on đường tới “gấp đôi thu nhập” Người thứ 11 trong “Mười hai người lập ra nước Nhật”, là Ikeda Hayato. Nói tới Ikeda Hayato, ai nấy đều biết đó là thủ tướng Nhật Bản từ năm 1960 (niên hiệu Chiêu hòa thứ 35) tới 1964, tức là năm Nhật Bản đứng ra đăng cai Thế vận hội Tokyo. Trong biết mấy đời thủ tướng thời hậu chiến, tại sao lại chỉ chọn một mình Ikeda Hayato làm một trong “Mười hai người lập ra nước Nhật?” Lý do: Ông là người đã dẫn dắt Nhật Bản thời hậu chiến trở thành đại cường quốc kinh tế. Không cứ gì thành tích ông đã đạt được về sự tăng trưởng kinh tế, điểm quan trọng nhất là ông đã thảo ra “Kế hoạch gấp đôi thu nhập” trong đó ông đã dương cao lý tưởng đưa Nhật Bản lên hàng “đại cường quốc kinh tế”. Lý tưởng cho một nước có nhiều thể loại: Nước được toàn thế giới tôn trọng về mặt chính trị, nước được vị nể và nương tựa về sức mạnh quân sự, nước được ngưỡng mộ về mặt văn hóa, nước được mỗi người yêu thích vì con người vui nhộn, v.v.. Thế mà Ikeda Hayato đã đặt cho Nhật Bản lý tưởng là trở thành đại cường quốc kinh tế, rồi ông thuyết phục được mọi người đồng ý với ông. Nghĩa là, nội các Ikeda đã tuyên bố “dốc toàn lực cho chính sách gấp đôi thu nhập” và đã được toàn dân ủng hộ mạnh mẽ. Việc này một mặt đóng góp vào sự phát triển kinh tế ngày nay, mặt khác đã sinh ra quan niệm coi đồng tiền là trên hết, và như vậy đã tạo ra “xã hội trọng quyền lực của đồng tiền”. [1] Cũng có thể nói, nó đã làm nẩy sinh ra cấu tạo công nghiệp sản xuất đại trà theo quy cách, cấu tạo địa phương kiểu đô thị tập trung, hay đã biến Nhật Bản thành xã hội chức tước bổng lộc hay “xã hội chức lộc”, trong đó toàn dân Nhật trở thành “người xí nghiệp”. Với ý nghĩa trên, Ikeda Hayato đáng được coi là có công lao lớn nhất trong các thủ tướng Nhật Bản trên phương diện quyết định ý nghĩa và luân lý của xã hội Nhật Bản. Trong số các Thủ tướng Nhật Bản thời hậu chiến, người ta thường hay kể đến bốn người: Yoshida Shigeru, Ikeda Hayato, Sato Eisaku, rồi Tanaka Kakuei. Trong bốn người, Yoshida Shigeru là một nhân vật lớn, nhưng hầu hết những quyết định trọng yếu của ông đều đã xuất phát từ quân đội chiếm đóng, tức là từ MacArthur. Trong khi đó, Ikeda Hayato với sáng kiến riêng, đã để lại ảnh hưởng lớn đối với lối sống của người Nhật, hay đúng ra, đối với thực trạng xã hội Nhật Bản ngày nay. Trước hết, như thường lệ, hãy xét qua lai lịch nhân vật này. Một công chức (quan liêu) thành đạt muộn MIkeda Hayato sinh năm 1899 (niên hiệu Minh Trị thứ 32) tại tỉnh Hiroshima. Như thế ông có tuổi chẵn bằng số năm của thế kỷ thứ XX. [2] Năm 1925, ở tuổi 25, ông tốt nghiệp Trường Ðại học luật, thuộc Ðại học quốc gia Kyoto. Như vậy, ông đã tốt nghiệp đại học chậm từ 2 tới 3 năm. Có lẽ ông không phải là loại học giỏi. Một phần là vì sức khỏe không được tốt, mãi tới 18 tuổi ông mới vào trường Ðệ ngũ Cao đẳng. [3] Rồi để tiến lên Ðại học Kyoto, ông đã phải mất 4 năm trong khi đáng lẽ chỉ mất 3 năm thôi. Không thể nói như vậy là ông học kém, nhưng nếu so sánh với người tiền nhiệm của ông, tức là Thủ tướng Kishi Nobusuke, một người đã từ Ðệ nhất Cao đẳng tiến lên Ðại học Quốc gia Tokyo rồi tốt nghiệp trong thời hạn ngắn nhất, thì phải nói là ông đã bị vất vả lắm trong kỳ thi tuyển sinh. Tốt nghiệp đại học xong, ông lập tức vào làm công chức Bộ Kho bạc. Hai năm sau, 27 tuổi, ông đã lấy người con gái thứ ba của Bá tước Hirosawa Kinjiro, tên là Naoko. Người chủ hôn là Bộ trưởng Kho bạc đương thời Inoue Junnosuke. Cứ nhìn tên tuổi những người này, ta có thể thấy ông là công chức êlít (ưu tú), được đánh giá cao trong Bộ Kho bạc. Nhưng chẳng bao lâu, năm 1932, Naoko đã vi vã qua đời vì bệnh tim mạch. Năm trước đó, chính Ikeda Hayato cũng bị bệnh, phải xin nghỉ việc để dưỡng bệnh. Nghe nói đó là một bệnh nan y (một bệnh phát ban). Vì thế, ông đã cùng mẹ đi hành hương 88 linh địa trên đảo Shikoku. [4] Khỏi bệnh, năm 1934, ông trở lại Bộ Kho bạc làm việc. Năm sau, tái hôn. Người vợ sau tên là Machie. Cuộc chiến Thái bình dương bùng nổ, [5] rồi năm 1942, ở tuổi 42, ông được thăng trưởng phòng Phòng Thuế số 1, Cục Thuế. Thời đó trưởng phòng Thuế số 1 có hàm cán bộ cấp ba. Ở tuổi 42 mà còn lẹt đẹt ở địa vị này, là quá muộn. Chắc tương lai cũng không có triển vọng nào. Năm 1944, ông được thăng chức cục trưởng Cục Tài vụ Tokyo. Nhưng chức này cũng chỉ là cán bộ cấp hai. Thời ấy, đáng lý ông phải lên tới chánh văn phòng bộ trưởng, mới xứng. Ðịa vị của ông như vậy cũng tương tự như ngày nay đã đến tuổi 56, 57 mới lên được tới chức cục trưởng một cục địa phương. Nói cách khác, ông đã đi chệch quỹ đạo danh vọng. Tóm lại, xem lý lịch Ikeda Hayato cho tới đây, dù bị bệnh đến phải nghỉ việc, nhưng xét ra ông đã phải phấn đấu khá gian nan với cuộc đời công chức. May thay, năm 1945, ông đã được thăng chức cục trưởng Cục Thuế. Là cục trưởng Cục Thuế rồi, ông có thể có cơ hội làm tổng cục trưởng Tổng cục Thuế quốc gia. Như vậy là ông đã trở lại được quỹ đạo danh vọng. Vừa lúc ấy, cuộc chiến tranh chấm dứt, rồi bộ Tổng chỉ huy quân đội chiếm đóng bắt đầu cuộc thanh trừng “công chức” [6]. Cán bộ cao cấp Bộ Kho bạc nhiều người bị thanh trừng. Không biết có phải vì vậy không, năm 1947, ở tuổi 47, Ikeda Hayato bỗng được nâng lên làm chánh văn phòng Bộ Kho bạc. Có thể nói là bản thân Ikeda dẫu muốn cũng khó được địa vị này. Thật đã tới buổi hạnh vận của Ikeda vậy. Thế nhưng, năm sau 1948, ở tuổi 48, ông đã từ quan. Nghe nói lý do là sự bất đồng ý kiến với nội các liên hiệp Katayama - Ashida. Thực tế là thế nào thì không rõ. Năm sau, 1949, nhân có cuộc tổng tuyển cử Hạ nghị viện ngày 23 tháng 1, ông ứng cử và ngay lần đầu tiên đã đắc cử. Rồi ngày 26 tháng 2, nhân thủ tướng Yoshida Shigeru thành lập nội các lần thứ ba, ông đã một bước nhẩy vọt lên chức bộ trường Bộ Kho bạc. Cuộc thanh trừng công chức cao cấp làm thiếu hụt nhân tài khiến ông đã được đắc dụng, rồi lại nhờ thói quen độc tài của Thủ tướng Yoshida, ông bỗng dưng nhẩy vọt từ chánh văn phòng lên bộ trưởng Kho bạc chỉ trong vòng vài tháng. Thời nay, phải là 57, 58 tuổi mới lên tới chánh văn phòng. Sau đó, ứng cử nghị viên, nếu đắc cử cũng phải ba hay bốn nhiệm kỳ sau mới mong được cất nhắc lên làm bộ trưởng. Ấy là chưa kể bộ trưởng Kho bạc là vị trí trọng yếu, [7] không dễ gì giành được. Nhờ có cuộc chính biến [8] nên đã được làm bộ trưởng Kho bạc rất sớm, là trường hợp đảng trưởng Takemura Masayoshi của Ðảng Sakigake. Ấy thế mà ông này trước đó cũng đã làm thủ hiến tỉnh hai nhiệm kỳ, đã đắc cử nghị viên ba nhiệm kỳ và đã 60 năm tuổi. Nhưng, ở thời ngay sau chiến tranh mà nghị viên mới đắc cử lần thứ nhất đã được chọn làm bộ trưởng, cũng không đáng ngạc nhiên. Thời ấy, tuổi 49 là tuổi lão thành hơn thời nay, đồng thời vì cuộc thanh trừng công chức nên rất nhiều người trẻ tuổi đã được nâng lên chức trọng quyền cao. Ðó là “thế hệ thứ nhất hậu chiến”. Ikeda đã từ chánh văn phòng nhẩy vọt lên làm bộ trưởng Kho bạc. Hơn thế nữa, trong nội các Yoshida lần thứ ba, bộ trưởng Kho bạc lại kiêm luôn cả bộ trưởng Thương mại quốc tế và công nghiệp. Nghĩa là ông đã chiếm vị trí trung khu của các bộ trưởng liên quan tới kinh tế. Ðến đợt nội các Yoshida lần thứ tư, ông cũng giữ chức bộ trưởng Thương mại quốc tế và công nghiệp kiêm bộ trưởng Quy hoạch kinh tế. Sau đó, ông đã giữ chức chủ nhiệm Ủy ban điều hợp chính sách, [9] nghĩa là nghiễm nhiên đóng vị trí trung tâm của chính giới Nhật Bản. Trong thời kỳ nội các Yoshida đợt thứ năm, ở Nhật Bản đã xảy ra một vụ xcăngđan về tiền trợ cấp cho kế hoạch đóng tàu. Vụ này gọi là vụ xcăngđan đóng tàu. [10] Một người nữa được coi là rất sáng giá dưới trướng Thủ tướng Yoshida, tức tổng thư ký Sato Eisaku, lúc ấy có trát bắt giữ. Nhưng bộ trưởng Tư pháp lúc ấy, Inukai Takeru, đã sử dụng quyền chỉ huy đối với viện trưởng Viện Kiểm sát để cản lệnh bắt giam Sato Eisaku. Ðây là lần đầu tiên trong lịch sử xcăngđan của chính giới Nhật Bản thời hậu chiến mà quyền chỉ huy đã được sử dụng. Việc sử dụng quyền chỉ huy như vậy, bị người đời chỉ trích là lạm quyền, Inukai Takeru phải từ chức bộ trường Tư pháp, nội các đổ, nhưng Sato Eisaku thoát khỏi bị bắt. Lúc đó, chỉ có trát bắt giam đối với Sato Eisaku thôi, nhưng tin đồn là Ikeda Hayato cũng có nghi vấn. Vì quyền chỉ huy đã được sử dụng, Sato Eisaku đã thoát khỏi bị bắt, mà Ikeda Hayato cũng không thấy có trát đòi nữa. Nhân vụ bê bối đóng tàu đó, ngày 28 tháng 2 Ikeda đã ra điều trần trước quốc hội với tư cách người tham khảo. [11] Nhưng năm tháng sau, ông nhậm chức tổng thư ký đảng Tự do. Xem như vậy đủ thấy bầu không khí chính trị bất chấp dư luận của những năm đầu thời hậu chiến. Nghĩa là, vụ bê bối đóng tàu này đã không để lại dấu ấn xấu nào đối với lý lịch chính trị của cả Sato Eisaku lẫn Ikeda Hayato. Từ đó về sau, Ikeda Hayato trở thành nhân vật số một sành sỏi vấn đề tài chính, nên trong nội các Ishibashi, nội các Kishi đợt một, ông đã giữ chức bộ trưởng Kho bạc, rồi bộ trưởng vô nhiệm sở trong nội các Kishi đợt hai, bộ trưởng Thương mại quốc tế và công nghiệp trong nội các Kishi cải tổ. Thế rồi, nhân vụ rối loạn vì cuộc đấu tranh phản đối Hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ năm 1960, nội các Kishi tổng từ chức, Ikeda Hayato liền có cơ hội lập nội các nắm lấy chính quyền. Ðó là ngày 19-7-1960. Cho tới lúc đó, Ikeda Hayato mới đắc cử nghị viên Hạ nghị viện được năm lần. Nếu là thời nay, thì như vậy ông mới chỉ được chức “bộ trưởng dự tiệc”. [12] Trước nay, ông chỉ được thế gian coi là “học trò giỏi của trường Yoshida”, một đàn em đắc lực của Yoshida, nhưng nay ở tuổi 60, Ikeda Hayata mới bắt đầu phát huy bản lãnh của mình. Bắt đầu tôn thờ GNP (Tổng sản phẩm quốc dân) Ðến đây, tưởng cần nhắc qua nội các Kishi, tức là nội các trước nội các Ikeda. Năm 1951, đồng thời với Hòa ước San Francisco, Hiệp ước An ninh Nhật-Mỹ cũng được ký kết với thời hạn là mười năm. Năm 1961 là lúc hiệp ước hết hạn mười năm đó, và từ năm này trở đi, nếu muốn, “mỗi bên đều có thể thông báo cho bên kia ý định hủy bỏ hiệp ước một năm trước khi thực sự hủy bỏ”. Tháng 2 năm 1957, nhậm chức thủ tướng, Kishi Nobusuke đã sửa đổi hiệp ước cho tương xứng với hai nước độc lập và tìm cách kéo dài hiệp ước thêm mười năm. Nghĩa là ông muốn “cố định hóa thể chế hậu chiến” vì theo ông, Nhật Bản đương nhiên nên đứng vào phe tây phương. Nhưng, một cuộc lộn xộn vĩ đại đã diễn ra quanh vấn đề này. Ðó là cuộc đấu tranh “phản đối Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ năm 60”. Ðúng lúc đó, “thể chế năm 55” cũng đã đứng vững, Nhật Bản đang mạnh tiến trên con đường công nghiệp hóa từ một “Thụy Sĩ ở Viễn đông” kiểu MacArthur. Một biểu hiện rõ rệt của sự mạnh tiến này là sự hợp lý hóa (cụ thể hơn là “lưu thể hóa”) năng lượng. Tức là, động thái đổi nguồn năng lượng từ than đá (chất rắn) nội địa sang nguồn năng lương dầu mỏ (lưu thể) nhập cảng. Trong quá trình này, sự thu nhỏ công nghiệp than đá là tất yếu. Ðến nỗi, mỏ than lớn nhất Nhật Bản, là Mitsui Mi’ike, cũng bắt đầu giảm bớt công nhân. Vì thế, phản đối sự việc này, công đoàn đã mở cuộc tranh nghị lớn. Ðó là cuộc đấu tranh Mitsui Mi’ike, thường gọi là “cuộc đối đầu giữa tổng tư bản và tổng công đoàn”. Trong tình thế hỗn độn như vậy, nội các Kishi tháng 5 năm 1960 đã cương quyết cho biểu quyết Dự án Sửa đổi Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ tại Hạ nghị viện, rồi ngồi chờ cho Hiệp ước được thành lập tự nhiên [13] để tổng từ chức. Nội các Ikeda tiếp nối nội các Kishi. Có thể nói là nội các này đã được thành lập vào lúc sự đối lập tả hữu trong nội bộ Nhật Bản, tức là sự phản ánh cấu tạo chiến tranh lạnh đối lập Ðông - Tây, đã lên tới tột điểm. Lúc đó, lực lượng cánh tả đã thấm mệt vì cuộc đấu tranh kéo dài, dân chúng thì chán ngấy biểu tình và míttinh. Ikeda đã khéo léo lợi dụng tình trạng tâm lý ấy. Hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ là vấn đề chính trị quốc tế trọng đại đến nỗi nội các Kishi bị đổ. Thế mà, thủ tướng Ikeda Hayato, người kế vị, lại không hề đả động gì tới vấn đề này cả. Ông chỉ một lòng hướng về những vấn đề kinh tế thôi. Ngày 19 tháng 7 nội các ra đời, thì chỉ một tháng rưỡi sau, tức là ngày 5 tháng 9, ông đã tuyên bố “Kế hoạch gấp đôi thu nhập”. Chính phủ chính thức quyết định bằng nghị quyết của nội các là ngày 27 tháng 12 năm ấy. Nghĩa là trong sáu tháng kể từ khi nội các Kishi đổ cho tới lúc nội các quyết nghị “Kế hoạch gấp đôi thu nhập”, ông đã cố ý dập tắt ý thức đối với vấn đề chính trị quốc tế và sự đối lập công nhân - giới chủ, đã hướng sự quan tâm của dân chúng vào vấn đề tăng trưởng kinh tế. Kế hoạch gấp đôi thu nhập”, chính sách trung tâm của nội các Ikeda, chính sách đã có ảnh hưởng trọng yếu đối với Nhật Bản, thực ra bắt nguồn từ “Kế hoạch gấp đôi lương tháng” của nội các Kishi. Nội các Kishi một mặt xúc tiến việc sửa đổi Hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ, mặt khác tiến hành “Kế hoạch gấp đôi lương tháng” coi như là chính sách kinh tế của mình. Sáng kiến này đúng về mặt lịch sử, nhưng vụng về mặt chính trị. Như thấy trong cuộc đấu tranh Mitsui Mi’ike đã kể trên, sự hợp lý hóa ngành nghề và sự quốc tế hóa kinh tế (nhập cảng nguyên liệu dầu thô rẻ tiền) là điều không tránh khỏi trong đường lối tăng trưởng kinh tế cao độ. Ðiều này có nghĩa là phải hội nhập vào phe kinh tế tự do của tây phương. Nói cách khác, tăng trưởng kinh tế bị coi là “kẹo ngọt [14] của đường lối theo đuôi Mỹ”. Thành ra trong cơn vũ bão của làn sóng phản đối Hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ, chính sách tăng trưởng kinh tế cao độ cũng bị lu mờ đi. Nhưng, Ikeda Hayato đã nắm vấn đề từ quan điểm chuyên gia, đã tuyên bố chính sách “gấp đôi tổng sản phẩm quốc dân (GNP)”, một ngôn từ khó hiểu ngay với chuyên gia thời đó chứ đừng nói gì tới thường dân. Nói “gấp đôi lương tháng” và nói “gấp đôi thu nhập” thì nội dung khác nhau. “Kế hoạch gấp đôi lương tháng” là làm cho thu nhập cá nhân tháng tháng tăng lên gấp đôi, một chuyện gần gũi dễ hiểu đối với quốc dân. Nhưng cũng vì thế nó có màu sắc chính trị rõ rệt và do đó bị coi là “kẹo ngọt để đổi lấy Hiệp ước an ninh”. So với trên, “Kế hoạch gấp đôi thu nhập” của nội các Ikeda có mục tiêu làm tăng GNP lên gấp đôi, và như vậy mang tính chất tổng tư bản hơn. Nghĩa là Ikeda và các cố vấn của ông nghĩ tới nền kinh tế quốc dân hơn là tới sinh hoạt hàng ngày của mỗi người. Việc này khá phức tạp phải là chuyên gia kinh tế mới thảo luận khúc chiết được. Ðồng thời, cũng khó “thò đuôi” ra cho người ta tóm lấy. Cái may của Ikeda là thời đó, “thể chế năm ’55” đã xác lập, đông đảo quốc dân đã trở thành “người xí nghiệp”. Nhờ thế, nói “gấp đôi thu nhập” được cả giới kinh doanh lẫn giới làm công hưởng ứng, ủng hộ, hơn là nói “gấp đôi lương tháng”. Gặp dịp phồn thịnh chưa từng thấy từ thời Jinmu “Kế hoạch gấp đôi thu nhập” của nội các Ikeda rất được hoan nghênh. Chẳng mấy chốc, GNP đã trở thành lời cửa miệng của mỗi người Nhật Bản. Nội các Ikeda đã đặt mục tiêu mười năm (từ 1960 tới 1970) tăng GNP lên gấp đôi. Không những chỉ đưa ra kế hoạch tổng thể, mà cả những kế hoạch thực thi tỉ mỉ cũng lần lượt được công bố. Ví dụ, dựa vào Luật khai thác tổng hợp toàn quốc, “Kế hoạch phát triển tổng hợp toàn quốc Nhật Bản” với mục tiêu chỉnh đốn từng địa vực, đã được hoạch định năm 1962. Từ sau đó, kế hoạch này đã được làm lại thành “Kế hoạch phát triển tổng hợp toàn quốc mới” năm 1969, rồi “Kế hoạch Phát triển tổng hợp toàn quốc đợt ba”, “Kế hoạch phát triển tổng hợp toàn quốc đợt bốn”. Cái khéo của Ikeda Hayato là, bằng những kế hoạch phát triển như vậy, ông đã mở rộng hoạt động xây dựng công cộng, rồi bằng những “đô thị công nghiệp mới” ông đã tập trung được sự phát triển vào từng nơi một cách hiệu quả, làm cho giới công nghiệp và dân chúng toàn quốc đều kỳ vọng. Hiệu quả kinh tế đã cao, hiệu quả chính trị càng cao hơn vì nó làm cho mỗi người phải nương tựa vào Ðảng Dân chủ tự do. Rồi, từ xuất cảng, nhập cảng tới công kỹ nghệ và nông lâm thủy sản nghiệp, nhất nhất đều được chỉ rõ bằng “chỉ tiêu kinh tế chủ yếu trong kế hoạch gấp đôi thu nhập quốc dân”. Ông lần lượt cho công bố kế hoạch chi tiết: Ngành nghề nào thì làm thế nào sẽ đạt chỉ tiêu. Ðồng thời trợ cấp cho những ngành nghề như vậy trong khi làm theo kế hoạch. Cũng may là, sau khi kế hoạch gấp đôi thu nhập được công bố, nền kinh tế Nhật Bản đã bước vào thời kỳ phồn thịnh. Trong thập niên 1950, kinh tế Nhật Bản cùng với hiệu quả của phiêu ngữ “đuổi kịp” để phục hưng, đã tăng trưởng cao độ với tỉ lệ bình quân hàng năm là 9,6%. Sang đến thập niên 1960, tỉ lệ này là 10,3%. Nhất là, trong bốn năm đầu của nội các Ikeda, tức là kể từ hậu bán năm 1960 trở đi cho tới hết Olympic Tokyo mùa Thu năm 1964, Nhật Bản gặp được lúc làm ăn phát đạt như chưa từng thấy, nên đã có câu “dịp phồn thịnh kể từ thời Jinmu”. [15] Sự hâm mộ cuồng nhiệt đối với “vua kinh tế Ikeda” quả đã có điều kiện cơ sở để đứng vững. Thế mà, chỉ đến cuối năm 1964, cổ phiếu bỗng sụt giá, thị trường đượm màu sắc kinh tế suy sụp. Ikeda, lợi dụng phong thái chất phác của kẻ lận đận đường công danh như mình, hay dùng câu nói cửa miệng “Tôi không nói dối đâu”, nhưng thị trường cổ phiếu sụt giá đã làm tổn thương đến thanh danh của ông rất nhiều. Từ cuối năm 1964, người ta lật ngược câu nói cửa miệng của Ikeda thành câu nói bỡn cợt “Ikeda nói dối”. Tuy nhiên, may hay rủi thì không biết, nhưng Ikeda đã mắc bệnh ung thư cuống họng, khiến ông phải từ chức thủ tướng tháng 11 năm ấy, rồi ngày 13 tháng 8 năm sau, 1965, ông mất. Ikeda Hayato làm thủ tướng vẻn vẹn có 4 năm 3 tháng. So với Yoshida Shigeru (5 năm 2 tháng) hay Sato Eisaku (6 năm 8 tháng) thì thời gian làm thủ tướng của ông ngắn hơn. Thế nhưng, trong khoảng thời gian ngắn đó, tư tưởng kinh tế ưu tiên do ông cấy trồng và cơ chế quan liêu lãnh đạo để thực hiện tư tưởng đó, thì ngày nay cũng không hề suy suyển. Bởi vì “Kế hoạch gấp đôi thu nhập” do Ikeda Hayato hoạch định và thực hiện đã thành công vĩ đại. Thành công vượt xa kế hoạch “Kế hoạch gấp đôi thu nhập” thành công lớn là vì đã đi đúng con đường tốt nhất mà toàn dân mong chờ. Trước nhất, về thành tích kinh tế, thành quả đạt được đã vượt xa mục tiêu. Ðể tăng GNP lên gấp đôi trong 10 năm, mỗi năm phải đạt được sự tăng trưởng kinh tế 7,2%. Thế mà trong thập niên 1960, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của Nhật Bản là 10,3%. Với tốc độ này, chỉ cần 6 năm rưỡi để tăng GNP lên gấp đôi. Nghĩa là tới năm mục tiêu của kế hoạch (năm 1970) thì kế hoạch vượt hơn hẳn mục tiêu quá xa. Một điểm nữa là khi “Kế hoạch gấp đôi thu nhập” này được công bố có rất nhiều ý kiến lo lắng và phản đối. Nhất là các đảng đối lập đã phê phán quyết liệt. Nhưng lời phê phán của họ không trúng một chút nào cả. Họ nói, nếu “Kế hoạch gấp đôi thu nhập” được thực thi, người giầu sẽ càng giầu hơn, và người nghèo sẽ càng nghèo hơn. Nghĩa là họ lo sợ khoảng cách thu nhập sẽ ngày một gia tăng. Nhưng thực tế là trong khoảng thời gian đó, khoảng cách thu nhập mỗi ngày một thu nhỏ lại. Họ còn nói, nếu áp dụng chính sách khuếch đại một cách quá đáng với mục đích tăng trưởng kinh tế, thì lạm phát sẽ hoành hành. Quả vật giá có tăng lên, nhưng tính bằng số phần trăm hàng năm thì sự gia tăng cũng chỉ trong vòng an toàn mà thôi. Họ phản đối là nếu áp dụng chính sách ưu đãi xí nghiệp để xúc tiến phát triển kinh tế một cách mạnh bạo, thì sẽ gây ra nhiều “rạn nứt”. Nghĩa là đó đây sẽ xảy ra nạn “giảm biên chế”, nạn thất nghiệp sẽ tràn lan. Hơn nữa, thành thị sẽ bành chướng một cách vô trật tự, tội phạm sẽ hoành hành, khiến cho thế tình trở thành bất an. Nhưng, thực tế là tỷ lệ thất nghiệp giảm đi, tỷ lệ tội phạm cũng xuống thấp. Tóm lại, những phê bình, phê phán của các thế lực đối lập đối với “Kế hoạch gấp đôi thu nhập” của nội các Ikeda, đã không trúng một chút nào cả. Nếu chỉ coi những vấn đề đã được bàn đến khi “Kế hoạch gấp đôi thu nhập” được công bố, thì ý nghĩ của Ikeda đúng. Nhưng, ở góc cạnh hoàn toàn khác, góc cạnh mà chính các phe phái đối lập cũng không hề đoán ra, đã nẩy sinh nhiều vấn đề rắc rối. Ðó là vấn đề ô nhiễm môi trường, vấn đề dân số quá đông đúc và quá thưa thớt. Những nhà phê bình “Kế hoạch gấp đôi thu nhập” cũng không đoán trước được ảnh hưởng này, nhưng tới năm 1970, tức là năm mục tiêu của kế hoạch, thì tình trạng đã trở nên nguy kịch lắm. Ý nghĩa của câu nói “người nghèo hãy ăn lúa mạch” Vậy, Ikeda Hayato là người có tư tưởng như thế nào, hành động ra sao và đã để lại ảnh hưởng gì đối với người Nhật ngày nay? Trước hết, Ikeda Hayato để lại một “tập ngôn từ” đầy phóng ngôn kỳ ngôn. Thử nghe câu sau đây: “Người nghèo hãy ăn lúa mạch!” Câu này ông đã nói ra khi làm bộ trưởng Kho bạc trong nội các Yoshida đợt ba (1950). Thật ra, chi tiết câu nói của ông là như sau: “Hãy trở lại tập tục xưa nay... Người thu nhập ít ăn nhiều lúa mạch, người thu nhập nhiều ăn toàn gạo. Tôi chỉ muốn làm theo nguyên tắc kinh tế như vậy”. Câu nói là như vậy, nhưng đã bị dịch ra thành ngôn ngữ báo chí như trên. Một câu nữa như sau: “Dăm mười kẻ buôn bán bất chính mà có bị phá sản rồi tự sát thì cũng đành vậy thôi!” Lời phóng ngôn như vậy khi loan truyền ra, đã bị người đời chỉ trích gắt gao. Ðúng ra, để trả lời câu hỏi về nguy cơ phá sản của những xí nghiệp vừa và nhỏ, ông đã trả lời như sau: “Những người buôn bán trái với những nguyên tắc chính đáng, như đầu cơ tích trữ, thì dẫu dăm mười người có bị phá sản thì điều đó cũng là bất khả kháng”. Ông nói mềm dẻo như vậy, không hề đả động tới “tự sát”. Ikeda Hayato không hề nổi giận mỗi khi báo chí bóp méo lời nói của ông một cách khôi hài. Ðiều này làm ông được báo chí ưa thích. Năm 1949, khi Ikeda nhậm chức bộ trưởng Kho bạc trong nội các Yoshida đợt ba, thì đó là lúc bắt đầu của thời kỳ làm ăn khó khăn và cái gọi là Ðường lối Dodge [16] được công bố. Trong thời chiến tranh, ngân sách lớn đã được tiêu dùng cho quân bị quân trang. Sau chiến tranh, tiền cũng đã được rải ra nhiều cho binh sĩ giải ngũ. Thế rồi lại phải tiêu nhiều tiền cho công cuộc phục hưng. Nghĩa là tiền đã được rắc ra rất nhiều. Kết quả là sự lưu thông tiền tệ gia tăng và nạn lạm phát ác tính đã phát sinh. Ðể chặn đứng tình trạng này, chỉ còn một cách là siết chặt lưu thông tiền tệ. Vì vậy, không tránh khỏi tình trạng làm ăn khó khăn, buôn bán trì trệ. Chỉ đạo chính sách siết chặt lưu thông tiền tệ là công sứ Dodge. Ông này trước là thống đốc Ngân hàng Detroit ở Mỹ, được MacArthur mời và đã được chính phủ Mỹ cử sang Nhật Bản. Ông đã áp dụng chính sách siết chặt không thương tiếc. Nhờ vậy, nạn lạm phát được chặn đứng và vật giá ổn định lại. Nhưng cũng vì thế tiền tệ lưu thông bị tắc nghẽn khiến cho các xí nghiệp vừa và nhỏ nối đuôi nhau phá sản. Trong hoàn cảnh đó, bộ trưởng Kho bạc Ikeda Hayato chủ trương rằng, với chính sách tài chính siết chặt Dodge như vậy, nếu có dăm mười xí nghiệp vừa và nhỏ phá sản, hoặc nếu người nghèo có phải ăn lúa mạch, thì âu cũng không thể tránh khỏi. Xem như thế đủ thấy cái tư tưởng tiềm ẩn trong lời nói của Ikeda Hayato là “tuân theo nguyên lý kinh tế”. Nghĩa là theo nguyên lý kinh tế, nếu có người bị phá sản thì đó là chuyện không tránh được. Người có tài, có vận, có nỗ lực mà trở nên giầu có, được ăn gạo, được tiêu xài nhiều, còn người không được như vậy đành chịu ăn lúa mạch, đành chịu tiêu xài ít. Sự cách biệt như thế cũng là chuyện đương nhiên. Lời nói đầu tiên khi lên làm bộ trưởng Kho bạc đã là sự khẳng định nguyên lý kinh tế như vậy, cho nên, điểm này có ý nghĩa trọng yếu trong vấn đề tìm hiểu tư tưởng của Ikeda. Năm 1956 Ikeda Hayato lại làm bộ trưởng Kho bạc trong nội các Ishibashi Tanzan (nội các kéo dài trong 2 năm 1956 - 1957). Lúc này, quân đội chiếm đóng không còn nữa, và “thể chế năm 55” đã xác lập. Ikeda đã tự mình đưa ra và tiến hành chính sách tài chính tích cực. Chính sách như vậy là ngược hẳn lại Ðường lối Dodge của nội các Yoshida đợt ba. Thời đó có câu “Một trăm tỷ giảm thuế, một trăm tỷ đầu tư”. Nghĩa là tăng chi phí xây dựng công trình công cộng một trăm tỷ Yen, thì cũng giảm thuế một trăm tỷ Yen. Một trăm tỷ Yen thời đó có giá trị khác xa với một trăm tỷ Yen thời nay, bởi vì lúc đó nó gần bằng một phần mười tổng ngân sách quốc gia. Nếu là thời nay, câu nói phải là “bảy ngàn tỷ giảm thuế, bảy ngàn tỷ đầu tư”. Ðó, Ikeda thi hành chính sách tài chính tích cực như vậy đó. Dẫu có phải viết hàng chữ đỏ trong sổ tài chính, ông vẫn tiếp tục phục hồi sự phồn thịnh, phát triển kinh tế. Nhờ thế số thuế thu gia tăng, nhà nước giầu có hơn, và kinh tế Nhật Bản tăng trưởng lên. So với chính sách thắt lưng buộc bụng “người nghèo ăn lúa mạch” thời nội các Yoshida, chính sách tài chính của ông trở nên khác hẳn. Song tựu trung, chúng có một điểm chung là, Ikeda chỉ làm theo nguyên lý kinh tế. Có một điều nên chú ý là Ikeda làm theo nguyên lý kinh tế, là trong bối cảnh quan liêu chỉ đạo, chứ không phải trong bối cảnh kinh tế thị trường tự do. “Kế hoạch gấp đôi thu nhập” của Ikeda là tiến hành phát triển kinh tế theo kế hoạch do quan liêu chỉ đạo sao cho đúng với nguyên lý kinh tế. Nói cách khác, ông đã đổi từ nền kinh tế chỉ huy thời tiền chiến sang nền kinh tế kế hoạch chỉ đạo. Thế mà, năm 1960, khi nội các Ikeda được thành lập, sắp sửa đưa ra “Kế hoạch gấp đôi thu nhập”, Thủ tướng Ikeda đã đưa ra chủ trương đầu tiên của ông là “Khoan dung và nhẫn nại”. Nghĩa là, đối với các phe đối lập, nội các ông phải biết khoan dung, phải biết nhẫn nại đối thoại thuyết phục họ. Ðây chính là “tư thế thấp”, là thái độ “nhũn như con chi chi”. Vị thủ tướng kế tiếp là Sato Eisaku đã tiến xa hơn một bước, lấy khẩu hiệu là “Khoan dung và hài hòa”. Câu này đã trở thành danh ngôn, và được đảng Dân chủ tự do tiếp tục dùng để biểu hiện tư thế chính trị của mình. “Tư thế thấp” của Thủ tướng Ikeda chính là phản đề của lời tuyên bố lúc trước “Người nghèo hãy ăn lúa mạch”. Tuy nhiên, đây không phải là lời nịnh bợ, lời nói lấy lòng suông. Ông thực sự đã xúc tiến ba chính sách kinh tế cột trụ: giảm thuế, bảo đảm xã hội và xây dựng công cộng. Hướng tia mắt nhìn của quốc dân vào nước Mỹ giầu có Nhìn vào toàn thể nội các Ikeda, người ta thấy trọng điểm thứ nhất là kinh tế, thứ nhì cũng là kinh tế. Về mặt ngoại giao, ông triệt để theo gót Mỹ như phương châm của MacArthur nghiêm chỉnh thực thi đường lối Hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ do nội các Kishi đã xác lập. Ngay từ đầu, thủ tướng Ikeda không hề có ý định lấy điểm bằng chính sách ngoại giao. Các đời thủ tướng trước đều giải quyết những vấn đề ngoại giao trọng đại: Thủ tướng Yoshida ký Hòa ước San Francisco (chấm dứt tình trạng chiếm đóng Nhật Bản bởi Quân đội Mỹ), [17] Thủ tướng Hatoyama ký Hiệp ước Nhật - Xô (phục hồi bang giao với Liên Xô), Thủ tướng Kishi sửa đổi Hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ (đảm bảo an ninh quốc phòng). Sau Thủ tướng Ikeda, Thủ tướng Sato Eisaku thu hồi được các quần đảo Ogasawara và Okinawa, [18] rồi thủ tướng kế tiếp là Tanaka Kakuei thì phục hồi quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. Ông nào cũng hoạt động mạnh về mặt ngoại giao. Chỉ có Thủ tướng Ikeda Hayato là không quan tâm tới vấn đề nào khác ngoài vấn đề kinh tế cả. Cũng có thể vì ông muốn cho thấy Nhật Bản là quốc gia coi trọng kinh tế nên đã cố ý không nhúng tay vào bất cứ vấn đề ngoại giao nào. Khi Thủ tướng Kishi định sửa đổi Hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ, thì ở Nhật Bản có nhiều ý kiến khá mạnh cho rằng Nhật Bản nên phế bỏ Hiệp ước này, nên tách khỏi khối tây phương, nên bước gần tới khối Liên Xô hay trở thành nước trung lập. Chính vì thế mà cuộc đấu tranh phản đối Hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ đã trở nên kịch liệt và nội các Kishi phải đổ. Ðối lại, nội các Ikeda chủ trương Nhật Bản nên giữ im lặng trong khuôn khổ Hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ. Ngoài điều này ra, không nên suy nghĩ gì khác cả. Ikeda đã khéo léo hướng tia mắt quốc dân chú ý tới vấn đề kinh tế, đến nỗi chủ trương vô vi vô sách về ngoại giao như vậy đã được mỗi người đồng tình. Khi ra nước ngoài, Thủ tướng Ikeda lúc nào cũng dương cao mục tiêu tăng trưởng kinh tế 9%. Vì thế, các nước khác đã gọi ông là “ông chín phần trăm”. Tổng thống Pháp De Gaulle thì nói rằng: “Ông ta (Ikeda) chỉ là một anh lái buôn transistor chứ gì”. Dưới mắt một người chỉ miệt mài đi tìm vẻ vinh quang của nền chính trị Pháp như Tổng thống De Gaulle, Thủ tướng Ikeda chỉ nói về kinh tế, hẳn bị coi là hạng tiểu nhân (lái buôn transistor). Nhưng xét cho cùng, chẳng phải Ikeda không làm gì có tính chính sách ngoại giao đâu. Từ quan điểm kinh tế ưu tiên, ông đã thành công trong việc đổi hẳn hình ảnh nước Mỹ trước con mắt người Nhật thời đó. Thật thế, Thủ tướng Ikeda nắm chính quyền là ngay sau cuộc đấu tranh phản đối Hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ. Cho nên cảm tình của người Nhật đối với nước Mỹ hãy còn khá phức tạp. Ngay sau chiến tranh, MacArthur đã ghi vào con mắt người Nhật ấn tượng tốt về nước Mỹ: Mỹ tốt, Mỹ là cường quốc, Mỹ là quốc gia thể hiện chính nghĩa. Nhưng kể từ sau khi ký kết Hiệp ước An ninh Nhật-Mỹ, người Nhật trở nên có mặc cảm sâu sắc đối với Mỹ. Vì thế, đô vật wrestling chuyên nghiệp người Nhật Rikidozan [19] xuất hiện với những pha đòn ngoạn mục vật ngã đối thủ người Mỹ, đã làm cho người Nhật cảm thấy vô cùng khoái trá. Bởi vì chỉ những lúc đó họ mới cảm thấy hơn người Mỹ. Tay bơi Furuhashi Hironoshin hay võ sĩ quyền Anh Shirai Yoshio chắc cũng vậy. Nhưng, từ cuộc phản đối Hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ, ở người Nhật bỗng nẩy ra một tình cảm mâu thuẫn vừa là ác cảm về mặt chính trị vừa là sự thèm khát về mặt vật chất. Cuộc lộn xộn phản đối Hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ đã làm cho người Nhật nghĩ rằng “Mỹ không phải là quốc gia của chính nghĩa, mà ngược lại Mỹ chỉ là một thế lực chiến tranh lợi dụng Nhật Bản thôi”. Ý nghĩ này đã được báo chí thổi phồng lên. Trong bối cảnh như vậy, Thủ tướng Ikeda lên nắm chính quyền, đã không đả động gì tới vấn đề Mỹ có là chính nghĩa không, mà chỉ nhấn mạnh vào mặt kinh tế phong phú của Mỹ thôi. Thời đó, có một từ rất phổ biến là “sinh hoạt kiểu Mỹ (American life)”. Ðó là sự mơ ước một cuộc sống phong túc nhộn nhịp, có nhà ở ngoại ô, đầy đủ tiện nghi điện hóa, có xe ôtô riêng, hàng ngày vui thú thể thao. Lập trường ngoại giao của Thủ tướng Ikeda là đánh giá cao sự phong túc vật chất này, và Nhật Bản cũng sẽ trở nên sung túc nếu kết hợp với cuộc sống đó. Muốn vậy, Nhật Bản phải có Hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ. Nếu không xích lại gần Mỹ, kỹ thuật và đầu tư của Mỹ cũng sẽ không có, xuất cảng hàng hóa sang Mỹ cũng không được. Như vậy ông đã thuyết giảng rằng sự liên kết với Mỹ là thiết yếu, Hiệp ước An ninh Nhật Mỹ là cần thiết, và như vậy đã biến hiệp ước này thành một phương tiện để phát triển kinh tế. Ðể đạt mục tiêu, ông đã tuyên truyền cổ súy sự giàu có vật chất của Mỹ, đã mỹ hóa cuộc sinh hoạt Mỹ hơn cả thực tế. Lý luận của ông là, duy trì cuộc sinh hoạt như vậy là nền công nghiệp nặng và công nghiệp hóa chất, cho nên Nhật Bản cũng phải phát triển những công nghiệp này. Lại nữa, nền công nghiệp ôtô phát triển đã lôi kéo theo những công nghiệp khác. Cho nên Nhật Bản muốn tăng trưởng kinh tế cao độ, tất phải xây dựng đường cao tốc và phát triển công nghiệp ôtô. Nói cách khác, ông xây dựng lý luận bằng cách đưa kinh tế toàn diện ra trước, rồi mới cài chính trị theo sau, để chính đáng hóa đường lối theo đuôi Mỹ. Với Ikeda, Hiệp ước An ninh Nhật Mỹ cũng là một điều kiện thiết yếu cho “Kế hoạch gấp đôi thu nhập” của ông. Xây nhà máy trước nhất để phát triển địa phương Xét lịch sử, người ta thấy những nhà tài chính được quốc dân ngưỡng mộ thì rất hiếm. Những người hô hào thôi chiến tranh vì chiến tranh làm tài chính bị khốn đốn, đều bị chê cười. Ngược lại, tướng lãnh thắng trận thì ở đâu cũng được hâm mộ cả. Ở Nhật Bản ngày xưa, Kato Kiyomasa chủ trương đánh Triều Tiên đã được mỗi người hâm mộ, nhưng Konishi Yukinaga vận động chấm dứt chiến tranh, mở mang thông thương, đã bị mỗi người chê bai. Ở bên Trung Quốc cũng vậy, đời Tống có tướng Nhạc Phi chủ trương đánh nước Kim của dân du mục phương bắc, thì được mỗi người tán thưởng. Hiện nay còn miếu thờ Nhạc Phi ở khắp Trung Quốc. Trong khi đó, Tần Cối chủ trương nhượng bộ cầu hòa để duy trì sự ổn định kinh tế, vì tình trạng tài chính không cho phép chiến tranh, thì bị mọi người ghét. Thậm chí, ở một góc những miếu thờ Nhạc Phi, người ta đều thấy có tượng đá vợ chồng Tần Cối bị trói hai tay lại sau lưng, để cho người đi lễ nhổ nước bọt lên trước khi ra về. Nhờ đường lối tài chính mà được quốc dân hâm mộ là chuyện hi hữu. Thủ tướng Ikeda được quốc dân hâm mộ có thể quy tất cả vào đường lối kinh tế tài chính của ông. Ông đã hướng xã hội Nhật Bản tới trạng thái tâm lý chấp nhận điều đó. Ông đã làm thế nào để được như vậy. Trước nhất, ông đã áp dụng chính sách tài chính tích cực gồm ba cột trụ “giảm thuế, bảo đảm xã hội và xây dựng công cộng”. Nhờ thế, thày thuốc, hiệu thuốc, nhà thầu xây dựng làm ăn phát đạt có lời to, các công ty sản xuất đồ điện và chế tạo ôtô đã phát triển lớn. Quốc dân thời đó đều muốn có đồ điện gia dụng và xe ôtô. Thứ hai, ông đã chuyển đổi cấu tạo từ công nghiệp nhẹ sang công nghiệp nặng: giảm bớt sản phẩm xuất cảng chủ yếu của Nhật Bản thời đó là hàng may dệt và tạp hóa, tích cực tập trung đầu tư vào hoặc cho vay tiền những ngành nghề chế tạo công nghiệp nặng như sắt thép, ôtô, điện máy v.v.. Ðồng thời xúc tiến chỉnh trang đất đai cho công nghiệp nặng và hóa chất. Cụ thể, là trong “Kế hoạch tổng hợp khai thác toàn quốc”, ông chỉ định nơi thành lập những “đô thị công nghiệp mới”, hay “khu vực đặc biệt để triển khai công nghiệp”, rồi trợ cấp tài chính cho xây dựng công cộng như san lấp mặt bằng, làm đường xá, chỉnh trang bến cảng, v.v.. Trong không khí coi công nghiệp dẫn đầu sự phát triển địa phương như vậy, các đơn vị hành chính địa phương đều đua nhau thu hút nhà máy về địa phương mình. Những nhà máy như vậy đã đóng góp lớn lao vào sự phát triển công nghiệp của Nhật Bản qua sản xuất đại trà theo quy cách. Nhờ đất đai được chỉnh trang thuận tiện cho sự xây dựng nhà máy công nghiệp nặng và hóa học, những thành phố như Yokkaichi, Mizushima, Kashima,... đã biến thành những đô thị công nghiệp mới trên toàn quốc. Nhờ thế, những ngành công nghiệp chế tạo, nhất là công nghiệp nặng và hóa học, đã mua được đất rẻ để xây nhà máy, công nhân viên dễ mua được nhà ở gần nơi làm việc, thậm chí việc chuyên chở dầu thô, quặng sắt từ ngoại quốc vào cũng thuận lợi. Ðó là lý thuyết về tính dẫn đầu của công nghiệp nặng. Muốn phát triển địa phương, trước hết hãy thu hút đầu tư vào các nhà máy chế tạo quy mô lớn. Những cơ sở chế tạo nhỏ và các ngành nghề phục vụ như bán lẻ sẽ tự động phát triển theo. Khi những nhà máy công nghiệp quy mô được xây dựng rồi, thì tự nhiên phố phường buôn bán sầm uất nhờ việc mua sắm của công nhân viên nhà máy. Trường học tăng thêm số lượng học sinh, bệnh việc đông khách hơn, tiệm ăn và khách sạn đều đắt khách lên. Lý thuyết là như vậy. Thời nội các Ikeda, các tỉnh trưởng hay thị trưởng đều tin rằng muốn cho địa phương mình phát triển, họ phải đi vay tiền chỉnh trang khu công nghiệp, lắp đặt hệ thống nước công nghiệp, xây đắp đường xá, sửa sang bến cảng. Họ đã không tiếc tiền đổ vào chỉnh trang đất công nghiệp và xây dựng cơ sở hạ tầng, với mục đích thu hút đầu tư nhà máy chế tạo công nghiệp nặng và hóa chất. Lý thuyết về tính dẫn đầu của công nghiệp nặng như trên, là hoàn toàn sai, sai cả về mặt lịch sử lẫn sai về mặt lý luận. Các đô thị trên thế giới phần lớn được hình thành từ một ngành thứ ba. [20] Không phải không có thành phố xuất phát từ một nhà máy, nhưng rất ít, và quy mô nhỏ. Thế mà, “Kế hoạch gấp đôi thu nhập” lại lý giải khả năng dẫn đầu của công nghiệp nặng bằng lý luận “trước hết là nhà máy”. Cơ quan hành chính địa phương đều đổ xô vào xây dựng nhà máy công nghiệp nặng và hóa chất. Nhờ đó việc hiện đại hóa sản xuất đại trà theo quy cách đã hoàn thành nhanh chóng. Bộ Thương mại quốc tế và công nghiệp tuyên truyền phổ cập nhãn hiệu JIS (quy cách công nghiệp Nhật Bản: Japanese Industrial Standard), đồng thời bộ Nông lâm cũng đưa ra nhãn hiệu JAS (quy cách nông nghiệp Nhật Bản: Japanese Agricultural Standard). Gạo, rượu sake, nhất nhất cái gì cũng quy cách hóa. Nhiều mặt hàng đã bắt đầu từ thời trước chiến tranh, nhưng trong “Kế hoạch gấp đôi thu nhập”, chủng loại sản phẩm đã được giảm bớt đi để dễ tiến hành sản xuất đại trà. Việc làm như vậy được coi là chính đáng. Cơ cấu lưu thông hàng hóa và hình thức bán lẻ cũng được cải cách cho phù hợp với sản xuất đại trà theo quy cách. Nhiều siêu thị quy mô lớn xuất hiện để bán thật nhiều sản phẩm theo quy cách. Không chỉ có thế. Thông tin, tin tức về sản phẩm cũng được phát ra tập trung từ Tokyo. Mỗi thông tin nếu xuất phát từ Tokyo thì lập tức sản phẩm theo đúng quy cách liền được lưu thông ra khắp cả nước, tạo ra một xã hội đồng chất trên toàn quốc. Nói tóm lại, nội các Ikeda đã coi năng suất là chính nghĩa xã hội tố cao. Quy cách hóa con người và tập trung dân số vào thành thị Vấn đề quy cách hóa con người và giáo dục đại trà theo quy cách cũng được nghĩ ra và thực hiện. Giáo trình giáo dục được ấn định, bản chỉ đạo giáo dục được soạn ra và trường học trên toàn quốc nhất loạt giảng dạy cùng một nội dung. Việc chỉ đạo học sinh chủ yếu là làm mất khuyết điểm đi, hơn là chú trọng tới phát triển ưu điểm. Vì thế, tất cả học sinh đều trở thành tương tự như nhau, không có sở trường cũng không có khuyết điểm, tất cả đều trở thành những con người “tròn trĩnh”, nghĩa là không “gai góc”, không bướng bỉnh. Áp dụng phép chấm điểm năm bậc, thì học sinh giỏi đều được điểm 5 cho mỗi môn học, học sinh trung bình được điểm 3. Năng lực của người ta được đo bằng độ lớn của khuyên tròn. Khuyên tròn là nói trị giá thiên lệch trong thống kê năng lực của học sinh. Nghĩa là chỉ một khuyên tròn như vậy đủ đánh giá con người! Ở Mỹ hay ở châu Âu, người ta chú trọng tới phát triển cá tính. Cho nên học sinh có đứa giỏi thể thao nhưng dốt toán, có đứa giỏi toán sau này có khả năng làm giáo sư đại học được nhưng kém về thể thao. Có một dạo bộ phim Forest Gamp khá được hâm mộ ở Nhật Bản. Forest Gamp đỗ vào đại học được vì là cầu thủ bóng đá Mỹ [21] chứ chữ cũng chưa viết được ra hồn (về sau bỏ ngang). Nhưng ở Nhật Bản, dù cho giỏi thể thao đến mấy, nhưng nếu không khá toán, quốc văn, Anh văn thì không sao vào đại học được. Ngay vào đại học Mỹ thuật để học vẽ, cũng phải học toán. Sở dĩ như vậy là từ khi có pháp lệnh về trường học quốc dân trong thời chiến tranh, rồi nội các Kishi làm chặt chẽ hơn, và nội các Ikeda thực thi triệt để. Ðó là ý tưởng tạo ra con người thích hợp cho sự sản xuất đại trà theo quy cách. Mặt trái và mặt phải của sự việc đã được thể hiện rõ rệt trong sự tập trung dân số vào các đô thị. Song song với tiến độ triển khai sự chế tạo đại trà, lớp trẻ đã tập trung vào các thành thị. Kết quả là thôn quê trở thành vắng người. Người ít tuổi ra thành thị, làm việc trong nhà máy chế tạo đại trà, bán hàng cho các siêu thị lớn. Ở thôn quê chỉ còn lại lớp người trung cao niên mà thôi. Nội các Ikeda có phần khuyến khích tình trạng này để có lực lượng lao động cho đô thị. Chính phủ xúc tiến xây dựng những khu chung cư quanh đô thị để cung cấp nhà ở cho đám người từ nông thôn ra thành thị làm việc cho những xí nghiệp sản xuất đại trà. Ðồng thời, chính phủ cũng cho chỉnh trang hệ thống đường sắt chuyên chở mau chóng và rẻ tiền. Vì coi năng suất là hàng đầu, cho nên nội các Ikeda đã xúc tiến đường lối đưa đến sự tập trung thái quá và sự thưa thớt thái quá của dân số. Ðó là phản ánh của tư tưởng quán triệt nguyên lý kinh tế vậy. Người dân Nhật nhờ “Kế hoạch gấp đôi thu nhập” đã mau chóng trở nên giầu có. Ðiều lo lắng về khoảng cách giầu nghèo, đã không xảy ra, nhưng vấn đề quá đông và quá vắng của dân số, đã xảy ra. Thế rồi, nơi quá đông người phát sinh vấn đề ô nhiễm môi trường, mà ngay những người chê bai kế hoạch cũng không nghĩ ra lúc ban đầu. Tăng cường thể chế chỉ đạo của quan liêu (công chức) Thêm một ảnh hưởng trọng đại nữa của chính trị gia Ikeda Hayato là sự cấu kết của ba giới: chính trị, quan liêu và kinh tài, qua sự tăng cường thể chế chỉ đạo của giới quan chức. Cho đến khoảng 15 năm sau chiến tranh, tức là với những nội các Yoshida, Hatoyama và Kishi, tư tưởng và cơ chế dân chủ do MacArthur vun trồng còn giữ được một phần. Chứ tới nội các Ikeda với “Kế hoạch gấp đôi thu nhập”, cơ chế quan liêu chỉ đạo càng mạnh. Tầng lớp quan chức có quyền lực lớn qua kiểm soát quy cách và quản lý xây dựng công cộng. Ðám chính trị gia xuất thân từ quan trường như Thủ tướng Ikeda, cùng đám quan chức đương nhiệm ở các bộ sở trung ương đã nắm tay nhau, xúc tiến kiến thiết đường bộ, đường sắt, chung cư, thiết bị đô thị. Các chính trị gia như Ikeda đã đồng tình ủng hộ và rót tiền vào những dự án do quan liêu thảo ra để nuôi dưỡng mô hình sản xuất đại trà theo quy cách của công nghiệp nặng và hóa chất. Như thế, đô thị cũng như địa phương, tất cả đều trở thành giống nhau nhất loạt không có cá tính gì cả nữa. Trường học cũng vậy, trở thành đồng chất không còn đặc điểm gì nữa. Việc không làm được ngay cả trong thời kỳ chiến tranh, đã làm xong dưới thời Thủ tướng Ikeda. Tổ chức quan liêu được thêm sức mạnh như vậy đã kết hợp với đảng Dân chủ tự do. Ðồng thời, dưới sự chỉ đạo của quan liêu, các đoàn thể ngành nghề cũng được tăng cường. Ví dụ, các xí nghiệp trong Liên minh sắt thép bàn bạc với nhau, rồi quyết định phân chia lò luyện thép với nhau, chẳng hạn, Công ty A ba lò, Công ty B hai lò, Công ty C một lò, v.v.. Rồi quyết định như vậy được đem đến Bộ Thương mại quốc tế và công nghiệp trình bẩm: “Như vầy được chăng?” Các quan bèn phán: “Như thế hơi nhiều. Cắt bớt một lò đi”. Trong quá trình chỉ đạo như vậy, quyền hành của quan liêu ngày một mạnh hơn lên. Một hình thức khen thưởng đã được lợi dụng để tăng cường sự chỉ đạo của quan liêu, là huân chương. Thời MacArthur, huân chương đã bị bỏ đi, nhưng sau lại phục hồi, và được dùng làm đón bẩy cho sự chỉ đạo của quan chức. Khi một doanh gia trở thành chủ tịch của một đoàn thể ngành nghề, thì có chính sách khen tặng huân chương hạng nhất. Ðương nhiên, nếu thuận theo sự chỉ đạo của quan liêu, thì dễ trở thành chủ tịch như vậy. Cho nên, các doanh gia ham muốn huân chương đã ngoan ngoãn nghe theo quan chức. Quan chức làm trung tâm, giật dây điều khiển một bên là đám chính trị gia thuộc đảng Dân chủ tự do, một bên là các đoàn thể ngành nghề, tạo ra một thể chế hòa hợp do quan chức chỉ đạo. Có thể nói, thể chế như vậy đã được xác lập là vào thời kỳ nội các Ikeda. Từ giới doanh nghiệp, tiền cúng cho chính trị gia đã được đổ ra. Ðể bù lại, chính trị gia đóng vai truyền đạt ý hướng của giới doanh nghiệp tới quan liêu. Quan chức suy nghĩ đắn đo. Chính trị gia lại lợi dụng sự suy nghĩ đắn đo như vậy của quan chức. Nghĩa là, một hình tam giác hỗ trợ lẫn nhau đã thành hình, gọi là “tam giác chính trị - quan chức - doanh nghiệp”. Trong tam giác đó, quan chức có sức mạnh nhất. Luật pháp cấm chính trị gia không được hoạt động cho một xí nghiệp cá biệt, cho nên họ phải hoạt động với danh nghĩa cho toàn thể giới doanh nghiệp thông qua các bộ sở trung ương để được ủng hộ tiền hoạt động chính trị. Có câu nói “chính tri gia nào bị quan chức ghét thì không mở mặt được”. Câu này là biểu hiện một truyền thống do nội các Ikeda và bè phái Ikeda trong đảng Dân chủ tự do tạo ra. Cái thể chất tiền và quyền như vậy khiến cho kinh tế tăng trưởng, tích cực xúc tiến xây dựng công cộng và phát triển công nghiệp nặng. Thể chất này mỗi năm một được tăng cường. Ðến nỗi, người ta quan niệm rằng, chỉ có nhờ các nghị viên đảng Dân chủ tự do mới có tiền tài trợ, chứ các đảng khác thì không xong. Do đó, đảng Dân chủ tự do mỗi ngày một vững vàng hơn. Thậm chí, tiến thêm một bước nữa tới “thời đại phe phái lớn” trong đảng Dân chủ tự do. Sức mạnh của Hội Hoằng Chì [22] trong việc thâu góp tiền ủng hộ Lịch sử phe phái trong nền chính trị Nhật Bản bắt đầu từ thời cuối nội các Yoshida, từ sau khi các chính trị gia thoát khỏi lệnh thanh trừng công chức. Những người như Hatoyama Ichiro, Miki Takeyoshi đã được phục quyền sau khi lệnh trên hết hiệu lực. Họ lập ra phe phái để chống lại hình thức độc tài của thủ tướng Yoshida. Ðến thời nội các Kishi, thì xung quanh những chính trị gia có máu mặt, có khả năng quyên tiền lớn đã kết tụ thành phe phái. Khi nội các Hatoyama đợt thứ ba từ chức và nội các Ishibashi thành lập, người ta đã thấy những phe nhóm như phái Ono, phái Kono, v.v., hoạt động mạnh mẽ. Kết quả vận động của những phe phái này, là ba người đã ra ứng cử chức chủ tịch đảng Dân chủ tự do. Ðó là Kishi, Ishibashi và Ishii. Kishi được nhiều phiếu nhất, nhưng người thứ nhì Ishibashi và người thứ ba Ishii hợp lực lại, đánh bại Kishi bằng 7 phiếu và do đó Ishibashi đã đứng ra lập nội các (Ngay sau đó, ông ngã bệnh). Việc này để lại vết rạn nứt làm cho các phe phái đối lập nhau mãi. Cho tới đó, đại biểu phe phái đều là những nhân vật có sức quyến rũ cá nhân và săn sóc đàn em chu đáo. Nhưng kể từ nội các Ikeda trở đi, phe phái trở thành một tổ chức mạnh vượt ra ngoài tầm của cá nhân người đại biểu. Khi Ikeda qua đời, Hội Hoằng Chì vẫn không vì thế mà tan rã. Tức thời, Maeo Shige-Saburo kế thừa. Maeo từ chức, thì Ohira Masayoshi thế chân. Ohira mất đi, thì Suzuki Zenko kế tiếp. Sau Suzuki là Miyazawa Ki’ichi [23]. Nghĩa là phe phái trở nên một tồn tại tách rời khỏi cá nhân của người đại biểu. Khác với phái Ikeda kể trên, những phái khác như phái Ono, phái Kono và phái Kishi đã phân tán rồi hợp nhất với phe khác mỗi khi lãnh tụ qua đời hay thay đổi. Thế rồi phái cực lớn do Thủ tướng Sato Eisaku lập ra, khi Sato nghỉ hưu, cũng tách ra làm hai, là phái Fukuda và phái Tanaka mới ổn định. Phái Kono được Thủ tướng Nakasone Yasuhiro kế thừa, đổi thành phái Nakasone cũng hoạt động thành một tổ chức hợp nhất. Cuối cùng là một phái “nhỏ nhưng lâu đời” do Thủ tướng Miki Takeo lập ra. Như vậy, là hình thành đầy đủ phe phái trong đảng Dân chủ tự do: bốn phái lớn và một phái nhỏ, thường nói là “bốn sư đoàn cộng với một liên đội.” [24] Tại sao khác với phái Kono và phái Ono, phái Ikeda (Hội Hoằng Chì) lại xác lập thành một tổ chức chắc nịch được? Ðó là vì họ kết hợp với giới kinh doanh nên nhận được tiền ủng hộ đều đều. Ðó cũng là nhờ sự nhìn xa trông rộng của cố thủ tướng Ikeda nghĩa là, sau khi ông mất rồi, người kế vị ông vẫn thu thập được tiền ủng hộ của giới kinh tài. Tóm lại, khi tìm hiểu thể chế hậu chiến của Nhật Bản, người ta thấy Ikeda Hayato và “Kế hoạch gấp đôi thu nhập” do nội các của ông làm ra, quả là có ý nghĩa trọng yếu đặc biệt. Trong thập niên 1990 này, điều mà Nhật Bản đang cần phải giải quyết, chính là cải cách “cấu tạo gấp bội thu nhập”. Cấu tạo như vậy lấy tiền đề là kinh tế tăng trưởng, xí nghiệp lớn ra, thu nhập của cá nhân tăng lên. Ðương nhiên, như vậy thuế cũng tăng lên. Giá đất và giá cổ phiếu phải tăng đều đều lâu dài. Xí nghiệp đầu tư trước để khuếch đại quy mô sản suất, thì chắc chắn có lời. Dù không có lời thường niên hay lời doanh nghiệp ngay, thì “tài sản theo thời giá” tăng lên, thành ra cũng như có lời. Người từ thôn quê ra tỉnh thành đông đúc, cho nên phải đầu tư vào chung cư, vào đường xe điện ngầm. Như vậy, giá đất đai tất sẽ lên cao. Thành ra, người nào mua nhà sớm ắt có lời. Phủ nhận sự bất an chính trị và tư tưởng cách mạng, hướng con mắt quốc dân nhìn vào vấn đề kinh tế, cái gì cũng nghĩ theo chiều hướng tích cực. Ðó là tư tưởng hậu chiến được nuôi dưỡng từ thời đại “gấp đôi thu nhập” vậy. “Kế hoạch gấp đôi thu nhập” không những chỉ đẻ ra sự tăng trưởng kinh tế. Nó còn làm cho kỹ thuật tiến bộ và xí nghiệp lớn lên. Do đó, giá đất và giá cổ phiếu tăng. Tương lai thì nhuốm màu hồng, cho nên xí nghiệp hễ đầu tư trước là có lời. Xí nghiệp vì thế chăm lo cuộc sống của công nhân viên, trong khi công nhân viên thì thấy cuộc đời quy thuộc vào xí nghiệp là an tâm, là có lợi. Nhờ đó “xã hội chức lộc” đã xác lập. Thế nhưng điều kiện cơ bản hiện nay đã làm cho cơ chế xã hội “gấp đôi thu nhập” và niềm tin tâm lý do Ikeda Hayato cấy vào người Nhật Bản, đã dần dần biến đổi. Người ta phải có can đảm nhìn thẳng vào hiện thực như vậy. Chú thích: [1] Nguyên văn là Kinken, tức “Kim quyền” nếu đọc âm Việt Nam của từ Hán Nhật gốc. Kim quyền là quyền lực phát sinh ra từ đồng tiền, quyền lực nhờ có tiền mà có được. [2] Sách này xuất bản vào gần cuối thể kỷ thứ XX nên viết như vậy cho người ta dễ tính tuổi tác của nhân vật nói đến. Nhưng, nay đã sang thế kỷ thứ XXI, nên phải hiểu rằng: “số tuổi chẵn của ông bằng số năm của thế kỷ thứ XXI cộng với 100”. Nói cách khác, nếu Ikeda Hayato còn sống thì năm 2003 tuổi ông là 103. [3] Học chế của Nhật Bản thời trước chiến tranh khác với ngày nay. Thời đó, trường tiểu học là 6 năm, trường trung học 5 năm (trừ vài năm cuối của cuộc chiến tranh thế giới lấn thứ hai, được rút lại thành 4 năm). Ở trên trường trung học này là trường “cao đẳng”, với thời gian học 3 năm. Tất cả có 5 trường cao đẳng được thiết lập, với tên gọi theo số thứ tự từ Ðệ nhất cho tới Ðệ ngũ. Trường “cao đẳng” như vậy thực chất là trường dự bị đại học. Ðại học Quốc gia theo chế độ cũ là 3 năm. Như vậy tổng cộng thời gian từ tiểu học tới hết đại học là 17 năm, tức là dài hơn hiện nay 1 năm. Vì thế, người ta thường coi những người tốt nghiệp đại học thời trước chiến tranh tương đương với bậc Cao học (Thạc sĩ). [4] Shikoku là một trong bốn hòn đảo lớn tạo thành quần đảo Nhật Bản. Xưa, một cao tăng tên là Không Hải (Hoàng Pháp Ðại sư) đã tu hành ở đảo đó. Người này đã từng sang Trung Hoa đời nhà Ðường (năm 804) học đạo, rồi về Nhật Bản lập ra một giáo phái Mật tông gọi là Shingonshu. 88 linh địa là những chùa chiền có vết chân vị thánh tăng này. Người Nhật, khi muốn cầu xin điều gì, chẳng hạn làm ăn phấn chấn, trị bệnh nan y, v.v., thường hay đi hành hương 88 linh địa này. [5] Ngày 8 tháng 12 năm 1941, Nhật Bản khai chiến với Mỹ bằng cách oanh tạc Pearl Harbour (Chân Châu Loan. Ở Việt Nam, địa danh này quen goi Trân Châu Cảng. Chân Châu Loan là tên Nhật đọc âm Hán-Việt). [6] “Công chức” ở đây là những chức vụ công cộng, như nghị viên, quan liêu (công chức, theo nghĩa hẹp), hoặc những địa vị lãnh đạo trong giới chính trị, giới kinh tài, giới ngôn luận, v.v.. Một trong những chính sách dân chủ hóa do bộ Tổng tư lệnh quân đội chiếm đóng Nhật Bản của MacArthur thực thi, là năm 1946, cấm không cho những người theo chủ nghĩa quân phiệt, chủ nghĩa quốc gia làm “công chức”. Số người như vậy là khoảng 200 ngàn. Tháng 4 năm 1952, sau khi Hòa ước San Francisco bắt đầu có hiệu lực, thì lệnh cấm này hết hiệu lực. [7] Ở Nhật Bản, tổ chức nào cũng có một thứ tự rõ rệt cho sự xếp đặt vị thứ các thành viên. Với nội các, thủ tướng đứng đầu là lẽ đương nhiên, nhưng dưới thủ tướng các bộ trưởng xếp hàng ra sao thì có thứ tự hẳn hoi. Theo truyền thống, đứng đầu là bộ trưởng Tư pháp, rồi đến bộ trưởng Ngoại giao, bộ trưởng Kho bạc, v.v.. Xem như vậy thì vị trí bộ trưởng Kho bạc trong nội các là vô cùng trọng yếu. [8] Năm 1993, lần đầu tiên trong gần 40 năm liên tục nắm giữ chính quyền, đảng Dân chủ tự do đã phải nhường chính quyền cho một nội các liên hiệp do thủ lãnh một đảng Bảo thủ, là Hosokawa Morihiro cầm đầu. Takemura là thủ lãnh một đảng trong nội các liên hiệp, nên đã được giữ ghế bộ trưởng Kho bạc. [9] Một trong bộ ba cán bộ lãnh đạo của đảng Dân chủ tự do Nhật Bản. [10] Vụ này xảy ra năm 1954, trong đó giới công nghiệp đóng tàu và đảng cầm quyền bị nghi ngờ có sự lén lút đưa và nhận hối lộ. Bộ trưởng Tư pháp Inukai Takeru đã sử dụng quyền chỉ huy chấm dứt cuộc điều tra của viện Kiểm sát, khiến vụ việc bị ém nhẹm đi không bao giờ phơi bày ra ánh sáng nữa. [11] Người ra điều trần trước Quốc hội có hai hình thức: Người làm chứng và người tham khảo. Người làm chứng thì phải tuyên thệ và nếu khai man sẽ bị xử theo luật định. Người tham khảo không phải tuyên thệ. [12] Nguyên văn là Banshoku Daijin, tức là bộ trưởng chưa có thực lực, chỉ làm “cảnh” trong những bữa tiệc thết đãi khách quý mà thôi. [13] Thủ tục thông qua một dự án hiệp ước hay dự án luật ở quốc hội Nhật Bản là như sau. Trước hết Hạ nghị viện thảo luận rồi biểu quyết. Sau đó mới đến Thượng nghị viện thảo luận và biểu quyết. Nếu Thượng nghị viện không thông qua, dự án được trả về cho Hạ nghị viện thảo luận lại. Tuy nhiên, dù cho Thượng nghị viện có biểu quyết nghịch, thì biểu quyết thuận của Hạ nghị viện vẫn là ưu tiên. 30 ngày sau khi Hạ nghị viện đã thông qua, thì dự án thành lập một cách tự nhiên. [14] Nói chung, các chính trị gia khôn khéo thường áp dụng mánh lới “kẹo ngọt và roi vọt”. Ðể thực thi một chính sách cứng rắn (sửa đổi Hiệp ước An ninh Nhật-Mỹ, roi vọt), người ta ghép đôi nó với một chính sách khác mềm dẻo (gấp đôi lương tháng, kẹo ngọt). [15] Jinmu là Thiên hoàng đầu tiên, một người trong thần thoại của Nhật Bản. Theo truyền thuyết thì ông lên ngôi vua năm 660 trước Công nguyên. Từ thời Jinmu là nói từ lúc khai thiên lập địa. [16] Joseph Morrell Dodge (1890-1964), doanh gia ngân hàng, tới Nhật Bản năm 1949 làm cố vấn cho bộ Tổng tư lệnh quân đội chiếm đóng Nhật Bản. Ðường lối Dodge là chính sách ông vạch ra nhằm mục tiêu ổn định và tự lập cho nền kinh tế Nhật Bản. Ðường lối này nói chung là đường lối siết chặt lưu thông tiền tệ. [17] Năm 1951, tức là 6 năm sau khi Nhật Bản đầu hàng, Hòa ước San Francisco đã được ký kết, chấm dứt sự chiếm đóng Nhật Bản bởi Quân đội Ðồng minh. Tuy nhiên, để thay thế, Nhật Bản và Mỹ đã ký kết Hiệp ước An ninh Nhật-Mỹ theo đó quân đội Mỹ tiếp tục đồn trú tại Nhật Bản, song không còn với tư cách quân đội chiếm đóng nữa, mà chỉ là quân đội đồng minh bảo vệ an ninh quốc phòng theo Hiệp ước An ninh đó. [18] Việc thâu hồi chủ quyền những phần đất đã bị mất bởi chiến tranh bằng thương lượng không tốn một viên đạn, đã được đánh giá cao và thủ tướng Sato Eisaku đã được Giải Nobel Hòa Bình năm 1975. [19] Người Nhật gốc Triều Tiên, tên thật là Momota Mitsuhiro, vốn là đô vật Sumo, chuyển sang võ vật Wrestling chuyên nghiệp, nhiều lần đoạt chức vô địch thế giới của môn võ vật này. [20] Kỹ nghệ thứ ba (tertiary industries) là các ngành nghề phục vụ (services industries) như khách sạn, siêu thị, nhà hàng ăn uống, công ty du lịch,... [21] American football, một môn thể thao dùng bóng dẹt, rất hung bạo, khác với bóng đá Anh, gọi là soccer. [22] Hội Hoằng Chì là tên gọi của phái Ikeda trong đảng Dân chủ tự do. Hoằng là to lớn, Chì là ao, là chuôm. Vậy Hội Hoằng Chì là Hội Ao Lớn. Sở dĩ lấy tên như vậy là vì tên thủ tướng Ikeda nếu viết chữ nho là Chì Ðiền, tức là Ao Ruộng, cho nên nhóm nghị viên ủng hộ ông họp thành một phái lấy một chữ trong tên ông đặt tên phái là Hội Hoằng Chì. [23] Chỉ trừ Maeo, còn cả ba ông Ohira, Suzuki và Miyazawa đều đã làm thủ tướng. [24] Ðây là hình ảnh đảng Dân chủ tự do Nhật Bản vào khoảng năm 1997. Người ta nói, chính trường Nhật Bản là sân khấu “ly hợp tụ tán”, cho nên hình ảnh hiện nay của đảng này không phải là như thế này nữa.