guồn gốc của thể chế “quan liêu (công chức) chỉ đạo” Vấn đề chính trị lớn hiện nay là giảm bớt quy chế. Nội các Hashimoto Ryutaro [1] đã lấy việc giảm bớt quy chế làm công tác chính trị lớn nhất của mình. Song việc này không dễ dàng. Nguyên lai, vấn đề giảm bớt quy chế và cải cách hành chính vốn đã do nội các Suzuki Zenko, [2] ra đời tháng 7 năm 1980, đề xướng ra. Tới nay (1998) đã được 18 năm. Nhất là nội các Nakasone Yasuhiro, [3] ra đời sau nội các Suzuki, tự xưng là “nội các cải cách hành chính”, đã lập ra Ủy ban lâm thời cải cách hành chính [4] Doko, với quyết tâm cải cách hành chính, giảm bớt quy chế và chia quyền cho địa phương. Chính phủ đã đạt được ít nhiều thành quả tốt. Chẳng hạn, Hệ thống Ðường Sắt Quốc Doanh đã được phân thành 7 công ty và chuyển sang dân doanh. Tổng Công ty điện tín điện thoại Nhật Bản và Tổng Công ty bán độc quyền thì biến thành các công ty dân doanh, thứ tự gọi là Công Ty NTT và Công Ty JT [5]. Xét cái hoàn cảnh lúc đó, thì việc cải cách như vậy là mạnh bạo. Song, cơ quan hành chính chủ chốt, tức là các bộ sở trung ương cùng các cơ quan hành chính địa phương, thì không thể mó tay tới được tí nào cả. Không phải chỉ có thế. Các bộ sở đã tăng số lượng quy chế, thể lệ về chứng nhận và cho phép lên từ con số 9.600 ở thời điểm nội các Nakasone mới thành lập, tới 19.000 vào cuối năm 1995. Nghĩa là trong vòng mười năm, mặc dù có sự hô hào la lối “giảm bớt quy chế, giảm bớt thể lệ”, song thực tế là quy chế, thể lệ cứ mỗi ngày một tăng thêm. Tại sao như vậy? Nói trắng ra là vì hàng ngũ quan liêu (công chức) quá mạnh, và số người lệ thuộc vào hàng ngũ quan liêu này lại quá đông. Mỗi bộ sở của chính phủ đều có những ngành nghề kinh doanh bám vào đó, sống đèo bòng vào đó. Trong đám đèo bòng này, có rất nhiều người kinh doanh, nhiều doanh nghiệp lúc nào cũng chỉ trông chờ sự chỉ đạo, sự chỉ bảo của “quan trên”. Thế rồi, dân gian cũng coi việc làm như thế là đương nhiên. Ở nước Nhật, ngay lúc này cũng còn có rất nhiều người suy nghĩ rằng, nếu không có quan trên chỉ đạo, quan trên quy định cho, thì mỗi việc đều bị lộn xộn hết. Cái xu hướng, cái thể chất quan liêu chỉ đạo này đã hình thành bao giờ và hình thành như thế nào? Nếu ngược dòng lịch sử, người ta sẽ đụng tới Chính phủ Minh Trị. Thế rồi, nói đến nhân vật đứng ở trung tâm của việc lập ra chế độ quan liêu này của Chính phủ Minh Trị, người ta ắt phải nói tới Okubo Toshimichi. Trước khi xét vai trò của bậc nguyên huân Okubo Toshimichi này của thời Minh Trị, cần suy nghĩ xem tại sao Nhật Bản lại có nhiều quy chế, nhiều thể lệ như vậy. Tại sao sự chỉ đạo của quan liêu lại không bị đánh đổ. Nghĩ như vậy, người ta sẽ thấy có hai mặt. Trước nhất là ý thức êlít [6] và tinh thần trách nhiệm mãnh liệt của đám quan liêu. Họ nghĩ rằng: “bọn ta không chỉ đạo thì nước Nhật non nớt này không thể đứng dậy bước đi nổi”. Chính vì vậy mà ở Nhật Bản, quan liêu làm việc rất nhiệt tâm và đầy kiêu hãnh. Nhưng mặt khác, không thể bỏ qua sự thật là ngay hiện nay cũng vẫn còn tồn tại tư tưởng coi dân là ngu, coi “dân sự chẳng bao giờ làm được gì ra hồn cả”. Chẳng hạn, một thí dụ trong việc nới bỏ quy chế, là đề nghị hãy thử cho phép mở những cây xăng tự phục vụ. Ở nhiều nước trên thế giới, việc biến các cây xăng thành hình thức tự phục vụ đã được phổ biến, nhưng ở Nhật Bản thì việc này hãy còn bị cấm [7]. Nếu để cho cây xăng trở thành tự phục vụ, thì mỗi lít xăng có thể rẻ đi vài Yen. Vậy mà tại sao ở ngoại quốc có mà ở Nhật Bản lại không có những cây xăng tự phục vụ? Ðó là vì các quan ngại rằng: “Nếu để cho cây xăng tự phục vụ, có kẻ sẽ gây ra hỏa hoạn”. Thế nhưng, ở Âu Mỹ cũng như ở châu Á, cây xăng tự phục vụ đâu có gây ra hỏa hoạn? Vậy mà khi hỏi: “Tại sao nghĩ rằng chỉ ở Nhật Bản mới xảy ra hỏa hoạn?” Thì các quan trả lời: “Người Âu Mỹ và người châu Á quen rồi, chứ người Nhật chưa quen, nên nguy hiểm”. Thật là câu trả lời coi thường người Nhật. Ấy thế mà khi nghe xong câu chuyện này, cũng đã có người phụ họa: “Chả nói gì chứ ở ngay gần nhà tôi cũng có cây xăng. Nói chung, nên để các quan kiểm tra dùm chứ không thì sợ lắm”. Cái ý thức quan trên như vậy đã thấm sâu vào mỗi lãnh vực. Người dân cũng vậy, hễ có chuyện gì xảy ra thì thế nào cũng có người nói: “Nhà nước làm gì?” “Nhà nước cần quản lý chặt chẽ hơn”. Tóm lại, đó là thái độ coi nhà nước là vạn năng, thái độ ỷ lại vào quan liêu. Ðó chính là chế độ do Okubo Toshimichi nghĩ ra vậy. Chế độ quan liêu (công chức) đã không thể thiếu được cho sự hiện đại hóa. Còn một mặt nữa, là sự hình thành và chức năng của cơ chế quan liêu. Phần lớn các bộ sở Nhật Bản đều tự hào là cơ quan nuôi dưỡng ra nhiều nhân tài, nhiều doanh nghiệp và thực hiện nhiều chức năng hiện đại. Không những chỉ nuôi dưỡng, mà đối với mỗi lãnh vực, họ còn hăng say trong công tác xây dựng thể chế cộng tác hài hòa, chỉ đạo hướng dẫn cho thông suốt các quy cách, các tiêu chuẩn. Nếu nhìn từ mặt trái của sự việc này, thì quy chế của cửa quan là ban cho giới doanh nghiệp cái lợi ích được bảo hộ chống lại sự cạnh tranh của kẻ mới nhập cuộc. Chính nhờ cơ chế đó, mà việc nới rộng quy chế bao giờ cũng bị giới chuyên gia và giới doanh nghiệp phản đối. Những lãnh vực mà quan liêu chỉ đạo mạnh mẽ nhất, là giáo dục, y tế, xây dựng, giao thông vận tải, truyền thông và an ninh. Những lãnh vực này chưa bao giờ bị phơi bày ra trước sự cạnh tranh quốc tế, cho nên sự đồng lõa của cơ quan công quyền và giới doanh nghiệp đã tạo ra tình trạng giá cả cao, phí tổn cao. Xe ôtô, hàng điện - điện tử đều là những ngành sản xuất phải cạnh tranh khốc liệt trên thương trường quốc tế, nhưng ở trong nước, thì họ lại được hưởng ân huệ không ít của quy chế về cơ chế lưu thông hàng hóa. Thế nhưng, hiện nay, cái đảm phụ về giá cả cao của các ngành nghề khác, mà họ phải gánh chịu thì ngày một lớn. Người ta thường nói: “Ở Nhật Bản, những ngành nghề bán hàng cạnh tranh ra nước ngoài có hối suất 1 đôla bằng 100 Yen, những ngành nghề được bảo hộ chống lại sự cạnh tranh quốc tế có hối suất 1 đôla bằng 200 Yen, và sau cùng là những ngành nghề không bị cạnh tranh ngay cả ở trong nước lại có hối suất 1 đôla bằng 360 Yen”. Chẳng hạn, phí thông hành (giá vé) trên các tuyến đường cao tốc so với nước ngoài thì rất cao. Dĩ nhiên là vì có sự khác nhau về giá cả đất đai, về địa hình địa vật phải khắc phục, song ngay cả với những nơi địa hình tương tự như ở Âu Mỹ, phí tổn xây dựng ở Nhật Bản cũng đắt khoảng gấp đôi. Lý do thường được nói tới từ lâu, là vì Nhật Bản có nhiều động đất, nên phải xây kiên cố hơn. Năm 1994, ngày 17 tháng 1, ở Los Angeles, Mỹ, có động đất lớn, làm đổ nhiều nhà cửa, cầu đường. Lúc đó, từ giới doanh nghiệp xây dựng cho tới cơ quan công quyền Nhật Bản, nơi nơi đều đồng thanh lên tiếng rằng, nhà cao tầng và đường cao tốc Nhật Bản được chú trọng đến tính an toàn nên nhất định không hề gì, khác với Mỹ coi ưu tiên sự thi công xây dựng ít tốn kém và nhanh. Thế nhưng, chỉ đúng một năm sau thôi, ngày 17 tháng 1 năm 1995, trận động đất lớn Hanshin - Awaji [8] đã xảy ra, và nhà đã đổ cũng như đường cao tốc bị phá hủy nhiều hơn ở bất cứ một nước nào khác. Dĩ nhiên, mức độ của trận động đất khác nhau, địa bàn xảy ra trận động đất khác nhau, nên khó có thể kết luận chính xác hậu quả được, nhưng có một điều chính xác: đó là lời tuyên bố của giới chức xây dựng rằng đường cao tốc Nhật Bản tuyệt đối an toàn, là sai lầm. Nghĩa là, mặc dầu giá cả xây dựng công cộng tương đối cao, song tính an toàn lại không cao lắm. Ngược lại, sở dĩ giá cả cao là vì giới xây dựng phen với nhau, ăn ý với nhau, đồng lõa với nhau nâng giá lên. Rồi, thủ tục rườm rà làm tốn tiền hơn. Thế thôi. Ở Nhật Bản, trong mỗi ngành nghề, ở mỗi lãnh vực, đều có những cơ chế khác nhau, mỗi cái đều tốn tiền cả. Những cơ chế như vậy, đã làm cho giới kinh doanh lớn lên, đồng thời làm cho quyền hạn của quan liêu mạnh lên. Trong giáo dục, y tế, giao thông vận tải cũng vậy, sự việc cũng tương tự hay có phần còn tệ hơn. Cái căn bản coi thường người tiêu dùng, coi trọng người cung cấp của giới quan liêu, đã hình thành từ thời Minh Trị. Chính phủ Minh Trị vì muốn hiện đại hóa gấp, nên một mặt đã lập ra nhiều cơ quan công quyền chuyên đào tạo ra nhà sản xuất, mặt khác đã lập ra Bộ Nội Vụ làm cơ quan công quyền có chức năng bảo vệ quần chúng (người tiêu dùng). Những người làm việc cho các cơ quan công quyền này đều được tuyển lựa qua kỳ thi, chứ không quan tâm gì đến lai lịch hoặc giai cấp xuất thân của họ. Người đã lập ra chế độ quan liêu như vậy, chính là Okubo Toshimichi vậy. Với ý nghĩa đó, người ta có thể nói không quá lời rằng những vấn đề phải đương đầu hiện nay, như sự giảm bớt quy chế, sự khác biệt giá cả trong và ngoài nước, v.v., thật ra đã bắt đầu từ thời Okubo. Có rất nhiều người đáng được suy tôn là “bậc nguyên huân của thời Duy tân Minh Trị”, song, xét cái ảnh hưởng đối với Nhật Bản ngày nay, thì phải kể Okubo Toshimichi chính là một trong “Mười hai người lập ra nước Nhật”. Dùng quyền hạn và mưu lược phân hóa phe phản đối Cái tên Okubo Toshimichi được mỗi người biết đến, song thực thể về ông ta thì không hẳn được biết đến rõ ràng. Vây ông ta là người như thế nào? Okubo Toshimichi sinh năm 1830 tại phiên bang Satsuma (bây giờ là tỉnh Kagoshima), tức là năm thứ nhất của niên hiệu Tenpo (Thiên Bảo), niên hiệu được quen biết với “cuộc cải cách Thiên Bảo”. Cha là môt phiên sĩ Satsuma, tức là một võ sĩ samurai hạng trung của phiên bang Satsuma. Năm 1846, (niên hiệu Hoàng Hóa năm thứ ba), ở tuổi 17 (tuổi đếm), ông được tuyển làm thư ký sở đăng ký của phiên bang Satsuma. Mới 17 tuổi đã được tuyển làm thư ký, thì hẳn Okubo Toshimichi phải là người văn hay chữ tốt, biết sử dụng bàn toán rành rọt. Sau đó, nhân cái gọi là “vụ đổ bể Takasaki”, tức là một vụ tranh chấp trong phiên ban, cha ông bị trục xuất và ông bị cách chức. Toshimichi bị mất chức thư ký từ lúc 21 tuổi tới lúc 24 tuổi. Năm 1857 (niên hiệu An Chính năm thứ tư), ở tuổi 28, ông trở thành một hạ sĩ quan. Năm ấy, Saigo Takamori [9] cũng trở thành hạ sĩ quan. Nghĩa là ở thời điểm đó, cả hai bậc nguyên huân của thời Duy tân Minh Trị đều đã xuất hiện trên sân khấu. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau, vì cùng với nhà sư Gessho (Nguyệt Chiếu) và đồng bọn nổi loạn, bị đi đày, nên Saigo Takamori đã không ở chức này được lâu. Okubo Toshimichi thực sự hoạt động là kể từ năm 1859, lúc 30 tuổi. Lúc đó, phiên chúa Satsuma đã thay đổi, Toshimichi lân la lại gần người cha của phiên chúa Shimazu Hisamitsu. Biết chúa Hisamitsu thích đánh cờ vây, Toshimichi đã học đánh cờ rồi mon men tới làm bạn chơi cờ. Thành công, năm sau, ông đã được phong làm tổ trưởng kế toán. Thời đó, 30 tuổi có thể coi tương đương với tuổi 40 ngày nay. Nghĩa là, đã tới tuổi trung niên rồi mới đi học đánh cờ để tìm cách tiếp cận phiên chúa. Như vậy, ông đáng được coi là một người có chí, một người ham địa vị. Năm 1862 (niên hiệu Văn Cửu năm thứ hai), Toshimichi lần đầu tiên lên thành Edo (Tokyo ngày nay). Hai năm sau, ông trở về phiên bang Satsuma, lo việc cải cách hành chính của phiên bang, nhưng gặp phải sự chống đối từ nhiều mặt. Lúc đó, phiên bang Satsuma đã chuyển từ phe ủng hộ sang phe lật đổ mạc phủ Tokugawa. Okubo thì chuyên tâm vào việc vận động cải cách. Thế rồi bốn năm sau tức là năm 1868 (niên hiệu Khánh ứng năm thứ tư), năm đổi niên hiệu thành Meiji (Minh Trị), mạc chúa đời thứ 15, Tokugawa Yoshinobu (1866-1867), sau khi đã hoàn trả quyền cai trị cho vua Minh Trị, lại gây hấn ở Toba Fushimi nhưng thua trận, phải bỏ thành Edo mà về quê ở Mito. Có người chủ trương phải đuổi đánh. Okubo là một trong số những người chủ trương mạnh nhất như vậy. Nghĩa là cho đến lúc này, ông xứng đáng được gọi là chí sĩ của cuối thời mạc phủ với tinh thần cách mạng như vậy. Nhưng thật ra, Okubo Toshimichi đã phát huy thực lực, là sau khi cuộc cách mạng Duy tân Minh Trị đã thành công, sau khi chính phủ mới của vua Minh Trị đã thành lập. Năm thứ hai sau cuộc cách mạng Duy tân, tức là năm 1869, ông được phong Tham nghị, một chức quan trọng yếu trong triều, rồi năm 1871, ông được phong làm Bộ trưởng Kho bạc. Thời đó, Tham nghị là chức quan lớn hơn Bộ trưởng Kho bạc, và như vậy có nghĩa là ông bị giáng chức ít nhiều. Song vì biết cái vị trí tế nhị của mình nên ông đã nhận lãnh chức vụ mới này. Thế nhưng tháng 11 năm ấy, ông tổ chức đoàn đại biểu thị sát nước ngoài, tôn Iwakura Tomomi làm đại sứ toàn quyền, còn chính mình nhậm chức phó sứ. Ðoàn đại biểu đã bỏ ra một năm rưỡi tuần sát các nước Âu Mỹ để rồi trở về nước tháng 5 năm 1873. Lúc đó Okubo được 44 tuổi. Từ đó trở đi mới là lúc Okubo phát huy thực quyền. Trong lúc Iwakura và Okubo xuất ngoại, ở trong nước có cuộc tranh luận sôi nổi về vấn đề “chinh Hàn”. [10] Vừa ngoại du trở về, Okubo chủ trương đặt ưu tiên cho công tác chỉnh đốn việc trong nước. Và sau một cuộc tranh luận kịch liệt với nhóm Saigo Takamori, Eto Shinpei, Itagaki Taisuke, ông đã đè bẹp được chủ trương “chinh Hàn”. Ðây là đầu mối cho cơ hội phát huy thực lực của Okubo. Okubo Toshimichi được phục chức Tham nghị, đồng thời kiêm nhiệm chức Bộ trưởng nội vụ. Sau cuộc cải cách quan chế năm 1885, chức năng của Bộ trưởng nội vụ bao chùm tất cả các vấn đề nội chính. Với quyền hạn rộng lớn này, Okubo đã tìm mỗi cách cô lập hóa Saigo Takamori. Năm 1875, cuộc hội đàm Osaka [11] mở ra giữa Okubo Toshimichi, Kido Takayoshi (tức là Katsura Kogoro, một cựu phiên sĩ phiên bang Satsuma) và Itagaki Taisuke được mở ra, trong đó Okubo đã thuyết dụ được họ tham gia nội các. Năm trước đó, Okubo đã chấp nhận cho xuất binh sang Ðài Loan, và nhân cơ hội đó, đã lôi kéo được em trai Saigo Takamori là Saigo Tsugumichi. Dùng thủ đoạn, Okubo lần lần chia rẽ phe đối lập. Chẳng hạn, bọn Eto Shinpei đã có lúc có thế lực chia hai dư luận trong nước, song dần dần đã bị cô lập hóa. Okubo quả là người có thủ đoạn. Kết quả là Chính phủ Minh Trị đã trở thành dụng cụ cho Okubo chuyên quyền. Nhân đó, ông đã thực thi chính sách “gia tăng sản xuất, tân hưng kỹ nghệ”, [12] tức là chính sách chấn hưng các ngành nghề sản xuất. Xây dựng một quốc gia không để cho ngoại quốc coi thường Những chí sĩ thời cuối Edo, như Takasugi Shinsaku, Katsura Kogoro, Saigo Takamori, đều là những người chủ trương “nhương di (sua đuổi man di)” để giữ vững chính sách “tỏa quốc”, tức là đóng cửa đất nước, tức là “bế quan tỏa cảng”. Họ đã cho ám sát những người khác chủ trương “mở nước” như Ðại lão [13] Ii Naosuke và những người cùng chủ trương. Thế nhưng, chỉ mười năm sau đó, tất cả đám người “nhương di” này đều đã chuyển hướng thành chủ trương “mở nước”. Nghĩa là những chí sĩ “tôn hoàng nhương di”, sau khi trở thành quan cao của Chính phủ Minh Trị, đều đã chủ trương “khai hóa văn minh”. [14] Ở điểm này, họ đáng gọi là những kẻ “thất tiết”, những người không giữ được tiết nghĩa, nhưng tuyệt nhiên không thấy họ có vẻ gì là ngượng nghịu, là xấu hổ trước hành vi đổi chiều, thái độ chuyển hướng như vậy của họ cả. Thật là một hiện tượng lạ lùng của thời kỳ Duy tân Minh Trị. Sở dĩ như vậy là vì những chí sĩ Duy tân này không phải là những nhà tư tưởng. Họ chỉ là những người hành động thực tế. Ðối với họ, chủ nghĩa chủ trương không bằng lòng ái quốc, không bằng tinh thần không chịu thua kém người khác. Những người sau này được tôn vinh là chí sĩ Duy tân, trước sự kiện “đoàn tàu đen xuất hiện”, [15] đã chỉ nghĩ làm sao dựng nên một nước Nhật không bị coi thường, làm sao xây dựng một tổ quốc Nhật Bản không bị ngoại quốc khinh thị. Muốn vậy, họ nghĩ, cần phải có võ lực mạnh. Nếu dùng võ lực đánh đuổi được đoàn tàu đen đi, thì ngoại quốc không thể khinh thường Nhật Bản được nữa. Võ sĩ samurai Nhật Bản thời ấy đã chỉ suy nghĩ đơn giản như vậy mà thôi. Cũng có phiên chúa tưởng thế là thật, đã thực sự thử sức với ngoại quốc. Chẳng hạn, phiên bang Choshu đã nã pháo vào thương thuyền Mỹ hoặc chiến hạm Pháp và Hà Lan trong khi những tàu này chạy ngang qua Bakan (nay là Shimonoseki); phiên bang Satsuma thì từ pháo đài trên bờ nã pháo vào chiến hạm Anh khi tàu này xâm nhập vịnh Kagoshima. Vụ trước gọi là trận chiến tranh Bakan, vụ sau là trận chiến tranh Satsu-Anh. Thế nhưng đoàn tàu đen trang bị hơn 100 khẩu đại bác thì quá mạnh. Sự hơn thua về hỏa lực giữa địch và ta đã rành rành. Không thể chỉ lấy áo giáp, mũ sắt, đao kiếm, súng hỏa mai và vài nòng pháo cổ điển mà có thể đương đầu được. Muốn đánh thắng ngoại bang, thì phải có tàu chiến tối tân trang bị đại bác lớn. Mà phải có thật nhiều cơ. Khi biết rõ sự thực như trên, các phiên chúa cũng như mạc chúa Tokugawa bèn chạy tới các thương gia Hà Lan ở Nagasaki, hỏi mua súng đại bác, tàu chiến. Nhưng đại pháo và chiến hạm thì giá đắt. Hơn nữa, mua bằng tiền giấy của phiên bang đâu có được. Phải mua bằng vàng bạc. Thế là các võ sĩ samurai mới tỉnh ngộ ra rằng, phải dựng xưởng đúc đại pháo, phải xây xưởng đóng tàu mới có thể có được những võ khí mạnh đó. Việc này không dễ dàng gì. Họ dần dần nghĩ ra rằng, muốn có vàng bạc thì phải dựng nên những ngành nghề chế tạo sản phẩm có thể bán ra nước ngoài được. Muốn thế, muốn gây dựng những ngành nghề sản xuất mới, thì phải học kỹ thuật, học chế độ ngoại quốc để công nghiệp hóa đất nước, chứ không thể cứ một mực “tôn hoàng nhương di (tôn vua đuổi man di)” được nữa. Muốn xây dựng một nước khiến ngoại quốc không còn khinh rẻ được nữa, thì không còn có chỗ nào khác hơn là “khai hóa văn minh”. Nói tóm lại, các chí sĩ Duy tân, xuất phát từ chủ nghĩa dân tộc đã đi tới kết luận “khai hóa văn minh” để xây dựng nền công nghiệp hiện đại. Người ta có cảm tưởng như điểm xuất phát và điểm đích hình như nghịch đảo. Nhưng đây là kết luận đúng. Nhưng chỉ vì quá hăng say, nên có lúc họ đã đi quá trớn. Vì muốn du nhập kỹ thuật hiện đại, cơ chế hiện đại của ngoại quốc, họ đã truyền bá ý nghĩ bỏ hết truyền thống có sẵn của Nhật Bản. Chẳng hạn, hạng người như Mori Arinori [16] đã chủ trương bỏ hẳn tiếng Nhật và lấy tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính thức thay thế. Mục đích của Duy tân là làm cho Nhật Bản thành một nước không bị ngoại quốc khinh thị, nên nếu những người ban đầu chủ trương dùng võ lực xua đuổi ngoại bang đi, nhưng sau đó cũng chính những người này lại khởi xướng việc học hỏi ngoại quốc, thì cứu cánh vẫn là một, dầu cho thủ đoạn có khác đi. Người theo chủ nghĩa dân tộc chủ trương “tôn hoàng nhương di” cũng đồng thời lại là người tôn thờ chủ nghĩa Âu hóa chủ trương “khai hóa văn minh”. Thế mà những người như vậy không hề coi mình là kẻ thất tiết. Quả thật đây là tiến trình chuyển biến tư tưởng rất Nhật Bản, mà Okubo Toshimichi là một đại biểu vậy. Như thế, trở thành người chủ trương Khai hóa Văn minh, Okubo Toshimichi đã dùng mọi thủ đoạn cô lập Saigo Takamori, chèn ép Eto Shinpei, mà hẳn vẫn cho mình đã làm việc chính đáng. Trong Chính phủ Minh Trị, lập ra cái mà người đời gọi là “thể chế độc tài Okubo”, rồi áp dụng chính sách khai hóa văn minh và chủ trương gia tăng sản xuất, tân hưng sản nghiệp để làm cho Nhật Bản giầu mạnh không bị ngoại bang khinh thị nữa, hẳn Okubo đã làm với niềm tin của ông vậy. Xây dựng cơ chế trong nước rập theo đế quốc Ðức Nhật Bản thời Minh Trị đứng về phe đế quốc Anh trên mặt ngoại giao, nhưng mỗi cơ chế trong nước thì lại rập theo khuôn mẫu của đế quốc Ðức. Ðây là biểu hiện của đường lối thực tế của Okubo Toshimichi. Thật ra, sự kiện Nhật Bản thuộc phe đế quốc Anh về mặt ngoại giao, không phải là tự ý Nhật Bản lựa chọn như vậy. “Ðoàn tàu đen” gồm bốn chiến hạm, do đô đốc Perry chỉ huy, tới đòi Nhật Bản mở cửa năm 1853 (niên hiệu Gia Vĩnh năm thứ sáu), là của Mỹ. Năm sau, Perry lại tới đòi đàm phán. Nhưng ngay sau đó, ở Mỹ đã xảy ra cuộc nội chiến Nam Bắc quanh vấn đề giải phóng nô lệ, gây tổn hại lớn đến nội lực, khiến Mỹ không còn bụng dạ nào quan tâm đến một đảo quốc nhỏ bé ở vùng Cực Ðông nữa. Một mặt, giữa lúc Nhật Bản chìm đắm trong sự hỗn độn thời cuối Edo, thì Âu châu đang ở thời kỳ đại loạn với cuộc chiến tranh Phổ - Áo (1866), rồi chiến tranh Phổ - Pháp (1870-1877). Ðế quốc Phổ với trung tâm là thành phố Berlin ngày nay, đã liên tiếp thắng Áo rồi Pháp. Kết quả là năm 1871, nước Ðức đã được thống nhất và đế quốc Ðức với nước Phổ làm trung tâm đã ra đời. Thời điểm này, nước Italia cũng được thống nhất thành một quốc gia. Châu Âu đã trải qua một thời kỳ 10 năm ly loạn. Do đó, cả Pháp, Ðức, Áo đều không có ý định dùng quân sự xen vào nội bộ Nhật Bản. Trong các cường quốc ở châu Âu lúc đó, chỉ còn có Anh và Nga là còn có thể gửi quân lực tới miền Cực Ðông. Thế nhưng, đế quốc Nga lúc đó tuy có quân lực hùng mạnh luôn luôn có tham vọng bành chướng, nhưng trình độ kinh tế, kỹ thuật lại thấp kém, và chế độ xã hội thì lại có phần thua kém Nhật Bản. Vào thời kỳ Duy tân Minh Trị của Nhật Bản, thì đế quốc Nga chỉ mới bắt đầu cuộc giải phóng nông nô, nên khó có kỹ thuật cũng như tư bản để viện trợ cho Nhật Bản. Ðến thế này, thì Nhật Bản chỉ còn Anh quốc để về hùa mà thôi. Tình huống này được lặp lại sau trận Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Thật vậy, năm 1951 (niên hiệu Chiêu Hòa năm thứ 26), Nhật Bản ký hòa ước San Francisco để thuộc vào phe các nước Tây phương, nhưng Nhật Bản bị Mỹ chiếm đóng, rồi cuộc chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, nên Nhật Bản không còn cách lựa chọn nào khác hơn là về phe với Anh quốc trên mặt ngoại giao. Thời Minh Trị, Nhật Bản cũng chỉ còn cách về phe với Anh quốc. Kể từ sau khi “đoàn tàu đen” tới Nhật Bản, thì tin tức ngoại quốc xuất phát từ Anh quốc đã lần lần thay thế cho tin tức ngoài nước trước đó xuất phát từ Hà Lan. Người Nhật thời Minh Trị quan niệm rằng, một quốc gia hiện đại là một nước có chủ nghĩa dân chủ và nền kinh tế tự do như Anh quốc vậy. Thế nhưng, khi Okubo Toshimichi đóng vai phó sứ của phái đoàn Iwakura sang tới châu Âu, ông mới thấy rằng chẳng riêng gì Anh quốc, mà cả Ðức, Pháp, Áo - Hung (năm 1867, đế quốc Áo đã cải tổ thành đế quốc Áo-Hung) đều là các quốc gia hiện đại. Mỗi nước đều có thể chế khác nhau. Trong các nước này, Okubo Toshimichi đã đặc biệt quan tâm tới đế quốc Ðức, một thế lực tân hưng đang sục sôi khí thế bá chủ. Trong các nước châu Âu, Anh quốc là nơi đã dấy lên làn sóng cách mạng công nghiệp hiện đại đầu tiên. Theo sau đó là Pháp, Hà Lan. Chậm hơn nữa là đế quốc Ðức. Ðể đuổi kịp Anh quốc, đế quốc Ðức đã áp dụng chính sách mạnh mẽ nuôi dưỡng các ngành nghề sản suất. Với hỗn danh “Tể tướng máu sắt”, Thủ tướng Otto von Bismarck đã áp dụng chủ nghĩa quan liêu, một chế độ và tổ chức khác hẳn với Anh quốc. Từ khoảng giữa thế kỷ thứ XVIII, ở Anh quốc đã nổ ra cuộc cách mạng công nghiệp. Nhiều kỹ thuật, nhiều phương pháp mới đã được phát minh ra. Nhưng, kỹ thuật nào tốt, phương pháp nào hay, thì thực ra chưa ai biết được. Bởi đó là thời kỳ mà người ta đã mất niềm tin của cả ngàn năm trước, tức là “lời Chúa” trong Kinh Thánh. Nào Kinh Thành nói “đất không chuyển động”, nhưng có vẻ là “trái đất chuyển động” mới đúng. Nào Kinh Thánh nói “Chúa sáng tạo ra con người”, nhưng không chừng con người là do loài vượn tiến hóa mà thành. Nếu “lời Chúa dạy” đã được tin là đúng không lay chuyển cả ngàn năm rồi, mà nay còn bị nghi ngờ, thì lời nói của bọn quan lại, học giả, v.v. làm sao tin được? Nói cách khác, tiền lệ cũng như tiêu chuẩn, tất cả đều trở thành vô dụng. Trong bối cảnh như vậy, người Anh thế kỷ thứ XVIII đã nghĩ như sau. Mỗi người đều đáng được “bình đẳng trong cơ hội” trở thành người cung cấp sản vật. Cho tới thời bấy giờ, những người sản xuất đều họp thành một “tổ ngành nghề (guild)”. Chỉ những ai ở trong “tổ ngành nghề” mới được phép sản xuất và bán ra sản phẩm. Ðồ sắt thép phải là do những người trong “tổ thợ rèn” mới được chế tạo và bán ra. Hàng len phải là do “tổ dệt len” mới được dệt và bán ra. “Bình đẳng về cơ hội” có nghĩa là mỗi người đều được phép chế - bán ra sản phẩm không phân biệt họ xuất thân từ giai tầng nào. Nói cách khác, đây là sự tự do cạnh tranh. Thế rồi, sản phẩm nào tốt, ai khéo tay, sẽ để cho người tiêu dùng lựa chọn. Nghĩa là thực hiện chủ quyền của người tiêu dùng qua sự quyết định “hàng bán chạy là hàng tốt”. Người cung cấp sản phẩm bán chạy trên thị trường sẽ được phát đạt. Ðây là triết lý “kẻ thích nghi sinh tồn”, “kẻ thích nghi phồn vinh”. Sau này, trong sách “On the Origin of Species by Means of Natural Selection (Bàn về nguồn gốc chủng loại bằng sự chọn lọc “đào thải” tự nhiên)”, Charles Robert Darwin đã nâng triết lý này lên hàng “nguyên lý tự nhiên”, song thật ra, người Anh đã thực hành điều này cả trăm năm trước đó rồi. Ðiều vừa kể mới thực sự là hình thức kinh tế tự do kiểu Anglo-Saxon. Nền kinh tế tự do Anh quốc bảo đảm sự “bình đẳng về cơ hội”, tức là sự “tự do về nghề nghiệp”. Ai cũng có thể trở thành nhà cung cấp. Kết quả sẽ được quyết định bởi cạnh tranh. Ai được đông đảo người tiêu dùng ủng hộ thì phát đạt, ai mất sự ủng hộ của người tiêu dùng thì tiêu diệt. Ý nghĩ như vậy về kinh tế tự do, về chủ quyền thuộc về người tiêu dùng, đem áp dụng vào chính trị thì trở thành chủ nghĩa dân chủ. Trong chế độ chính trị dân chủ chủ nghĩa, ai ai cũng có thể, trên nguyên tắc, ứng cử làm chính khách được. Nghĩa là ai ai cũng có cơ hội trở thành người cung cấp chính trị. Và sự lựa chọn ai làm chính khách là quyền của cử tri, tức là người tiêu dùng chính trị. Ứng viên nào được sự ủng hộ của đông đảo cử tri, sẽ đắc cử đại biểu quốc hội. Ðảng có chính kiến hay nhất sẽ nắm được chính quyền. Nói cách khác, chủ nghĩa dân chủ là mọi người dân làm chủ, là phiên bản chính trị của chủ nghĩa kinh tế tự do. Ngày nay, chúng ta chỉ còn biết rằng người Anh đã chế ra những máy móc tuyệt diệu như máy kéo sợi Hargreaves, đầu máy xe lửa Stevenson. Nhưng những thứ còn được truyền tụng như vậy ngày nay đều là những phát minh thành công cả. Thật ra, phần lớn những máy móc được sáng chế ra trong thời kỳ của cuộc cách mạng cơ giới đó, là đồ bỏ, là đồ vô dụng. Một số những máy móc như vậy ngày nay vẫn còn được triển lãm ở tầng hầm của Viện Bảo Tàng Ðế Quốc Ðại Anh ở London. Chẳng hạn có những thứ như “máy vừa ngủ vừa được uống cà phê”, v.v.. Trong khoảng từ hậu bán thế kỷ thứ XVIII sang thế kỷ thứ XIX, những máy như vậy được chế ra rất nhiều ở Anh quốc. Có nhiều người đã xuất vốn cho chế tạo ra, rồi cũng có người đã cất công đi rao bán những máy như vậy. Buôn bán lừa đảo, cưỡng đoạt, cướp giật cũng hoành hành. Nước Anh vào thời kỳ cách mạng công nghiệp, thật ra là một xã hội méo mó hỗn tạp. Tình trạng như vậy đã kéo dài gần một trăm năm, và kết quả là những cái tốt, cái hay sống sót, và nền công nghiệp hiện đại chế tạo những cái đó đã phát đạt vậy. Thế rồi sau cuộc chiến tranh Napoléon, kể từ khoảng năm 1830 trở đi, thì Pháp, Ðức cũng gia tăng tốc độ công nghiệp hóa. Ðến khoảng năm 1870, Bismarck lãnh đạo đế quốc Ðức đã quyết tâm học hỏi tiền lệ để đuổi kịp Anh quốc về mặt công nghiệp hóa. Nghĩa là Anh quốc đã làm cuộc thí nghiệm về chủ quyền của người tiêu dùng rồi, nay không cần chờ đợi sự đào thải bởi cạnh tranh tự do nữa. Ðức chỉ cần nhìn vào kết quả đó, thấy cái gì thành công hãy bắt tay vào công nghiệp hóa, thì như vậy không phí phạm. Ðồng thời, để cho những người hiểu biết tinh tường về tiền lệ ở Anh quốc lựa chọn cái nào tốt nhất mà sản xuất công nghiệp, thì như thế có thể hoàn thành sự hiện đại hóa một cách có hiệu quả. Như vậy, chuyện lừa bịp sẽ không có, phá sản sẽ không xảy ra, quốc dân khỏi bị lừa đảo mà có thể sống an tâm hạnh phúc được. Vậy ai là người hiểu biết tinh tường về tiền lệ ở Anh quốc? Ðó chính là đám quan liêu (công chức) ưu tú, các giáo sư đại học. Vậy, cứ để cho những người này chỉ dẫn đường hướng, chuẩn định quy cách sản phẩm, rồi cho giới công nghiệp chế tạo ra và cho quốc dân mua dùng. Ðây là chủ nghĩa khai sáng do quan liêu (công chức) chỉ đạo, nền tảng cho đế quốc Ðức vậy. Phái bộ Okubo Toshimichi sang châu Âu, được nghe giải thích chế độ này của đế quốc Ðức, đã bị mê hoặc. Họ nghĩ “Nhật Bản nên du nhập và thực hiện chế độ này”. Có thể là từ trước đó, Okubo Toshimichi đã thấy những mâu thuẫn của chủ nghĩa dân chủ kinh tế tự do của Anh và do đó có ác cảm với chủ nghĩa này. Giữ chức Bộ trưởng Nội vụ nắm toàn thể nền chính trị quốc gia Trở về Nhật, Okubo Toshimichi đã chống lại đường lối “chinh Hàn” của bè phái Saigo Takamori, Itagaki Taisuke, Eto Shinpei. Ông chủ trương cải cách nội chính chứ không gửi quân đội viễn chinh sang bán đảo Triều Tiên. Rồi ông thuyết phục mọi người chung quanh rằng đường lối tốt nhất là áp dụng cơ chế đế quốc Ðức mà ông đã học hỏi được. Khi quan điểm lý luận của ông chiếm được đa số trong Chính phủ Minh Trị, ông bèn loại bỏ Saigo và Eto đi, rồi lôi kéo Itagaki vào bè phái của mình. Ðồng thời, để thực hiện đường lối “Thực sản hưng nghiệp” ông đã đích thân nắm chức bộ trưởng nội vụ, một mình quán xuyến mọi chính sách nội bộ. Ðường lối của Okubo Toshimichi ngày nay nhìn lại, là chỉ tôn trọng bọn êlít, tức là đám người ưu tú, còn quốc dân thì bị khinh miệt là ngu dốt. Tuy vậy, so với chủ trương phân biệt dòng dõi (thị tộc) của bọn Saigo, thì đường lối này hãy còn tiến bộ hơn nhiều. Ðồng thời, đối với đại đa số quốc dân, ông tỏ ra nhiệt tình với hoạt động khai sáng, hoạt động phổ biến kỹ thuật sản xuất. Chứng cớ là việc mở hội chợ. Okubo Toshimichi đã đích thân đứng ra chủ trì ba lần hội chợ. Những hội chợ này là để trưng bầy kỹ thuật ưu tú của ngoại quốc, và chiêu mộ người trong nước đứng ra công nghiệp hóa những kỹ thuật đó. Ai dám đứng ra làm, sẽ được chính phủ trợ giúp vốn làm ăn. Thế rồi, áp dụng đường lối giáo dục bằng vật thực, ông cho dựng nhà máy mẫu bằng cách rập khuôn nguyên xi nhà máy kéo sợi của Pháp và nói “cứ bắt chước y hệt thế này là được”. Tất cả những việc như vậy, chính Bộ trưởng nội vụ Okubo đã đích thân đứng ra làm. Xem như vậy, thì thời đó, phạm vi hoạt động của Bộ Nội vụ bao gồm những bộ ngày nay như Bộ Thương mại quốc tế và công nghiệp, Bộ Nông thủy sản, Bộ Y tế, Bộ Xây dựng, Bộ Lao động, Bộ Tự trị, Tổng cục công an và tất cả nghiệp vụ của các Tỉnh trưởng. Từ Bộ Nội vụ như vậy, công tác chuyên ngành lần lần thành hình và các bộ chuyên môn dần dần tách ra thành các bộ riêng. Trước nhất là Bộ Nông thương vụ được độc lập. Rồi năm 1925 (niên hiệu Ðại Chính năm thứ 14), bộ này lại tách ra thành Bộ Nông lâm và Bộ Công thương. Sang thời Showa (Chiêu Hòa, từ năm 1926 tới 1989), thì Bộ Y tế (1938), rồi sau cuộc Chiến tranh thế giới thứ II thì Bộ Lao động (1947), Bộ Xây dựng (1948) được tách ra độc lập. Rồi các tỉnh trưởng được trực tiếp bầu ra, và Bộ Nội vụ sau cùng được chia thành Bộ Tự trị và Tổng cục cảnh sát, với chức năng giám sát điều chỉnh hoạt động hành chính của các tỉnh mà thôi. Nói cách khác, Bộ Nội vụ thời Minh Trị đã quán xuyến từ vấn đề nội vụ tới việc tân hưng công nghiệp. Thời ấy, ngoài Bộ Nội vụ ra, còn có các bộ sau: Bộ ngoại giao coi việc ngoại giao, Bộ Lục quân và Bộ Hải quân lo việc quân sự, Bộ Cung đình coi việc hoàng gia, Bộ Tư pháp lo việc pháp luật, Bộ Văn coi việc học (giáo dục đào tạo), Bộ Kho bạc coi việc tài chính, Bộ Ðường sắt quản lý kinh doanh hệ thống đường sắt, Bộ Ðệ tín lo việc bưu chính, điện tín cùng những vấn đề khác như điện lực, vận tải đường biển. Nghĩa là, trừ giáo dục, tài chính và các ngành nghề quốc doanh, còn mọi việc nội chính đều nằm trong tay Bộ Nội vụ. Những sản nghiệp như nông nghiệp, lâm nghiệp, khoáng sản (hầm mỏ), công nghiệp, vận chuyện hàng hóa, xây dựng, y tế, lao động, v.v., tất cả đều do một tay Okubo Toshimichi nắm giữ hết. Chế độ quan liêu (công chức) Nhật Bản là rập theo khuôn mẫu của chủ nghĩa khai sáng kiểu quan liêu chỉ đạo của đế quốc Ðức. Trước hết là thành lập một loạt cơ quan công quyền có mục đích gây dựng những nhà cung cấp. Ví dụ, Bộ Văn (tương đương với Bộ Giáo dục và Ðào tạo ở ta) là cơ quan đào tạo thày giáo, phổ cập giáo dục học đường. Bộ Văn ngày xưa cũng như ngày nay, không hề để tâm tới học trò. Bộ Ðường sắt lo trải đường sắt ra toàn quốc, đào tạo kỹ sư và gây dựng xí nghiệp vận hành hệ thống đường sắt. Bộ Kho bạc trông coi việc phát triển của ngân hàng. Bộ Ðiện tín lo toan sự nghiệp phát triển điện tín và vận tải đường biển. Mặt khác, cơ quan nhà nước để bảo vệ người tiêu dùng, tức là quốc dân nói chung, cũng đã được lập ra. Trước cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, đó là Bộ Nội vụ với các tỉnh trưởng và cảnh sát nắm quyền địa phương. Bộ Nội vụ trước thời chiến tranh, là trung tâm của quyền hành chính địa phương, với đám quan liêu nặng đầu óc chăn dắt con dân. Chính họ đã tự ví mình là “mục dân quan (quan chăn dắt con dân)”. Từ này đã được thông dụng cho tới khoảng năm 1970 (niên hiệu Chiêu Hòa năm thứ 45). Nếu các bộ sở khác chú trọng việc cung cấp, thì Bộ Nội vụ chăm lo việc bảo hộ, dẫn dắt đám dân đen yếu hèn. Cái ý thức êlít của họ là như thế đấy. Sự chỉ đạo của quan liêu theo kiểu đế quốc Ðức gồm có, một mặt là cơ quan nhà nước chuyên lo việc tạo dựng các ngành nghề sản xuất, mặt khác là Bộ Nội vụ chăm sóc quốc dân. Một sự cân bằng đã phát sinh ra giữa hai thế lực, một bên là phát triển quốc gia, một bên là bảo hộ quốc dân. Okubo Toshimichi đã rập khuôn nguyên xi chế độ đó của đế quốc Ðức, song, tự ông đã nắm giữ luôn Bộ Nội vụ và trong một thời gian khá dài, Bộ Nội vụ của ông đã làm luôn cả hai việc. Vì vậy, dẫu có bị gọi là “Okubo độc tài” cũng đáng lắm. Hãy gác chuyện ấy sang một bên. Từ khi có chế độ quan liêu thời Minh Trị, người ta thấy đã lan rộng trong quần chúng cái ý thức nương tựa vào quan liêu, bởi vì “quan liêu học rộng hiểu nhiều”, còn ở quan liêu, người ta thấy phát sinh ra cái ý thức coi “quần chúng ngu dốt, nên phải được bảo hộ”. Nghĩa là, quan sẽ dạy bảo tất cả kỹ thuật, chế độ ưu việt của châu Âu cho, còn dân thì thành chân tay làm việc tại hiện trường là được. Do đó, từ chủng loại và quy cách sản phẩm, tiêu chuẩn thiết bị tới thời gian lao động và chế độ thuê mướn lao động, tất cả đều do quan liêu định trước. Ðó là điều mà giới quan liêu cho là cần phải có, để gây dựng các ngành nghề sản xuất hiện đại, và như vậy mới có lợi cho người tiêu dùng. Một mặt, để bảo đảm cho dân ngu hèn khỏi bị đám con buôn lưu manh bóc lột, một lực lượng cảnh sát quốc gia đã hình thành, gồm có đám quan liêu Bộ Nội vụ, các tỉnh trưởng thị trưởng và cảnh sát hành chính, luôn luôn để mắt nhòm ngỏ, sẵn sàng bắt giữ trừng trị bọn người phạm pháp. Chế độ này quả thật đã có ích cho việc xây dựng Nhật Bản thành một quốc gia công nghiệp hiện đại. Chế độ quan liêu được tăng cường sau khi Okubo qua đời Chế độ quan liêu Minh Trị do Okubo Toshimichi du nhập vào, được xác lập vào khoảng năm 1877 (niên hiệu Minh Trị năm thứ 10), tức là vào lúc cuộc chiến tranh Tây Nam. Chính phủ Duy tân Minh Trị, cho đến năm 1871 (niên hiệu Minh Trị năm thứ tư), chỉ lo phá bỏ cái cơ chế có trước đó của thời mạc phủ Tokugawa, chứ chưa suy nghĩ nên làm gì sau đó. Việc này đã chỉ được bàn luận nghiêm chỉnh sau khi đoàn đại biểu Iwakura được cử đi thị sát nước ngoài năm 1871 đó. Tất nhiên là một sự hỗn loạn đã diễn ra xung quanh vấn đề điều hành nước Nhật như thế nào. Năm 1873 (niên hiệu Minh Trị năm thứ sáu), chủ trương của bọn Okubo được nhìn nhận, thì đường lối cơ bản mới được định, là theo chế độ quan liêu chỉ đạo. Nhưng trong nước hãy còn nhiều nơi phản đối. Người ta chưa tin thực lực của chế độ quan liêu. Thế rồi năm 1877, người ta thấy quân đội địa phương (trấn đài binh) gồm nông dân bị trưng binh, đã đánh bại quân đội sĩ tộc [17] của Saigo Takamori. Sự thế đã đổi hẳn: công chức (quan liêu) giỏi và mạnh hơn sĩ tộc. Hơn thế nữa, do cuộc chiến tranh này mà các ngành nghề như đóng tàu, súng đạn, quân trang, quân giới, v.v., đã hình thành, nghề vận chuyển đường biển để chuyên chở quân nhu cũng phát đạt lớn lao. Thua trận, Saigo Takamori đã tự mổ bụng ở Shiroyama. Kido Takayori cũng chết bệnh. Thế là ai ai cũng tưởng Okubo sẽ thành diễn viên độc nhất trên sân khấu, nhưng chính Okubo cũng đã bị ám sát năm 1878 (niên hiệu Minh Trị năm thứ 11). Như vậy, thế hệ thứ nhất lãnh đạo cách mạng Minh Trị đã gần như không còn ai. Từ đó, thế hệ thứ hai lãnh đạo cách mạng, gồm có bọn Ito Hirobumi, Yamagata Aritomo, đã nắm giữ quyền hành của Chính phủ Minh Trị. Chế độ quan liêu do Okubo dựng nên, đã được bọn Ito Hirobumi củng cố thêm cho vững chắc hơn. Ðể được như vậy, trước hết, họ thiết lập trường Ðại học quốc gia (đúng ra là Đại học đế quốc, ở đây tạm dịch là Đại học quốc gia) để đào tạo nhân tài cho chế độ quan liêu. Lúc đầu, chỉ có một trường Ðại học quốc gia (sau này trở thành Ðại học quốc gia Tokyo) nên không cần ghép chữ Tokyo vào tên đại học. Sau này, đến năm 1897 (niên hiệu Minh Trị năm thứ 30), trường Ðại học quốc gia thứ hai được thiết lập ở cố đô Kyoto. Từ đó, Ðại học quốc gia thứ nhất được cải danh là Ðại học quốc gia Tokyo. Ðại học quốc gia được lập ra với mục đích gì? Trước nhất, Ðại học Luật là để đào tạo quan hành chánh và quan tòa. Ðại học Công nghệ là để đào tạo quan chức công chánh, quan chức trị thủy, quan chức đường sắt, kỹ sư cho Bộ Ðệ tín và các bộ khác. Ðại học quốc gia có uy tín hơn các đại học tư thục khác. Vì vậy, những người xuất thân từ Ðại học quốcgia khi vào làm việc ở các bộ sở, đương nhiên có ý thức êlít, bởi vì chính họ đã được đào tạo để tự coi mình ưu tú hơn người khác. Ở đây, người ta cũng thấy xuất hiện tư tưởng quốc gia kiểu quan liêu chỉ đạo do Okubo Toshimichi lập ra vậy. Ngược lại, các xí nghiệp dân doanh tiếp nhận nhiều người tốt nghiệp các trường đại học tư, hay các trường cao đẳng chuyên môn (như Cao đẳng Thương nghiệp, Cao đẳng Công thương). Nghị viện đế quốc (quốc hội) cũng phần lớn là những người xuất thân từ các đại học tư. Nói cách khác, cái suy nghĩ của chế độ giáo dục này, là đào tạo những người tài giỏi (quan liêu) có năng lực quy hoạch cao độ có khả năng hoạch định đường lối, còn xí nghiệp dân doanh thì chỉ cần người có năng lực làm việc ở hiện trường. Năm 1890 (niên hiệu Minh Trị năm thứ 23), nghị viện đế quốc được lập ra. Giống như trường hợp đế quốc Ðức, nghị viện này đã được bố trí sao cho các ủy viên chính phủ được ngồi ở vị trí cao hơn hẳn lên. Nghị viện, như vậy, chỉ được coi là nơi dân đen đệ đạt ý kiến lên chính phủ. Các quan xuất thân Ðại học quốc gia được coi là tài giỏi hơn đại biểu dân cử do dân bầu ra. Hội trường quốc hội Nhật ngày nay đã được xây năm 1936 (niên hiệu Chiêu Hòa năm thứ 11), gồm có ghế của chủ tịch quốc hội ở bậc cao nhất chính giữa, trước mặt ghế chủ tịch là diễn đàn, hai bên diễn đàn là hàng ghế bộ trưởng, phía sau hàng ghế bộ trưởng là hàng ghế ủy viên chính phủ, tức là ghế cho các quan chức bộ sở trung ương. Các nghị viên do quốc dân bầu ra, thì ngồi thấp hẳn xuống dưới, ngửa mặt nhìn lên hàng ghế các quan. Nghị viện Anh quốc thì khác hẳn. Các nghị viên không có ghế riêng. Họ ngồi trên những hàng ghế dài, xếp đối diện với nhau thành từng bậc. Một bên là thủ tướng, các bộ trưởng và các nghị viên đảng cầm quyền, bên kia là các nghị viên đảng đối lập. Quan liêu các bộ sở trung ương không có chỗ tham dự trong cuộc tranh luận của nghị viện. Cũng là chế độ nội các nghị viện, song Nhật Bản và Anh quốc khác nhau xa lắm. Còn hội trường của nghị viện đế quốc Ðức, tức là khuôn mẫu của hội trường quốc hội Nhật Bản, thì năm 1933 đã bị Hitler âm mưu phóng hỏa nên đã bị đóng cửa từ đó. Ðến khi quân đội Liên Xô tiến vào Berlin thì hội trường đã bị hủy hoại phần lớn. Từ đó, nó đã bị bỏ trống một thời gian dài bên cạnh “bức tường Berlin”. Sau khi Ðức thống nhất, Berlin trở lại thành thủ đô liên bang, nó lại được dự kiến dùng làm hội trường của Hạ viện. Song, bên trong đã do kiến trúc sư người Anh, Sir Norman Foster thiết kế nên đã khác hẳn xưa kia. Nước Nhật thời Minh Trị liệu có thể coi là đã thành công chăng? Nhờ về phe với Anh quốc trên mặt ngoại giao, nên Nhật Bản đã thắng hai cuộc chiến tranh Nhật - Thanh (1894-1895) và chiến tranh Nhật – Nga (1904-1905), rồi đã thành công trong việc thu hút đầu tư của Anh quốc. Kỹ thuật đường sắt, điện tín, bưu chính, v.v., cũng đã học được. Hơn thế nữa, trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Nhật Bản đã trở thành nước chiến thắng. Ðến nỗi có một lúc, Nhật Bản đã có thể tự hào là “một trong ba đại cường quốc thế giới”. Ở trong nước, thì nhờ học được thể chế của đế quốc Ðức, nên từ rất sớm hệ thống đường sắt đã được trải ra khắp nước, hệ thống điện tín được bành chướng, hệ thống giáo dục sơ cấp được phổ cập tới khắp miền xa miền sâu. Ðây chính là thành quả của chế độ Ðức sau khi đã loại bỏ sự cạnh tranh của dân gian và sự chập choạng mò mẫm. Thành công trong ngoài như trên đã khiến Nhật Bản phát triển nhanh chóng từ thời Minh Trị (1868-1912) qua thời Ðại Chính (1912-1926). Khuyết điểm của chế độ quan liêu kiểu Ðức Chế độ quan liêu kiểu Ðức do Okubo Toshimichi đem vào Nhật Bản có nhiều điểm tích cực, song cũng có nhiều khuyết điểm lớn. Thời kỳ đầu tiên, nhờ có những người như Okubo Toshimichi hay Ito Hirobumi, Yamagata Aritomo, tức là cha đẻ hay cha nuôi của chế độ cho nên chỉ cần một lời nói của họ đủ làm cho bọn quan liêu các bộ sở không dám ho he nữa. Yamagata Aritomo còn là người dễ dàng bịt nổi miệng đám quân nhân nữa. Sự việc này cũng giống như vị tể tướng máu sắt Bismarck của đế quốc Ðức đã làm việc suôn sẻ với thống chế Hermuth Carl Graf von Moltke. [18] Dần dà, càng về sau, khi không còn những bậc nguyên huân hay những chính khách lớn có uy lực làm câm miệng đám quan liêu, thì cơ cấu quan liêu được phân hóa theo chiều dọc. Quan liêu Bộ Văn chỉ biết nghĩ tới việc giáo dục, quan liêu Bộ Thương mại Quốc tế và Công nghiệp chỉ biết việc gây dựng ngành nghề sản xuất. Bộ Nông lâm Thủy sản, Bộ Xây dựng, Bộ Y tế, tất cả chỉ lo việc của nghiệp giới mình mà thôi, chứ không có sự điều hợp tương hỗ giữa các bộ với nhau nữa. Sự việc trên, người đời gọi là “bản tính phân chia địa bàn” hoặc “ý thức quyền hạn”. Ðúng vậy, quan liêu sở dĩ làm việc là vì cái ý thức quyền hạn như vậy. Ví dụ, nếu là quan liêu Bộ Nông lâm Thủy sản, thì quyền hạn của họ là bảo hộ nông nghiệp, ổn định hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp; nếu là quan liêu Bộ Văn, thì công tác bảo hộ trường học và thày giáo là quan trọng nhất. Vì nghĩ như vậy, nên họ sốt sắng làm việc. Quan liêu mà không làm việc, thì đó chẳng qua là vì họ không có ý thức quyền hạn, họ bắt đầu nghĩ rằng việc làm của họ chẳng có gì quan trọng, chẳng có ích cho ai cả. Nhưng nếu tất cả các quan liêu đều có ý thức quyền hạn, đều coi việc làm của mình là quan trọng nhất, rồi ai nấy đều vì mục tiêu của chính mình mà đeo đuổi cho đạt bằng được, thì sẽ ra sao? Thứ nhất, quy chế sẽ thêm nhiều ra và được tăng cường, đồng thời, chi phí tài chính sẽ lớn lên. Trước hết, quan liêu tự coi họ giỏi dang. Họ nghĩ “ta phải làm, không thể để cho dân thường làm được”. Từ ý thức đó, họ gia tăng quy chế để củng cố quyền hạn của mình. Cái đáng sợ của cơ cấu quan liêu là, chỉ cần một số rất nhỏ trường hợp không ai phản đối cả, nhưng căn cứ vào đó, họ tăng cường quy chế đưa đến kết quả là vừa làm mất tính tiện lợi vừa làm tốn tiền bạc. Cơ quan công quyền là nơi không thèm để ý gì tới vấn đề thâu hồi tiền bạc và công sức đầu tư, cho nên họ có thể gia tăng quy chế một cách vô tội vạ. Chẳng hạn, sau trận động đất lớn Hanshin-Awaji, vì một số đường cao tốc đã bị xụp đổ, người ta đã bàn tới việc tăng cường quy chế xây dựng sao cho các đường cao tốc phải chịu được độ lắc 7. [19] Khi có cơ quan tiền tệ (ngân hàng, quỹ tín dụng, công ty bảo hiểm) bị phá sản, thì người ta liền bàn tới việc tăng cường kiểm tra hoạt động của các cơ quan này. Ðiều này đương nhiên có nghĩa là không cho vay mượn trái với ý muốn của quan liêu, tức là của bộ chủ quản. Mới nghe tưởng như hợp lý lắm. Nhưng, vì đó, phí tổn sẽ gia tăng, và sự kinh doanh tự do không còn được nữa. Xí nghiệp mỗi khi làm ăn sẽ phải nhìn vẻ mặt các quan, sẽ trở nên thụ động, sẽ có thái độ người làm sao ta làm vậy để tránh mọi rắc rối. Các quan thì hể hả, bảo đảm cho đánh đổi quy chế thành phí tổn mà người tiêu dùng phải gánh chịu. Thêm nữa, sự giám thị quy chế theo cách phân công bề dọc, sẽ làm phát sinh ra quy chế hai tầng, ba tầng, thậm chí bốn tầng, năm tầng. Thủ tục vì thế trở nên phức tạp, phiền toái. Kinh doanh bị gò bó không cựa quậy được. Kết cục là phí tổn gia tăng, và giá cả tăng lên. Ðây là cái tệ hại của chế độ quan liêu (công chức). Vấn đề thứ hai là, nếu các bộ sở đâu đâu cũng chỉ lo đeo đuổi truy cầu mục tiêu của riêng mình, thì sự cọ sát với ngoại quốc sẽ không thể nào tránh khỏi. Bộ nào cũng cố thủ lãnh vực của mình không chịu nhượng bộ. Trên mặt ngoại giao, có khi người ta phải nhường A để được B, song đám quan liêu phân quyền theo chiều dọc thì không chịu nhượng bộ lãnh vực của họ. Nói đến xuất cảng xe ôtô thì Bộ Thương mại quốc tế và Công nghiệp không chịu nhượng bộ. Nói đến vận tải hàng không thì Bộ Giao thông vận tải không nhường bước. Vấn đề gạo thì Bộ Nông Lâm Thủy sản không chịu lùi. Ở bàn hội nghị thuế rượu thì Bộ Kho bạc không chịu lùi nửa bước. Bộ nào cũng không chịu lùi bước nên sự cọ sát với ngoại quốc không thể tránh được. Thật ra, tình trạng tương tự đã xảy ra ở đế quốc Ðức sau khi Bismarck đã rút lui khỏi chính trường. Bismarck đã làm nhiều công phu mua chuộc đồng minh và nỗ lực xây dựng một hệ thống bảo đảm an toàn cho đế quốc. Ðó thường được gọi là “chính sách bảo đảm hai tầng”. Nhưng sau khi Bismarck và Moltke về hưu rồi, thì không còn chính khách nào trấn áp nổi đám quan liêu các bộ nữa. Bộ Lục quân, Bộ Hải quân, Bộ Ðường sắt, Bộ Công Thương,... bộ nào cũng đòi phần hơn. Do đó, đế quốc Ðức bị cả thế giới đối lập. Ðến nỗi, khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bộc phát, thì chỉ có đế quốc Áo-Hungari chứ không còn một đồng minh nào về phe với Ðức nữa. Sự kiện này cũng giống như Nhật Bản đã phải đối địch với cả thế giới trước cuộc chiến tranh Thái Bình Dương. Ðó, cái tai hại của cơ chế quan liêu là như vậy. Tình trạng bó chân bó tay ngày nay Từ thời Minh Trị (1868-1912), qua thời Ðại Chính (1912-1926) tới thời Chiêu Hòa (1926- 1989), ý thức quan liêu kiểu Okubo Toshimichi trở nên rất mạnh. Nhất là sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, chỉ có Bộ Nội vụ với các “mục dân quan” là không còn nữa, chứ các bộ sở chuyên đào tạo ra người cung cấp, thì còn lại tất cả. Do đó, quan liêu chỉ về hùa với người cung cấp, và trở thành địch thủ của người tiêu dùng. Vì thế, ở những lãnh vực không có sự cạnh tranh quốc tế, thì phí tổn mỗi ngày một lên cao, quy chế mỗi ngày một khắt khe hơn. Ðời sống trở nên mỗi ngày một bất tiện, bực bội. Với ý nghĩa như vậy, phải nói rằng, mặc dù Okubo Toshimichi đã lập nên cơ sở cho cơ chế quan liêu Nhật Bản, đã đóng góp lớn lao cho sự phát triển ngành nghề sản xuất thời Duy tân Minh Trị, song ông phải chịu trách nhiệm về việc làm cho Nhật Bản bị khốn đốn vì sức ép của quy chế, làm cho vật giá chênh lệch giữa trong và ngoài nước, làm cho người Nhật mất sự tự do lựa chọn. Nói cách khác, chính ông là nhân vật đã lập ra nước Nhật “giàu có nhưng không sung sướng”. Nếu Okubo Toshimichi không bị ám sát và sống qua được thời Minh Trị, thì hỏi nước Nhật sau đó sẽ ra sao? Mười năm sau khi cuộc Duy tân bắt đầu, tức là năm 1878 (niên hiệu Minh Trị năm thứ 10) cuộc chiến tranh Tây Nam xảy ra, và thể chế quan liêu Nhật Bản đã trở nên vững chắc. Năm sau đó Okubo Toshimichi bị ám sát. Nghĩa là, Okubo chỉ đã lập ra cơ chế quan liêu, chứ chưa thực tay điều động cơ chế đó. Nếu sau đó Okubo vẫn còn sống, thì chắc hẳn ông sẽ theo gót Bismarck lập ra thể chế độc tài. Rồi, cùng với nội chính, ông sẽ xía vào cả vấn đề ngoại giao, như sửa đổi hiệp ước. Những năm đầu của thời Minh Trị, ở trong nước Nhật đã có sự lo ngại là thể chế mạc phủ sẽ trở lại. Người ta lo ngại phiên chúa Satsuma sẽ lại trở thành Chinh Di Ðại Tướng Quân, lập ra mạc phủ với Okubo Toshimichi làm tể tướng độc tài. Có người cho rằng kẻ ám sát Okubo đã ôm ấp nỗi lo âu đó. Chính vì thế, về sau, tức là năm 1889 (niên hiệu Minh Trị năm thứ 22), bản Hiến pháp Ðế quốc Ðại Nhật Bản (Hiến pháp Minh Trị) được ban bố, đã có sự lo liệu không để cho thể chế mạc phủ tái lập nữa. Theo Hiến pháp Minh Trị, các Bộ trưởng (Ðại thần) đều được nối liền với vua (thiên hoàng), chứ thủ tướng không có quyền bổ nhiệm hay bãi nhiệm họ. Hơn nữa, quyền thống suất lục quân, hải quân cũng thuộc vua và được tách rời khỏi quyền quốc vụ của chính phủ. Tại sao người ta đã để cho mọi quyền lớn đều tập trung vào nhà vua, và các quyền hạn đều phân lập ra như vậy? Ðây chính là vì người ta lo ngại nếu tập trung quá nhiều quyền hạn vào một vị thủ tướng, thì ông này sẽ có thể hành sử quyền độc tài kiểu mạc phủ. Tuy Okubo Toshimichi đã chuẩn bị xong thể chế độc tài trước khi bị ám sát, nhưng ông quyết không bao giờ mở ra nhà mạc phủ. Lịch sử Nhật Bản có rất ít người độc tài. Những nhân vật độc tài có tầm nhìn xa trông rộng như Nobunaga hay Okubo đều đã bị ám sát. Sống trong hòa bình lâu dài rồi, Nhật Bản không cần có những người phát huy quyền lãnh đạo mạnh mẽ, cho nên một nhân vật nào đó nếu trở thành độc tài thì dễ bị ghen ghét. Thời Minh Trị, nhiều chí sĩ đã xả thân cho cải cách. Ðiều khiến họ hy sinh như vậy chính là cái chủ quan xã hội của họ. Ðó là sự nhiệt tâm của họ muốn lật đổ thể chế mạc phủ Tokugawa, một thể chế lấy sự “ổn định” làm nền tảng, để lập ra một thể chế mới, lấy “tiến bộ (khai hóa văn minh)”, lấy “hiệu năng (gia tăng sản xuất và gây dựng sản nghiệp)”, lấy “trung nghĩa (trung thành với quốc gia)” làm cơ sở luân lý xã hội. Okubo đã làm cho cuộc chiến tranh Tây Nam bùng ra, mà vẫn kiên quyết gây dựng thể chế quan liêu, hẳn là vì muốn đạt được ba chính nghĩa đó. Vì muốn lập ra nước Nhật không bị ngoại bang miệt thị, Okubo Toshimichi đã chọn chế độ quan liêu chỉ đạo, hướng tới xây dựng một nước Nhật có hiệu suất cao, có hiệu năng cao. Ðiều này đã có hiệu quả tốt trong khoảng 40 năm kể từ thời đại Okubo. Sau đó, là thời kỳ đám quan liêu quân đội đã hành động quá khích, quá lố, không thèm đếm xỉa đến ai cả. Sau chiến tranh thế giới thứ II, cơ chế quan liêu lại một lần tỏ ra có hiệu quả đối với sự phát triển và tăng trưởng. Thế nhưng ngày nay thì nó đã trở thành gông chân cùm tay, làm cho không thể cựa quậy được. Phải nói rằng dù với ý nghĩa tốt hay với ý nghĩa khó xử, Okubo Toshimichi cũng là một nhân vật trọng yếu đã dựng nên nước Nhật ngày nay vậy. Chú thích: [1] Nội các do thủ tướng Hashimoto Ryutaro cầm đầu, bắt đầu từ ngày 1/11/1996. Sách này xuất bản lần đầu tiên vào tháng 6/1997, thì lúc đó còn là thời kỳ hoạt động của nội các này. [2] Nội các do thủ tướng Suzuki Zenko dẫn đầu, từ 17/7/1980 tới 26/11/1982. [3] Nội các do thủ tướng Nakasone Yasuhiro cầm đầu, gồm có 3 đợt: đợt 1 từ 27/11/1982 tới 26/12/1983, đợt 2 từ 27/12/1983 tới 22/7/1986, đợt 3 từ 22/7/1986 tới 6/11/1987. [4] Ủy ban này được nội các Nakasone lập ra tháng 7/1983 và do Doko Toshio, lúc ấy là Chủ tịch Tập đoàn Toshiba làm chủ nhiệm. Ủy ban đã đưa ra bản báo cáo tháng 6/1986 để đáp ứng sự tư vấn của nội các về “phương sách thực hiện một chính phủ nhỏ trong sự lợi dụng sức sống của dân sự”. Dựa vào bản báo cáo này, chính phủ Nhật Bản đã quyết định chuyển cho dân sự kinh doanh ba công ty quốc doanh khổng lồ là Hệ thống đường sắt quốc doanh, Tổng Công ty bán độc quyền (thuốc lá, muối) và Tổng Công ty điện tín điện thoại. Tháng 4/1985 hai công ty sau đã được chuyển sang suôn sẻ cho dân sự kinh doanh, nhưng Hệ thống đường sắt quốc doanh mang món nợ quá lớn, phải tới tháng 4/1987 mới được phân cắt ra thành 7 công ty và chuyển sang cho dân sự kinh doanh. Hiện nay, tất cả những công ty dân sự này đều ở trong tình trạng kinh doanh tốt, không còn bị thua lỗ nữa. [5] NTT là viết tắt chữ Nippon Telephone & Telegraph, JT là viết tắt chữ Japan Tobacco. [6] Êlít là từ tiếng Pháp élite dịch âm, nghĩa là phần tử ưu tú. [7] Ðây là nói thời điểm sách này được soạn thảo, tức là năm 1998. Hiện nay, năm 2003, đã có loại hình cây xăng tự phục vụ này ở Nhật Bản rồi, tuy hãy còn là số ít. [8] Xem lời chú 16 Ch. 7. [9] Một bậc nguyên huân khác của thời Duy tân Minh Trị, đã có công chỉ huy và chiếm thành Edo không đổ máu, khiến cho mạc chúa Tokugawa phải trao trả lại quyền chính trị cho thiên hoàng Minh Trị, rồi trong chính phủ Minh Trị mới, đã được phong Ðại tướng lục quân, giữ chức Tham mưu, song vì chủ trương gửi quân sang Triều Tiên bị phe đối lập phản đối nên đã từ quan năm thứ 6 của niên hiệu Minh Trị (1874). Năm 1877, cử binh làm phản, song bị thua nên đã tự sát. Vụ này gọi là cuộc Chiến tranh Tây Nam. Mặc dầu kết thúc bi đát như vậy, song nhân vật Saigo Takamori vẫn được tôn trọng như là một công thần của sự hiện đại hóa Nhật Bản. Một ngôi tượng đồng lớn toàn thân Saigo ngay trước vườn thú Ueno, Tokyo, đã minh chứng điều này. [10] Hàn là quốc hiệu của triều Lý ở bán đảo Triều Tiên. Vậy Hàn là tên gọi đồng nghĩa với Triều Tiên. Chinh Hàn là chinh phạt Hàn, là xâm lược bán đảo Triều Tiên. [11] Hội nghị tổ chức ở Osaka giữa phe phái Okubo Toshimichi và phe đã từ chức nhân cuộc tranh luận “chinh Hàn”. Kết quả của hội nghị này là Itagaki Taisuke và Kido Takayoshi phục chức, và những cơ chế quân chủ lập hiến được xác lập tại Nhật Bản. [12] Nguyên văn Shokusan Kôgyô (Thực sản Hưng nghiệp), nghĩa là Gia tăng sản xuất và Gây dựng ngành nghề sản xuất (sản nghiệp), tức là công nghiệp, nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp, v.v.. [13] Ðại lão là chức quan cao nhất của mạc phủ Tokugawa, tức là tương đương với chức Thủ tướng hiện đại. [14] Nguyên văn là “Bunmei Kaika (văn minh khai hóa)”, tức là mở mang hiểu biết làm cho xã hội văn minh. [15] Nguyên văn là “Kuro-Fune no Raiko”. Những con tàu đen là chỉ hạm đội của Ðô đốc Perry của hải quân Mỹ, đã tới Nhật Bản tháng 7 năm 1853, mang theo quốc thư của tổng thống Mỹ, đòi Nhật Bản mở cửa thông thương. Năm sau, hạm đội trở lại vịnh Edo (nay là vịnh Tokyo), ký hòa ước ở Yokohama, mở đầu cho thời kỳ mở cửa của Nhật Bản. [16] Mori Arinori (1847-1889): Phiên sĩ phiên bang Satsuma, chính trị gia thời Minh Trị. Du học Âu Mỹ, gia nhập chính phủ Minh Trị, làm tới Bộ trưởng Giáo dục. Có công ban bố pháp lệnh học đường, củng cố cơ sở chế độ giáo dục. Bị coi là tôn thờ chủ nghĩa Âu Mỹ hóa, nên bị phần tử chủ nghĩa quốc túy ám sát đúng ngày ban bố Hiến pháp đế quốc, tức là Hiến pháp Minh Trị, ngày 11 tháng 2 năm 1889 (niên hiệu Minh Trị năm thứ 22). [17] Theo chế độ giai cấp thời Minh Trị, thì giai cấp trên hết là quí tộc (hoa tộc), thứ đến là sĩ tộc, và dưới cùng là bình dân. Tuy phân chia như vậy, nhưng về mặt pháp lý, sĩ tộc không được quyền lợi ưu tiên nào cả. Đến năm 1947 thì chế độ giai cấp bị phế bỏ. [18] Danh tướng Phổ đã đánh thắng hai trận chiến tranh Phổ - Áo và Phổ - Pháp, và đã đóng góp lớn lao vào sự nghiệp thống nhất đế quốc Ðức. [19] Tổng Cục Khí tượng Nhật Bản chia độ lắc động đất ra làm 10 bậc, đánh số từ 0 tới 7. Như vậy, độ lắc 7 là độ lắc lớn nhất. Sở dĩ 10 bậc mà chỉ có 8 con số là vì có số có 2 bậc, như 6 nhẹ, 6 mạnh, chẳng hạn.