĩ là, có khi hàng tháng liền tôi với cậu không thấy mặt nhau! Thế mà cậu mừng được! Tácdăng ơi! Xét cho cùng, cậu vẫn là một con thú vô ơn, đỏng đảnh.
Ácnốt nói xong lại phải gượng cười.
- Đừng nghĩ thế, Pôn! - Tácdăng vội vã trả lời - Tôi chỉ là một đứa trẻ con kiếm được thứ đồ chơi mới mà thôi. Ôi, tôi sung sướng vô cùng!
Thế là ngay ngày hôm sau Tácdăng từ giã Pari, lên đường đi Mácxây rồi đi tiếp tới Oran, một thành phố trên đất Angiêri.
Vũ nữ Siđi Aisa Chuyến công cán đầu tiên của Tácdăng chẳng có gì lý thú và quan trọng cả. Cơ sự chẳng qua chỉ là thế này: Một sỹ quan kỵ binh - trung úy Giơnoa đang đóng quân ở Angiêri đã bị tình nghi là có những hành động phản bội. Người ta cho rằng Giơnoa có đường dây liên hệ nguy hiểm với một nước lớn của châu Âu. Khi đóng quân ở vùng Siđi Apbát, viên trung úy này được biên chế trực thuộc cơ quan, tổng tham mưu nên thường nhận được nhưng thông tin quân sự đặc biệt. Vì vậy, chính phủ Pháp cho rằng Giơnoa đã lợi dụng thông tin quân sự để tiến hành các hoạt động buôn bán trái phép với một cường quốc nào đó không tiện nêu tên. Thật ra, kết luận đó có khi chỉ xuất phát từ một sự ghen tức của một nhân vật cao cấp nào đó ở Pari mà thôi. Nhưng dù sao bắt nhầm thì vẫn hơn là bỏ sót. Chính vì thế, Bộ Tổng tham mưu quyết định tìm chứng cớ để trừng phạt Giơnoa. Những người làm việc ở cơ quan Tổng tham mưu thường không có những tình báo viên đáng tin cậy, cho nên những tin tức từ nước ngoài gửi về, họ cũng chẳng thèm xem và coi chuyện phản bội của Giơnoa là không bàn cãi gì nữa.
Tácdăng tới Angiêri dưới danh nghĩa một khách du lịch Mỹ để theo dõi thật sát các hoạt động của Giơnoa. Chàng trai không thể giấu được nỗi vui sướng của mình. Bởi vì tới Angiêri tức là chàng lại trông thấy châu Phi yêu dấu của mình. Nhưng khi tới nơi, chàng thất vọng hoàn toàn. Vùng đất bắc Phi khác xa với vùng rừng già nhiệt đới. Nếu không được thăm lại quê hương rừng già, chẳng thà chàng ở lại Pari cho xong!
Tới Oran chàng dành một ngày đi dạo các phố cổ. Kiến trúc phố xá Ả rập gây cho chàng những ấn tượng thú vị. Tuy vậy, ngay ngày hôm sau chàng đã tới Siđi Apbat và trình hộ chiếu cùng các giấy tờ cần thiết cho các cơ quan dân sự và quân sự. Tất nhiên, mục đích chuyến đi của chàng thì chàng không được phép nói ra. Chàng nói tiếng Anh tương đối tốt nên có thể giao thiệp tự nhiên với người Pháp và người Ả rập. Còn khi gặp người Anh, chàng lại nói tiếng Pháp để khỏi bị nghi ngờ. Khi nói tiếng Anh với người nước ngoài biết tiếng Anh, chàng ý thức rất rõ mình phát âm chưa tốt. Chàng đã tiếp xúc với nhiều sĩ quan Pháp và trở thành một người bạn Mỹ lý thú và đáng mến của họ. Khi gặp Giơnoa - đối tượng của chàng, chàng mới biết đó là một người đàn ông trạc tuổi bốn mươi, ít nói và ít giao thiệp với những người đồng nghiệp. Nhìn cái mặt rắn đanh, lạnh lùng của gã, chẳng ai biết được gã đang nghĩ gì trong đầu.
Suốt một tháng liền, Tácdăng thấy có điều gì đáng nghi. Giơnoa hầu như không đi thăm viếng thăm ai. Ngay cả khi đi vào thành phố, gã cũng chẳng bắt chuyện với người nào để có thể nghi ngờ rằng gã là gián điệp của nước ngoài. Đã tới lúc Tácdăng cho rằng việc tình nghi Giơnoa là điều vô lý, nếu như Giơnoa không đột ngột chuyển công tác tới Bu Sađi - một tỉnh miền Nam, cách đó khá xa. Ngay sau đó, đơn vị sở tại được bổ sung một phân đội kỵ binh và ba sĩ quan. Rất may là một trong ba sĩ quan đó lại có đại úy Ghêrát, một người bạn tốt bụng của Tácdăng. Thế là Tácdăng xin Ghêrát cho mình được phép tiễn đơn vị tới Bu Sađi, một vùng đất có nhiều thú để săn bắn. Với sở thích lành mạnh như vậy, Tácdăng không gợi cho Ghêrát và mọi người một chút nghi ngờ nào cả.
Tới Baura đơn vị xuống tàu, đi ngựa. Chính vào lúc đang sửa soạn yên ngựa, Tácdăng phát hiện ra một người nhìn trộm mình sau cánh cửa quán rượu. Người đó mặc quần áo Âu châu. Tácdăng vừa nhìn thấy thì người đàn ông đó vội quay lưng, đi vào một chiếc lều rất thấp, có mái che bằng đất. Chàng có cảm giác là đã trông thấy khuôn mặt này ở nơi nào đó. Nhưng rồi chàng lại bỏ qua, không để tâm tới nữa.
Chặng đường tới Anaba quá ư mệt mỏi. Bởi vì Tácdăng không quen với yên ngựa. Toàn bộ kinh nghiệm dùng ngựa của chàng chỉ giới hạn trong một vài giờ thực tập ở Học viện quân sự Pari. Vì vậy vừa tụt khỏi yên ngưa là chàng đã đi tìm giường ngủ trong khách sạn Gơrôsát. Trong khi đó, binh lính và các sĩ quan tiếp tục tiến về doanh trại gần đó để nghỉ ngơi.
Mặc dù Tácdăng thức dậy khá sớm, phân đội kỵ binh vẫn lên đường trước khi chàng kết thúc bữa điểm tâm sáng. Chàng vội vã nhai nốt thức ăn, vừa nhai vừa nhìn ra tấm cửa ngăn giữa phòng ăn và quán rượu. Chàng ngạc nhiên khi thấy trung úy Giơnoa đang nói chuyện với một người ngoại quốc. Đó chính là người đã nhìn trộm chàng trong quán rượu ở Baura. Không thể nhầm được! Đúng dáng ngồi ấy, thân hình ấy, cho dù người đó quay lưng lại phía chàng. Khi cái nhìn của chàng dừng lại ở lưng người ngoại quốc thì Giơnoa ngẩng đầu lên. Người ngoại quốc hạ thấp giọng nói, nhưng Giơnoa lập tức ngăn lại rồi cả hai bỏ đi mất hút. Đây là lần đầu tiên Tácdăng cảm thấy trong cách xử sự của gã trung úy Pháp có những biểu hiện khả nghi. Chàng tin chắc rằng hai gã đàn ông trong quán đột ngột bỏ đi chỉ vì chàng đã nhìn thấy chúng. Không những thế, chàng còn linh cảm rằng chàng đã gặp người ngoại quốc đó một lần và có thể hắn đang theo dõi chàng.
Lát sau, chàng bước sang quán rượu nhưng không thấy Giơnoa và kẻ đồng sự nước ngoài đó nữa. Chàng ra phố, giả vờ ghé vào một vài cửa hiệu nhưng vẫn không trông thấy chúng. Chúng không xuất hiện, cho tới tận ngày chàng tới Siđi Aisa. Hôm đó, khoảng quá trưa, lúc binh lính dừng lại nghỉ giải lao, chàng trông thấy Giơnoa. Nhưng chàng không thấy gã ngoại quốc ở đâu hết.
Ở Siđi Aisa tất nhiên là có chợ. Những đoàn lạc đà chở hàng xuyên dọc, xuyên ngang thành phố. Chợ Siđi Aisa lúc nào cũng ầm ỹ tiếng người Ả Rập đôi co, cãi cọ. Tácdăng muốn lưu lại trong thành phố ít nhất một ngày để làm quen với những đứa con trai độc đáo của sa mạc. Vì vậy buổi chiều hôm đó, đoàn kỵ binh lên đường đi Bu Sađi đã không có mặt Tácdăng.
Ở lại Siđi Aisa, Tácdăng đã có mấy tiếng đồng hồ lý thú với một chàng trai Ả rập tên là Apđula. Ông chủ khách sạn đã tiến cử Apđula cho Tácdăng với tư cách là người hầu cận, vừa là thông ngôn. Ở đây Tácdăng trả tiền thuê ngựa rẻ hơn ở Bâura. Khi nói chuyện với người đàn ông cho thuê ngựa, Tác dăng mới biết rằng ông là một nhà buôn, tên là Kapđu Ip Sađin - tộc trưởng của một bộ lạc định cư ở Gianpha. Gianpha nằm ở phương Nam, cách Siđi Aisa một chặng đường dài. Sađin rất xứng đáng với tư cách tộc trưởng. Khuôn mặt của ông trông phương phi, cao thượng. Tácdăng rất mến ông. Vì vậy, nhờ Apđula phiên dịch, Tácdăng mời luôn người quen mới của mình đi ăn trưa. Ba người len lỏi qua những tốp người chạy chợ, những đàn la, ngựa, lạc đà. Đang đi, Apđula giật giật tay áo Tácdăng:
- Ngài nhìn lại đằng sau xem! - Apđula nói rồi chỉ vào một người phía sau. Tácdăng vừa quay lại, người đó đã lẩn sau bóng một con lạc đà chở hàng cồng kềnh.
- Người đó đã lẩn quẩn xung quanh chúng ta suốt cả buổi chiều - Apđula thông báo.
- Tôi chỉ nhìn thấy một người Ả rập mặc áo màu xanh tối và mũ tuban trắng - Tácdăng nói - Cậu nghĩ là ta bị theo dõi?
- Đúng thế! Tôi rất nghi, vì hắn có vẻ như một người ngoại quốc. Hắn chẳng làm gì khác ngoài việc bám gót chúng ta. Đó không phải là thói quen của những người Ả rập đàng hoàng. Hắn che mặt sát tới mắt. Chắc chắn không phải là người tử tế. Vào giờ này, người ta phải đi làm cái gì đó hữu ích, ra tiền, chứ việc gì lại cứ tò mò bám theo lưng người lạ?
- Có thể là cả hai phía đều nhầm! - Tácdăng trả lời - Bởi vì tôi nghĩ ở đây chẳng có người nào đủ lý do để ghét tôi. Lần đầu tiên tôi đến nước này, chẳng biết một ai. Có thể người đàn ông đó đã nhìn nhầm. Khi biết mình nhầm, ông ta sẽ rất chán đấy.
- Nhưng ít nhất thì hắn cũng có thể xoáy cái gì đó của chúng ta - Apđula vẫn không từ bỏ ý kiến.
Tácdăng cười:
- Thôi thì việc duy nhất chúng ta có thể làm được là chờ xem hắn có đủ can đảm thò tay móc túi ta không. Tôi dám chắc với cậu là khi đó hắn sẽ được ột bài học nhớ đời.
Kapđu Ip Sađin rất hài lòng với bữa ăn trưa được mời ấy. Nhưng ông phải đi bán hàng. Không dấu được mối thiện cảm của mình đối với Tácdăng, ông đã mời chàng đến thăm quê hương ông - một vùng quê theo như ông mô tả thì những người ham săn bắn sẽ rất hài lòng vì có nhiều thú lạ.
Khi vị tộc trưởng đi khỏi, Tácdăng cùng người dẫn đường lại ra đường phố Siđi Aisa. Dọc đường Tácdăng nghe thấy có tiếng nhạc chơi rất man dại phát ra từ một quán cà phê kiểu Morơ. Lúc này đã hơn tám giờ tối. Hai người bước vào quán. Quán cà phê có một phòng nhảy mịt mù khói thuốc. Bốn phía đều chật chội. Những người Ả rập đang ngồi hút thuốc và uống cà phê nóng. Mặc dù tiếng trống đập inh ỏi, tiếng sáo thổi chói tai đã làm cho chàng trai quen sống trong cảnh núi rừng yên tĩnh cảm thấy vô cùng khó chịu, nhưng Tác dăng vẫn kéo người đồng hành của mình len vào giữa phòng.
Một vũ nữ duyên dáng đang múa lượn quanh phòng. Vừa trông thấy Tácdăng trong bộ Âu phục, vũ nữ đã đoán Tácdăng là một người Âu châu giàu có. Cô vừa múa vừa tiến lại gần Tácdăng, vứt cho chàng một chiếc khăn nhung và chờ tiền thưởng. Nhưng chỉ một lát sau lại có một vũ nữ khác ra thay thế. Trước đó Apđula đã trông thấy cô gái này đứng nói chuyện với hai người đàn ông Ả rập trong góc phòng nhảy. Góc phòng có một lối đi ra sân và dẫn đến phòng ngủ của các vũ nữ. Thoạt đầu Apđula không để ý tới hai người đàn ông. Nhưng lát sau, Apđula phát hiện thấy một trong hai người đàn ông đó giơ tay ra hiệu về phía mình. Theo hướng tay chỉ, cô gái quay lại nhìn lướt qua Tácdăng. Sau đó hai người đàn ông lẩn đâu đó trong bóng tối của sân sau.
Lại đến lượt cô vũ nữ ban đầu ra nhảy. Cô lả lướt xung quanh Tácdăng và dành cho chàng những nụ cười tươi tắn. Những người đàn ông da nâu, mắt đen của vùng sa mạc đổ mắt về phía người khách lạ với cái nhìn đầy ghen tức và thù địch. Nhưng mọi cử chỉ của vũ nữ lẫn cái nhìn của dân địa phương đều không làm Tácdăng mảy may xúc động. Chàng vẫn ngồi bình thản. Lần thứ hai, vũ nữ lại lướt tà áo chạm vào vai Tácdăng và lại được chàng thưởng mấy đồng phờrăng. Cô vũ nữ ấn đồng tiền lên trán rồi nghiêng đầu xuống Tácdăng thì thào:
- Ngoài sân có hai gã đàn ông đang chờ anh. Chúng định hại anh. Thoạt đầu tôi đã hứa với chúng là sẽ nhử anh ra chỗ chúng. Nhưng anh rất tốt với tôi nên tôi không đang tâm làm điều đó. Anh hãy đi khỏi đây. Nhanh lên, kẻo chúng phát hiện ra là tôi đã chống lại chúng. Tôi nghĩ rằng chúng là kẻ xấu.
Tácdăng cảm ơn cô gái và hứa rằng sẽ thận trọng đề phòng. Kết thúc vũ điệu, cô gái rời khỏi phòng, bước ra sân. Nhưng Tácdăng vẫn ngồi trong quán mặc dù đã được mách bảo
Quán cà phê yên tĩnh một lát rồi đột nhiên một người Ả rập mặt mũi dữ tợn bước vào. Hắn dừng lại bên cạnh Tácdăng và xổ ra hàng tràng tiếng Ả rập. Tácdăng chẳng hiểu hắn nói gì. Apđula phải phiên dịch lại.
- Gã đàn ông này đang cố khiêu khích ngài - Apđula nói với Tácdăng, - Gã ta không phải chỉ có một mình đâu. Tôi tin là sẽ xảy ra chuyện dữ. Không khéo cả phòng này sẽ đứng dậy chống lại ngài. Tốt nhất là ta lặng lẽ rút lui thôi thưa ngài!
- Hỏi hộ tôi xem người này muốn gì! - Tácdăng nói.
- Hắn nói rằng ngài là một con chó Giatô giáo đã cả gan xúc phạm tới một vũ nữ của hắn.
- Hãy nói cho hắn biết rằng tôi chẳng hề xúc phạm vũ nữ nào, cũng chẳng đụng chạm gì tới hắn. Tôi muốn hắn đi chỗ khác, đừng quấy rầy tôi thêm nữa. Tôi không muốn dây vào hắn và cũng chẳng muốn nói chuyện với ai.
Apđula quay sang nói với gã đàn ông một lúc rồi dịch cho Tácdăng:
- Hắn nói rằng ngài là một con chó đực, mẹ ngài là giống chó sói. Hắn còn bảo ngài là một kẻ dối trá.
Cuộc chửi bới thu hút sự chú ý của tất cả khách trong quán. Những câu nguyền rủa bằng tiếng Ả rập được khích lệ bằng tiếng cười rộ của cả phòng. Tình thế rất bất lợi! Bởi vì nghe qua tiếng cười là biết người trong phòng nhảy ủng hộ phía nào.
Lâu nay, Tácdăng rất dễ nổi cáu khi có ai đó cười nhạo mình, nhất là khi chàng lại không hiểu gã Ả rập nói gì, nhất là khi chàng lại không hiểu gã Ả rập nói gì. Tuy vậy chàng vẫn chưa tỏ ra giận dữ khi đứng dậy. Trên môi chàng chợt thoáng một nụ cười khó hiểu. Nhưng đột nhiên bàn tay chàng xiết lại. Một quả đấm giáng thẳng vào cái mồm cười nhăn nhở của gã Ả rập. Gã này lăn quay ra đất. Ngay tức khắc, từ đường phố tràn vào một đám người Ả rập. Dường như đám người này đã ở sẵn bên ngoài, chỉ chờ lệnh để xông vào phòng.
"Giết chết kẻ vô đạo! Con chó Giatô xéo đi!". Cùng với tiếng thét, bọn họ xông vào Tácdăng. Bốn năm người Ả rập đang ngồi trong quán cũng đứng dậy tham gia tấn công.
Tácdăng và Apđula bị dồn vào góc phòng. Người hầu trẻ tuổi trung thành của vị khách du lịch là Apđula cũng rút gươm chiến đấu cùng Tácdăng. Những quả đấm thôi sơn của Tácdăng lần lượt quật ngã tất cả những kẻ cả gan tiến vào tầm tay của chàng. Chàng chiến đấu một cách bình tĩnh, không nói một lời, chỉ thỉnh thoảng nhếch môi cười với Apđula.
Cứ mỗi lúc Tácdăng lại cảm thấy bất lực. Gần như chàng và Apđula không thể nào thoát ra khỏi những vòng gươm sáng loáng và những lưỡi kiếm đang huơ lên tua tủa khắp phòng. Đối thủ của hai người quá đông. Nhưng chính vì vậy mà sức tấn công của họ bị hạn chế. Đám người vòng trong vòng ngoài chen vai nhau tiến công Tácdăng và Apđula. Mặc dù có đủ các loại vũ khí, những người này vẫn không biết phải dùng loại nào cho thích hợp. Họ cũng không dám rút súng vì sợ bắn phải đồng đội.
Cuối cùng, Tácdăng đánh gục một tên cao to, điên khùng nhất. Chàng nhanh tay tước luôn vũ khí rồi cùng Apđula vừa chống trả, vừa giật lùi ra cửa sau. Ra tới bậc cửa, chàng dừng lại một lát, nâng bổng một gã Ả rập lên đầu rồi ném thẳng vào mặt những kẻ đang xông lên. Không kịp nhìn kết quả của cú ném, chàng kéo tay Apđula chạy thẳng ra sân rồi lẩn vào bóng tối. Lúc này đám vũ nữ hoảng hốt chạy dồn lên những bậc cầu thang cao nhất. Ở đó, những ngọn nến gầy guộc đang tỏa ánh sáng lờ mờ vào những bậc cửa phòng ngủ tối tăm của họ.
Vừa thoát ra khỏi phòng, hai người đã nghe thấy từ cầu thang sau lưng mình vang lên tiếng súng ngắn. Khi quay lại để cản bước tiến công của kẻ thù, họ vấp phải hai gã cầm súng đang hừng hực lao lên. Tácdăng nhảy bổ vào một gã. Trong nháy mắt, gã cầm súng đã rơi xuống sân, làm tung lên một đám bụi. Gã bị tước súng, cổ tay bị gẫy, nằm kêu rên ầm ĩ. Trong lúc đó, gã thứ hai dí súng vào Apđula. Nhưng thật bất ngờ là khẩu súng bị tắc đạn. Gã bị Apđula hạ gục bằng một mũi dao găm.
Đám đông trong quán lại tràn ra ngoài, truy đuổi theo hai người trẻ tuổi. Lúc này ngoài sân tối đen như mực. Cửa quán cà phê chỉ hơi hé mở. Vì vậy ánh sáng từ trong phòng hắt ra ngoài rất yếu ớt. Tácdăng lột thanh gươm của gã đàn ông vừa bị Apđula hạ gục, đứng thủ thế, chờ kẻ thù.
Bỗng Tácdăng cảm thấy bờ vai mình có bàn tay nào đó chạm phải và nghe thấy giọng con gái thì thào:
- Nhanh lên ngài! Chạy lối này, theo tôi!
- Đi thôi, Apđula! - Tácdăng giục người bạn trẻ của mình - Chỗ này rất bất lợi.
Cô gái dẫn hai người chạy lên một cầu thang hẹp, dẫn thẳng vào phòng cô. Tácdăng chạy sát bên cô. Chàng nhìn thấy chiếc vòng tiền vàng sáng lấp lánh trang điểm trên đầu và cả trên váy áo. Chàng nhận ra đây chính là cô vũ nữ đã báo động cho mình lúc trước.
Khi đã leo lên đến đỉnh cầu thang, ba người vẫn nghe thấy tiếng la thét của những người truy đuổi phía dưới sân.
- Họ sẽ lên đây đấy - Cô gái thì thào - Đừng để họ phát hiện thấy các ngài ở đây. Dù các ngài có chiến đấu thì hai người cũng không thể thắng cả một đám thế kia, sẽ bị họ giết chết mất. Các ngài có thể nhảy qua cửa sổ phòng tôi xuống dưới đường phố. Nhanh lên!
Vũ nữ vừa nói xong, đã nghe thấy tiếng chân rầm rập trên cầu thang. Có tiếng kêu của ai đó vang lên. Rõ ràng là Tácdăng và Apđula đã bị phát hiện. Đám người dưới sân ngửa mặt lên nhìn rồi ào ào chạy lên cầu thang.
Kẻ chạy lên đầu tiên đã vấp phải mũi gươm của Tácdăng chờ sẵn. Gã thét lên đau đớn rồi ngã vật, rơi xuống tốp người phía dưới. Trong phút chốc cả tốp ngã lăn xuống như những chiếc thùng tôn ô.
Chiếc cầu thang cũ, ọp ẹp không chịu nổi sức nặng và độ rung của đám đông hiếu chiến. Một tiếng "rắc" vang lên chậm chạp. Chiếc cầu thang gỗ như giận dữ nghiến răng rồi đổ sầm xuống đất. Trong khi đó Tácdăng, Apđula và vũ nữ đứng trên cao nhìn xuống chưa hết ngạc nhiên.
- Nhanh lên! - Cô vũ nữ lại giục - Họ sẽ chạy lên bằng cầu thang bên kia. Đừng để mất thời gian!
Khi ba người chạy vào phòng, Apđula đã nghe thấy tiếng người dưới sân gọi nhau nháo nhác. Họ gọi nhau chạy ra đường phố.
- Thế là chúng ta bị chặn đường rồi! - Nghe tiếng người dưới sân, cô gái kêu lên tuyệt vọng.
- Thế nào? Chúng ta... cả cô nữa?
- Vâng, thưa ngài! - Cô gái thở dài, đau khổ - Họ sẽ giết các ngài và cả em nữa!
Tiếng nói của vũ nữ làm Tácdăng sực tỉnh. Hóa ra từ nãy tới giờ chàng vui thích vì cuộc chiến đấu đầy phiêu lưu, lý thú mà quên mất rằng Apđula và cô gái đang bị cái chết đe dọa thực sự. Chàng rút lui chỉ vì nghe theo lời hai người và vì để bảo vệ hai người. Còn nếu như chàng chỉ có một mình thì cũng như từ xưa đến nay, chàng không bao giờ lui một bước. Chàng có thể nhảy bổ vào giữa đám người hiếu chiến kia mà tung hoành với sức mạnh rừng xanh của mình. Còn bây giờ, lời cô gái đã buộc chàng phải nghĩ lại. Chàng phải có trách nhiệm trước sự sống và hai người bạn Ả rập trung thành này.
Nghĩ vậy, Tácdăng nhảy lên bậc cửa sổ, vươn người ra ngoài quan sát. Nhưng chàng không nhìn thấy gì phía dưới đất. Rất may chàng phát hiện ra là mái nhà rất thấp. Chàng gọi cô gái lại gần rồi bế cô lên, vắt úp lên vai.
- Chờ ở đây! Tôi sẽ quay lại với cậu - Tácdăng quay sang nói với Apđula - Kéo tất cả các thứ trong phòng để chặn cửa ra vào. Như thế có thể kìm giữ được chúng.
"Bám cho chắc!" - Tácdăng nhắc cô gái rồi từ bậc cửa sổ leo lên mái nhà, nhẹ nhàng, khéo léo như một... con đười ươi.
Sau khi đặt vũ nữ xuống một chỗ kín đáo, an toàn. Tácdăng quay trở lại bằng cách đánh đu từng đoạn dọc theo riềm mái che. Chàng trai Ả rập chạy tới cửa sổ.
- Đưa tay đây! - Tácdăng thì thào.
Đám người đuổi theo họ đã chạy tới cửa. Chỉ một lát sau, cánh cửa bị đập bung ra. Cũng đúng lúc ấy Apđula cảm thấy mình được tung lên cao, nhẹ bỗng như một quả cầu. Trong chớp mắt, chàng đã thấy mình ngồi trên mái nhà. Đám người ấy ào vào phòng vũ nữ. Dưới đất, số còn lại đã tràn ra đường, tụ tập phía dưới cửa sổ, ngửa mặt nhìn lên.
Cuộc chiến trên sa mạc Ngồi trên mái nhà, ba người nghe thấy tiếng những người Ả rập cãi nhau om sòm trong căn phòng của vũ nữ. Apđula dịch cho Tácdăng.
- Chúng cãi nhau với những người phục kích dưới đường phố. Bọn trên cao nói rằng bọn ở dưới đã để chúng ta trốn thoát. Còn bọn ở dưới thì lại quả quyết là chúng ta chưa xuống, đang còn ở đâu đó trong nhà. Lũ trên cao là những kẻ hèn nhát không chịu tìm kiếm kỹ. Chúng bắt đầu dọa đánh nhau vì cả hai nhóm đều bị xúc phạm.
Cuối cùng đám người trong nhà đã thôi lùng sục, lục tục kéo nhau xuống quán cà phê. Một vài gã đàn ông phía dưới vẫn cầm vũ khí trên đường phố và tiếp tục tranh cãi.
Tácdăng cảm ơn cô gái, vì cô đã xả thân cho sự sống của một người đàn ông hoàn toàn xa lạ như chàng.
- Em thích anh! - Cô vũ nữ ngắt lời Tácdăng một cách tự nhiên - Anh không giống những khách lạ lâu nay. Anh không nói với em một cách thô bỉ. Ngay cả cái cách anh cho tiền em cũng không có vẻ ban ơn, bố thí.
- Thế thì đêm nay em sẽ tính sao? - Tácdăng lo lắng hỏi - Em không thể quay về quán cà phê được nữa. Và nói chung, cũng không thể ở lại Siđi Aisa được nữa.
- Có thể ngày mai họ sẽ quên hết mọi chuyện - Cô gái trả lời - Nhưng em sẽ rất sung sướng nếu như không phải trở lại quán cà phê và cả thành phố Siđi Aisa này. Trong thâm tâm, em không muốn ở lại trong quán một giờ nào cả. Người ta đã đày đọa giam giữ em ở đó.
- Chúng đã giam em? - Tácdăng kêu lên.
- Em là nô lệ - Cô gái nói - Trong một đêm xưa, bọn cướp đã bắt cóc em khỏi nhà, lôi em đến đây và bán cho một người Ả rập. Người đó chính là chủ quán này. Đã hai năm rồi em không trông thấy mặt mẹ cha. Cha mẹ em sống ở miền Nam. Không bao giờ hai người đến Siđi Aisa.
- Em có muốn trở về nhà với cha mẹ không? - Tácdăng hỏi - Tôi hứa với em, sẽ đưa em về, ít nhất là tới Bu Sađi. Tôi sẽ bàn với vị chỉ huy quân đội ở đó để ông ta hộ tống em nốt quãng đường còn lại.
- Ôi, ân nhân của em! - Cô gái chắp tay lên ngực, kêu lên sung sướng - Em mãi mãi biết ơn anh! Mà em biết đền ơn anh thế nào? Có đúng là anh muốn giúp đỡ cô gái nhảy tội nghiệp này không? Cha em sẽ đền ơn anh. Cha em là một tộc trưởng có tiếng đấy. Ông tên là Kapđu Ip Sađin.
- Kapđu Ip Sađin? - Tácdăng ngạc nhiên - Thế là thế nào? À, thế thì hiện giờ ông ấy đang ở Siđi Aisa. Ông ấy vừa ăn cơm với tôi buổi trưa.
- Cha em đang ở Siđi Aisa? - Cô gái kêu lên sững sờ - Cám ơn Đức Ala! Tôi sẽ được cứu thoát.
- Im lặng! - Bỗng Apđula nhắc nhở - Các vị lắng nghe xem!
Phía dưới có tiếng nói vọng lên, mỗi lúc một rõ. Tácdăng ngơ ngác, nhưng Apđula và cô gái thì hiểu hết.
- Chúng đang chuẩn bị đi - người hầu trẻ tuổi nói - Chúng đi tìm ngài. Một đứa nói rằng, có một người nước ngoài đã cho tiền cả bọn. Người đó đang nằm trong nhà của Ahơmét Sulap, vì bị gãy tay. Người đó hứa sẽ thưởng nhiều tiền hơn, nếu cả bọn truy lùng trên đường đến Bu Sađi và giết được ngài. Đấy chính là gã đàn ông đã theo dõi ngài ở chợ. Tôi đã trông thấy hắn lần nữa trong quán cà phê. Hắn và một người nữa. Có thể hai đứa đã thỏa thuận với vũ nữ rồi lẩn vào bóng tối sân sau. Hình như đó chính là hai đứa đã lùa theo và bắn chúng ta khi chúng ta thoát khỏi quán cà phê tầng dưới. Vì sao chúng lại muốn giết ngài, thưa ngài?
- Tôi không biết! - Tácdăng trả lời - trừ khi... - Tácdăng không nói hết câu. Bởi vì ý nghĩ trong đầu chàng có vẻ chỉ là thuần túy tưởng tượng. Nhưng cũng chưa biết thế nào. Biết đâu nó lại có thể lý giải được nguyên do của toàn bộ câu chuyện xô xát vừa qua.
Một lúc sau, những kẻ truy tìm Tácdăng đã rời khỏi mặt phố dưới cửa sổ. Cả khoảng sân lẫn quán cà phê bỗng trở nên vắng ngắt. Tácdăng tụt xuống cửa sổ phòng cô gái. Căn phòng không một bóng người. Chàng quay lại mái nhà để đưa Apđula và cô con gái tộc trưởng xuống dưới. Apđula từ cửa sổ nhảy xuống hành lang một mình. Trong khi đó Tácdăng ôm cô gái vào lòng rồi nhảy lên bậc cửa sổ. Chàng chuyển cô lên vai và nhún chân nhảy xuống mặt đường phố. Cái cơ thể mềm mại, nằng nặng trên vai khiến chàng nhớ lại cái cảm giác đã trải qua một lần trong rừng già khi xưa. Cô gái trên vai chàng buột miệng kêu lên một tiếng hoảng hốt. Nhưng tiếng kêu chưa dứt, chuyến bay của cô đã hạ cánh an toàn. Tácdăng nhẹ nhàng đặt hai chân cô xuống mặt đất.
- Anh khỏe và khéo quá! Vũ nữ kêu lên sung sướng - Cả đến sư tử đen Atrê cũng không sánh được với anh đâu!
- Tôi rất muốn biết con Atrê của em! - Tácdăng nói - Đến vùng đất này tôi đã nghe nói nhiều về giống Atrê.
- Khi nào anh đến quê em, anh sẽ biết - Cô gái trả lời - Atrê sống ở những khu rừng rậm phía bắc. Vào ban đêm nó thường ra khỏi hang ổ và đi kiếm mồi trên các cánh đồng nuôi gia súc của cha em. Nó chỉ cần há mồm đớp một cái là có thể quật ngã một con bò đực hoặc một người thợ săn mất cảnh giác.
Mải chuyện trò, mấy người đi không biết mệt. Chẳng mấy chốc họ đã tới khách sạn. Ông chủ khách sạn định để tới sáng mới cho đi tìm tộc trưởng Kapđu. Ông đang dở giấc. Nhưng một nắm tiền lẻ đã làm ông hết ngái ngủ. Ngay lập tức, một nhân viên trong khách sạn lên đường. Tácdăng muốn tìm ngay tộc trưởng trong đêm. Chàng sợ rằng Kapđu Ip Sađin dậy sớm, ra khỏi nhà thì khó lòng tìm được. Nửa tiếng đồng hồ sau, Tácdăng đã thấy anh ta dẫn vị tộc trưởng trở về. Ông già bước vào cửa với khuôn mặt vừa trang trọng vừa cảm động.
- Ngài tốt với tôi đến thế ử? - Ông già kêu lên. Cùng ngay lúc đó, ông đã nhìn thấy cô gái. Dang rộng hai tay như con đại bàng xòe cánh, ông ào vào đứa con gái tội nghiệp của mình.
- Con, con gái của cha! Thánh Ala thật nhân từ! - Ông nghẹn ngào, ứa hai hàng nước mắt.
Nghe xong câu chuyện phiêu lưu, nguy hiểm trong quán cà phê, ông tộc trưởng già chìa tay cho Tácdăng, nói:
- Tất cả những gì của Kapđu Ip Sađin là thuộc về ngài. Tất cả, thưa ngài! Kể cả sự sống của hắn.
Lúc này, đêm đã ngả về sáng. Mọi người quyết định không ngủ tiếp mà chuẩn bị lên đường. Bốn người: Tácdăng, Apđula và cha con tộc trưởng phải đến được Bu Sađi ngay trong ngày hôm ấy. Đối với đàn ông, cuộc hành trình như thế chẳng phải nặng nhọc. Nhưng đối với cô gái thì lại là một vấn đề nan giải. Tuy vậy, vừa nghe xong quyết định của mọi người, cô gái đã hào hứng đứng dậy. Cô chỉ mong có cánh để bay ngay về gặp mẹ, gặp gia đình, bè bạn - những người cô không thấy bóng suốt hai năm nay.
Tácdăng có cảm giác rằng mình mới chợp mắt được một tý đã phải dậy. Một giờ sau đoàn người đã lên đường đi Bu Sađi. Chặng đường đầu của cuộc hành trình là những đại lộ bằng phẳng. Sau đó mọi người phải đi trên những đoạn đường đầy ổ gà. Được một quãng, đoàn người cứ mỗi lúc một chậm lại. Trước mặt và ngay dưới chân họ đã là những núi cát nhấp nhô trùng trùng điệp điệp. Những con ngựa của họ uể oải rút từng bước chân khỏi lớp cát lỏng. Thỉnh thoàng chúng lại bị ngã và mỗi lúc một trở nên đần độn, khó bảo. Ngoài Tácdăng, Apđula, tộc trưởng và cô con gái, đoàn còn có bốn kỵ sĩ với nhiệm vụ hộ tống tộc trưởng đến Siđi Aisa. Bảy người đàn ông trong đoàn trang bị vũ khí đầy đủ. Họ không sợ bị tấn công vào ban ngày. Nếu mọi việc diễn ra trơn tru, không có gì trở ngại, họ có thể xuyên qua đêm tối mà tới đích.
Chợt một đợt gió lớn nổi lên. Đoàn người bị trùm trong sóng cát. Môi Tácdăng bị khổ và bắt đầu sưng lên vì nẻ. Bốn phía chẳng có gì để nhìn cho khuây khỏa. Những thung lũng cát bao la nằm giữa những núi cát cũng chỉ nhô lên lác đác vài bụi cây khô khỏng. Cách đó không xa về phía nam là bóng dáng mờ nhạt của dải sa mạc Sahara hoang vắng. Tácdăng cảm thấy chán chường. Tất cả đều khác xa những cánh rừng già tuyệt vời, nơi chuàng đã sống suốt một thời thơ ấu!
Dọc đường đi, Apđula không một chút lơ là cảnh giác. Anh ta vừa đi vừa nhìn trước, nhìn sau. Cứ mỗi lần leo lên đến đỉnh núi cát cao cao một chút là Apđula lại tụt khỏi lưng ngựa, đứng nín thở nghe ngóng bốn phía. Và anh ta làm việc đó không thừa thãi chút nào.
- Nhìn kìa! - Chàng trai kêu lên - Sau lưng chúng ta có sáu người cưỡi ngựa.
- Chắc đó là những "ông bạn" quý hóa đã tiếp cậu và khách của chúng ta bằng gươm tối qua.
- Đúng rồi, - Tácdăng khẳng định - Tôi sẽ rất buồn nếu như sự có mặt của tôi trở thành nguy cơ đe dọa số phận của các bạn. Đi đến một làng nào đó, tôi sẽ dừng lại chờ chúng. Tôi sẽ hỏi xem chúng định làm gì. Trong khi đó thì các bạn cứ tiếp tục đi, đừng chờ tôi! Tôi không cần phải đến Bu Sađi ngay trong đêm nay. Như thế, các bạn có thể tiếp tục cuộc hành trình.
- Nếu như ngài dừng lại thì chúng tôi cũng sẽ không đi - Vị tộc trưởng nói - Chúng tôi sẽ mãi mãi ở bên ngài chừng nào ngài vẫn là bạn của chúng tôi hoặc chừng nào lũ người đó vẫn bám theo chúng ta. Đừng nói gì thêm nữa.
Tácdăng chỉ còn biết gật đầu. Chàng hiểu rằng tộc trưởng đã quyết và chàng không thích nói nhiều. Thấy chàng gật đầu, tộc trưởng ôm lấy chàng, hôn một cái thật mạnh.
Trên đường đi, cho đến hết ngày, Apđula vẫn tiếp tục quan sát tốp người phía sau. Tốp người đó vẫn phóng ngựa cầm chừng, giữ một khoảng cách đủ để trông thấy. Ngay cả khi đoàn người của tộc trưởng dừng lại nghỉ, tốp người đó cũng dừng lại nghỉ theo.
- Chúng chờ tối đấy - Tộc trưởng phán đoán.
Bóng đêm đã bắt đầu tràn xuống sa mạc. Apđula nhìn quanh. Tốp sáu tên cưỡi ngựa đều mặc đồ trắng. Trong bóng tối, màu áo trắng lẫn vào biển cát, rất khó nhận ra. Cả sáu tên đều nhìn đoàn người của tộc trưởng một cách thèm khát. Cứ mỗi lúc, bọn chúng lại tiến lại gần, và dường như có ý định tấn công. Người hầu ghé ngựa lại gần Tácdăng để nhắc chàng cảnh giác. Anh nói rất nhỏ để con gái tộc trưởng không nghe thấy. Anh không muốn cô gái giật mình, sợ hãi. Tácdăng bắt đầu đi chậm lại.
- Cậu cứ tiến lên phía trước với mọi người đi! - Tácdăng nói với Apđula - Tôi chờ chỗ nào thuận lợi nhất để tính chuyện với chúng.
- Apđula này sẽ ở lại cùng ngài - Chàng trai Ả rập đáp. Giọng nói của chàng rất thản nhiên. Tácdăng hiểu rằng mọi đe doa lẫn mệnh lệnh lúc này đều không thể thay đổi được quyết định của chàng người hầu nữa.
- Thôi, thế cũng được - Tácdăng gật đầu - Chính đây là chỗ thuận lợi nhất. Trên đỉnh dốc có một vài vách đá. Chúng ta sẽ nấp ở đó đón chúng tới.
Hai người kìm cương ngựa, nhảy xuống. Những người phía trước vẫn không biết gì, tiếp tục giục ngựa đi nhanh. Chỉ lát sau họ đã lẫn vào bóng tối. Từ phía xa, quầng sáng của thành phố Bu Sađi đã hiện ra. Tácdăng tháo súng trường và mở chốt súng ngắn. Sau đó chàng ra hiệu cho người hầu dắt ngựa lánh vào vách đá để tránh đạn. Chàng trai Ả rập tỏ ra nghe lời, dắt ngựa đi ngay. Nhưng sau khi cột hai con ngựa vào một bụi cây trong hẻm núi, Apđula lại rón rén quay trở ra, nằm áp ngực xuống cát, cách ông chủ của mình chỉ vài bước chân.
Tácdăng đứng ngay giữa đường chờ kẻ thù. Quả nhiên chàng không phải chờ lâu. Từ đâu đó trong bóng tối đã vang lên tiếng vó ngựa dồn dập và chỉ lát sau hiện ra thấp thoáng bóng bọn chúng.
- Đứng lại! Nếu không tôi bắn - Tácdăng ra lệnh.
Bọn này dừng lại. Chúng bàn bạc với nhau gì đó rồi nhanh chóng chạy tản ra bốn phía. Trong chốc lát, trước mặt Tácdăng chỉ còn những khoảng trống mênh mông của sa mạc chết. Sự yên tĩnh đột ngột là dấu hiệu của tử thần đang rình rập.
Apđula từ từ nhổm người lên. Tácdăng áp tai xuống cát nghe ngóng. Bỗng tiếng vó ngựa từ bốn phía vang lên. Hai người đã bị bao vây. Trước mặt Tácdăng một tiếng súng vang lên. Viên đạn sượt qua tóc chàng. Trong chốc lát, cả sa mạc đang ngủ yên đã bừng thức giấc vì tiếng súng chát chúa. Tácdăng và Apđula gần như chỉ bắn uy hiếp. Bở vì hai người không trông thấy bóng kẻ thù đâu cả. Và hình như vòng vây của chúng cứ mỗi lúc một siết chặt lại. Chúng đã ý thức rõ rằng chúng đang có lợi thế. Một tên tiến lại gần tầm súng của Tácdăng. Nhờ khả năng định hướng trong bóng tối rất tốt, Tácdăng giương súng bóp cò. Một tiếng kêu ré lên ngay sau phát súng. Tên này ngã vật khỏi yên ngựa.
- Bóng tối là chiến hữu của chúng ta - Tácdăng mỉm cười, nói nhỏ. Nhưng tình thế mỗi lúc lại bất lợi cho hai người. Khi bọn còn lại mở đợt tấn công thứ hai, Apđula cảm thấy cuộc đụng đọ có thể kết thúc bằng cái chết của mình và cả vị khách hộ pháp nữa. Ngay lúc đó, Tácdăng kéo Apđula nhảy vào khe đá để đối mặt với kẻ thù. Tiếng chân ngưa lạo xạo trong cát và tiếng súng lại vang lên từ hai phía. Đám kỵ sĩ Ả rập đang lùi ra xa để chuẩn bị một trận tấn công quyết định.
Bỗng nhiên tiếng súng im bặt. Tácdăng không đoán được kẻ thù đã chấp nhận thất bại hay đang nấp ở một nơi nào đó trên con đường dẫn tới Bu Sađi. Chàng còn đang băn khoăn thì lại nghe thấy tiếng súng rộ lên. Chưa kịp phát hiện ra trước mặt có gì, chàng đã thấy cả bốn bóng ngựa vụt qua vách đá. Chúng vừa phi nước đại, vừa bắn loạn xạ vào không trung rồi vùn vụt lao về Siđi Aisa.
Một lúc sau tộc trưởng Kapđu gặp lại hai người bạn của mình. Ông già thở phào nhẹ nhõm, vì cả Tácdăng và Apđula không bị một vết xước. Cả hai con ngựa cũng không hề bị thương. Ông già cùng Tácdăng đi tìm hai tên Ả rập bị trúng đạn, đang nằm đâu đó trên cát.
- Tại sao ngài không nói cho tôi biết rằng ngài quyết định lùi lại để đón lũ này? - Tộc trưởng hỏi Tácdăng với một giọng rất không bằng lòng - Nếu như cả bảy người chúng ta cùng dừng lại, có thể chúng ta đã thanh toán gọn bọn chúng.
- Tôi nghĩ như thế thì hơi thừa - Tácdăng trả lời - nếu như chúng ta cứ mải miết tiến thẳng đến Bu Sađi thì sớm muộn chúng cũng tấn công và tất cả mọi người buộc phải chống cự. Hơn nữa, tôi không muốn bất kỳ một người nào khác bị liên lụy vào cái chuyện rắc rối của riêng tôi. Lại chưa nói tới con gái của ngài nữa. Tôi không muốn cô ấy thành tấm bia cho sáu tên giặc cỏ ấy.
Tộc trưởng Kapđu nhún vai, bực bội vì bị đuối lý. Rõ ràng là ông không thích mình bị gạt ra rìa những chuyện trận mạc.
Cuộc đọ súng trên sa mạc đã vọng đến tai đơn vị quân đội sở tại ở Bu Sađi. Tácdăng và bạn bè của chàng trong đoàn đã gặp ngay tốp lính trực chiến ở cổng thành. Viên sĩ quan chỉ huy ra hiệu cho cả đoàn dừng lại để hỏi nguyên do của trận bắn nhau.
- Đó là mấy tên cướp - Tộc trưởng Kapđu trả lời - Hai người trong đoàn chúng tôi đi chậm nên bị chúng tấn công, đến khi chúng tôi quay lại cứu thì chúng chạy mất, chả rõ hướng nào. Hai tên cướp trúng đạn đã tắt thở. Còn chúng tôi không ai bị thương.
Hình như viên sĩ quan đã bằng lòng với kiểu giải thích của tộc trưởng. Anh ta ghi tên tắt của những người trong đoàn rồi dẫn lính của mình ra sa mạc tìm kiếm và xác định xem hai tên bị chết là ai.
Hai ngày sau, tộc trưởng Kapđu cùng con gái chuẩn bị lên đường. Họ sẽ vượt qua mấy chiếc đèo dài nằm kề dưới thành Bu Sađi, đi về phía Nam. Quê hương họ nằm đâu đó rất sâu trong sa mạc. Ông già Kapđu thuyết phục Tácdăng đi cùng ông về quê. Cô gái cũng tha thiết xin Tácdăng giúp đỡ nốt quãng đường còn lại. Nhưng Tácdăng phải từ chối. Chàng không thể giải thích cho họ hiểu rằng nhiệm vụ của chàng buộc chàng phải nhanh chóng rời khỏi thành phố. Tuy nhiên, chàng vẫn hứa rằng khi có dịp thuận tiện, thế nào chàng cũng đến thăm gia đình tộc trưởng.
Hầu như suốt thời gian còn lại trước lúc đoàn lên đường, lúc nào Tácdăng cũng ở bên hai cha con tộc trưởng. Những người Ả rập thượng võ này đã hấp dẫn chàng. Chàng muốn tận dụng quan hệ bạn bè với tộc trưởng để làm quen và tìm hiểu phong tục, tập quán Ả rập. Nhờ sự giúp đỡ hết mình của cô gái mắt nâu, chàng học được khá nhiều tiếng Ả rập. Trong thâm tâm, chàng cảm thấy luyến tiếc khi phải tạm biệt họ. Khi tiễn họ đến lưng đèo, chàng ngồi trên yên ngựa nhìn theo cho tới khi bóng họ nhòa đi trong biển cát mênh mông.
Tácdăng cảm thấy cha con tộc trưởng là những người rất gần với trái tim khao khát của chàng. Cuộc sống khắc nghiệt và phóng túng của họ đầy những chuyện nguy hiểm, phiêu lưu. Những tai ương, bất hạnh của họ mấy ngày qua chung quy cũng chỉ vì chàng - một người bán khai về mặt văn minh, một người đang bị ràng buộc vào xã hội loài người bởi những ước lệ giả tạo của đời sống thị dân và bởi một mối tình vô vọng. Cuộc sống Pari và những thành phố đo hội khác đều có vẻ thù địch với chàng. Còn ở đây, mấy ngày qua, chàng đã sống bên những con người trung thực. Không nói với họ được nhiều, nhưng chàng cảm thấy lúc nào cũng hiểu họ và kính trọng họ. Họ rất gần gũi với cuộc sống của chàng ở chốn rừng xanh.
Với những suy tư buồn bã đó, Tácdăng dự định khi nào hoàn thành nhiệm vụ, chàng sẽ quay lại đây. Quãng đời còn lại, chàng sẽ sống với những người thuộc bộ lạc của tộc trưởng Kapđu.
Tácdăng gò cương ngựa, quay về Bu Sađi. Chàng thuê phòng ở tầng trệt của khách sạn Pơtit Sahara. Cùng tầng này còn có hai phòng ăn, một quán rượu và một nhà bếp lớn. Hai phòng ăn nối liền với quán rượu bằng một cửa ra vào. Một phòng ăn được giành riêng cho các sĩ quan của quân đội thường trực địa phương.
Khi Tácdăng bước vào cửa, khách trong khách sạn đang ăn sáng. Vô tình chàng đảo mắt nhìn sang phòng ăn sĩ quan. Chợt chàng cảm thây có khuôn mặt nào đó thu hút sự chú ý của mình. Chàng nhận ra trung úy Giơnoa đang ngồi ở đó. Chính vào lúc ấy thì có một người Ả rập bước vào, tiến đến bên cạnh Giơnoa. Người đàn ông Ả rập mặc đồ trắng đó thì thầm vài câu vào tai Giơnoa, sau đó ra khỏi phòng và rời khỏi khách sạn.
Mọi chuyện nếu chỉ dừng ở đó thì chẳng có gì đang nói nữa. Nhưng điều đáng chú ý là, khi người Ả rập ấy nói xong, sắp sửa bước đi, thì bỗng nhiên Tácdăng trông thấy thấp thoáng được tấm áo choàng, cánh tay trái của gã được treo lên bằng một dải băng cứu thương cũng màu trắng.