Trung Thu, Mùa Trăng Sáng Quá

    
ói đến Trung thu là nói đến Trăng, đến tuổi thơ, với những chíêc lồng đèn, những chiếc bánh, những câu chuyện về chú Cuội, những ước mơ của trẻ con muốn gởi lên chị Hằng.
Bây giờ là mùa trăng, ngày hội Trung thu.
Dòng đời thay đổi, mùa trung thu cũng đổi thay.
Những chiếc lồng đèn giấy được thắp sáng bằng những cây đèn sáp, giờ được thay thế bằng những chiếc lồng đèn điện tử phần nhiều là của Trung Quốc, bằng nhựa đủ màu sắc, đủ hình dạng.
Đêm trăng rước đèn đón chị Hằng với những con đường, những bụi tre, khóm trúc, cây đa đầu ngõ, bây giờ còn đâu. Có chăng là những tòa nhà cao tầng, những chung cư hạng sang, những bức tường, những khối ciment khổng lồ, những trụ đèn điện sáng ngời, những dãy đèn điện tử lấp lánh xanh vàng, đỏ, tím…
Và múa lân với tiếng trống bập bùng dưới ánh trăng. Đoàn múa lân kết thành hàng dài, dẫn đầu là ô. Lân, ô. Địa và các em cầm đuốc kéo thành hàng vừa đi vừa đánh trống,”cắt tụng tùng tùng xèng…”, và người múa lân cứ theo nhịp điệu đó để múa. Khi có nhà treo quà, thường là tiền, đoàn múa lân sẽ vào theo nghi thức chào, nhận quà, chào tạm biệt với nhịp điệu múa lân.
Sự kiện múa lân là tập tục văn hóa lâu đời, do ảnh hưởng Trung Quốc, làm tăng sự nhộn nhịp, niềm vui cho các em. Tại Việt Nam, khi Nhà nước CS vào tiếp quản, múa lân không còn được tự do từng đoàn tung tăng dưới trăng. Múa lân thực hiện theo dịch vụ đặt hàng, khi những nhà, cơ quan, đơn vị nào có đặt trước, Đoàn múa Lân lúc đó sẽ được đưa lên xe, đưa họ đến và họ sẽ múa Lân để nhận tiền thưởng.
Một niềm vui khác, đêm trung thu, các em chờ giờ phá cổ, đó là cắt bánh trung thu.
Những chiếc bánh nướng, bánh dẻo trung thu hình con cá, con chim, ăn vào nghe sực nức hương vị hoa bưởi, ngày nay được các nhà kinh doanh, khai thác công nghệ trong vấn đề sản xuất, mục đích làm cho bánh đẹp hơn, hấp dẫn hơn, chất lượng hơn, đưa vào pha chế các loại cao lương mỹ vị như vi cá, bò ngư, yến, sào, …để nâng giá chiếc bánh lên cao ngất trời làm cho bánh trung thu trở thành mọt sản phẩm độc quyền cho các đại gia, các gia đình giàu có. Và các em nhi đồng nghèo, những người dân có mức thu nhập thấp, nhìn những chiếc bánh trung thu như một trong những điều ước, khát vọng khó với tới.
Một hộp bánh trung thu, loại bình thường, 4 cái giá 150.000đ VN
Một cái bánh trung thu trà xanh, giá 100.000 đồng VN.
Như vậy, muốn có lồng đền giấy để rước đèn đêm trăng, muốn có bánh trung thu để ăn, chúng ta phải chủ động tự làm lấy cho các em. Một mặt giữ được ý nghĩa ngày trung thu, tránh sự can thiệp của khoa học công nghệ, mặt khác tiết kiệm được vấn đề chi tiêu và tránh sự độc hại do dùng chất hóa học trong pha chế, bảo quản bánh.
Một lần, cách đây vài năm, tôi được nghe một người công nhân quét rác kể lại, trong một lần lấy rác tại khu nhà mấy quan chức, anh công nhân đã nhặt được mấy hộp bánh trung thu còn nguyên. Thì ra quà trung thu nhiều quá, dùng không hết hay bị chê sao đó, họ cho vào thùng rác.
Xa rồi một mùa Trung thu, xa rồi một mùa trăng cùng những bài hát, lời ca, giao thoa cùng thiên nhiên, vạn vật.
Tuổi thơ của tôi với những chiếc lồng đèn giấy xinh xinh tự mình làm ra, để chiều 13 mang theo khi đi học, cô giáo chấm điểm, sau đó được phát quà bánh. Nào bánh dẻo, bánh nướng hình con cá, con chim,... Cô giáo dẫn lớp ra sân trường, tập trung, nghe thầy hiệu trưởng chúc tết Trung thu.
Nhớ làm sao thời gian ngồi cặm cụi vót tre, cột chỉ làm chiếc lồng đèn ngôi sao 5 cánh, mỗi cánh một màu! Thích nhất là lúc đèn làm xong, thắp cây đèn sáp, đến khoe với cha, được ông khen đẹp với nụ cười tươi.
Chưa đến ngày hội, nhưng tiếng nhạc từ chiếc radio đã phát nhạc trung thu. Bài hát của nhạc sĩ Lê Thương, không bao giờ quên được:
“Tết trung thu rước đèn đi chơi, em rước đèn đi khắp phố phường. Lòng vui sướng với đèn cầm tay, em múa ca dưới ánh trăng rằm. Đèn ông sao với đèn cá chép. Đèn thiên nga với đèn bướm bướm. Em rước đèn dạo khắp phố phường. Tùng cắt tung với tàng cắc chiêng, …”
Giai điệu vui tươi, nhí nhánh, hồn nhiên làm ta hình dung ra được cả đoàn thiếu nhi đang cầm đèn ca múa dưới ánh trăng rằm, với đầu Lân, ông Địa, đi dạo khắp phố phường. Nghe bài hát, lòng ta rộn ràng, không sao không nghĩ đến những chiếc lồng đèn và vũ khúc dưới trăng.
Tôi đã nghe bài hát này nhiều lần, từ thuở học tiểu học, ngày tuổi 12. Tôi nhớ bài hát, nhớ luôn cả ban hợp ca, từng giọng hợp xướng. mặc dù không biết tên từng em, nhưng là Ban Việt nhi đài phát thanh Sài Gòn.
Ngày nay, bài hát này đã được xử dụng trở lại trong ngày hội trung thu. Nghe lại bài hát, tôi vẫn thấy bị cuốn hút bởi sự hồn nhiên, trong sáng của tuổi thơ.
Một bài hát khác, lôi cuốn chúng ta vào cõi mơ, “Thằng Cuội”, vẫn tác giả Lê Thương, trong đó có thằng Cuội, ngồi gốc cây đa, trên cao, nhìn xuống trần gian, nhớ vợ.
“Bóng trăng, trắng ngà,
Có cây đa to, có thằng cuội già,
Ôm một mối mơ.
Lặng yên ta nói Cuội nghe,
Mười lăm tháng Tám trời cho
Một ông trăng sáng thật to
Các em thích cười muốn lên cung trăng
Cứ hỏi ông Trời cho mượn cái thang”
Ánh trăng vằng vặc đêm trăng rằm sáng ngà, nhìn lên trên cao, thấy Cuội, ngồi dưới gốc cây, các em tự hỏi làm sao để lên gặp Cuội? Dễ ợt, mượn cái thang, leo lên là tới nơi, gặp được Cuội. Ôi! Không có gì dễ thương, ngô nghê, và trong sáng bằng tuổi thơ. Tác giả dùng hình ảnh cái thang để nói lên ước mơ muốn vươn tới cung trăng, thật không gì cụ thể hơn, không gì mãnh liệt hơn. Thi vị hóa mặt trăng, xem mặt trăng là một vùng đất lãng mạn, nên thơ, có sự sống. Tác giả đã nói lên ước mơ của tuổi thơ với sự hồn nhiên, muôn vươn tới các tinh cầu khác ngoài trái đất.
Nhưng tại sao Cuội lại lên cung trăng, để rồi nhìn xuống hoài vọng tới người vợ ở trần gian?
Truyện cổ tích với bài học “Chú Cuội”, trong chương trình Việt văn, các em đều có học.
Cuội làm nghề thợ săn, kiếm cũi, bửa nọ vào rừng, Cuội bắt gặp chú cọp con, chưa biết chạy nhảy đang nằm chờ mẹ săn mồi. Cuội nhìn ngắm không chán đang loay hoay với dự định bắt cọp nhưng vừa đúng lúc cọp mẹ trở về, Cuội sợ hãi, bẽ chân cọp. Rồi leo lên cây, quan sát. Cọp mẹ thấy con bị thương ở chân, gầm rú hung tợn, cọp đến một bụi cây, há miệng ngoạm một nắm lá, nhai, dùng nó đắp vào vết thương cho cọp con. Một chốc sau, chân cọp lành, đi lại được. Cuội lấy làm kỳ lạ, chờ lúc cọp mang con bỏ đi, Cuội đến chặt một cành cây mang về nhà trồng. Cây lớn, phát triển thành cây cao, tỏa bóng râm mát.
Từ đó, hễ ai bị đau đầu, cảm cúm, thương tật, Cuội biết được đều dùng lá chữa bệnh đều hiệu quả, lành bệnh. Tiếng đồn lan xa, một hôm có lệnh quan Chánh tổng cho mời Cuội đến chữa bệnh cho con gái của ông ta. Cô gái bị bệnh đã lâu ngày, không ai chữa khỏi, ngài chánh tổng rất tuyệt vọng, nghe tin đồn ngài mừng lắm, hy vọng cơ may đến cho con gái.
Cuội cứ thế sắc lá cây thần dược cho uống để chữa bệnh. Cô gái lành bệnh. Quan Chánh tổng mừng lắm, gã con gái mình cho Cuội luôn.
Có được vợ đẹp, con quan, nhưng Cuội vẫn chí thú làm nghề săn bắn, và làm việc nghĩa, dùng lá cây thần dược chữa bệnh cho người nghèo. Cuội biết được, đây là cây thần dược, rất kỵ ô uế, nên mỗi lần đi đâu, Cuội đều dặn vợ: Có đái thì đái bên tây, chớ đái bên đông mà cây dông lên trời.
Thấy chồng yêu quý cây thần dược còn hơn mình, vợ Cuội sinh lòng ghen ghét. Một hôm thừa lúc chồng đi vắng, vợ Cuội đi tiểu tiện, nàng nghĩ, đã dặn bà thì bà cứ làm cho biết, nàng đến gốc cây và tè ngay trên gốc. Cây bỗng nhiên cây bị trốc gốc, nhẹ nhàng từ từ bay lên Trời. Vừa lúc Cuội về đến nơi, thấy cây đang bay bỗng lên cao, tiếc quá Cuội nhảy lên dùng hai tay, níu lấy rễ cây xuống, nhưng vô vọng. Cuối cùng cả cây và Cuội đều bay lên Trời.
Hình ảnh mặt trăng, có bóng Cuội ngồi dưới gốc cây, đang nhìn xuống tìm vợ. Phải chăng là tiếc nuối một thuở hạnh phúc với người vợ thân yêu?
Tuy nhiên, trong ngôn ngữ bình dân, hình tượng chú Cuội lại là một người hay nói dối: “nói dối như Cuội”, điều này không biết có phải phản ảnh đúng hình tượng của Cuội? mặt khác câu ca dao sau đây nói về Cuội như một người ham chơi, lêu lỏng:
Thằng Cuội ngồi gốc cây đa
Để trâu ăn lúa, gọi cha ời ời.
Cha còn cắt cỏ trên đồi
Mẹ còn cởi ngựa đi mời quan viên.
Cho dù thế nào, hình tượng của Cuội phản ảnh nhiều mặt của một cậu bé, ham chơi, ưa nói dối, nhưng vẫn là một người tốt.
Thằng Cuội là hình tượng của trẻ thơ, của nụ cười hồn nhiên, trong sáng. Mãi mãi là kỉ niệm một thời.
Nếu trẻ thơ yêu Cuội trong đêm trăng thì Trăng là hình tượng của người lớn, của những tình nhân, những người cô đơn, muốn cùng trăng chia xẽ tâm sự, nỗi lòng của mình: “Trăng ơi! Trăng thấu nỗi lòng.” Như lời một bài hát.
Trong Kim Vân Kiều, tâm trạng cô đơn được lột tả khi mượn vầng trăng để thể hiện:
Vầng trăng ai xẽ làm đôi
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm đượng.
Hàn Mặc Tử trong cơn đau cuồng nộ, không còn phân biệt được đâu là trăng, đâu là mình. Chủ thể - tác giả, Tha thể- Trăng hòa hợp trong một hơp thể, trong một biển sáng xao động, như bài “Chơi giữa mùa Trăng”:
“Trăng là ánh sáng? Nhất là Trăng giữa mùa thu, ánh sáng càng thêm kì ảo, thơm tho, và nếu người thơ lắng nghe một cách ung dung, sẽ nhận thấy có nhiều miếng nhạc say say gió xé rách lả tả. Và rơi đến đâu, chạm vào thứ gì là chỗ ấy, vang lên tuy chẳng một ai thấy rõ sức rung động, Nghĩa là trăng rằm trung thu: Một đêm siêu hình, vô lượng, tượng trưng của một mùa ao ước xây bằng châu lệ, làm bằng chia ly, và hơn nữa, hiện hình của một nguồn khoái lạc chê chán…phải không hởi chàng Ngưu và ả Chức?...
…Bây giờ chúng tôi đang ở giữa mùa trăng, mở mắt cũng không thấy rõ đâu là chín phương trời, mười phương Phật nữa. Cả không gian đều chợp chờn những màu sắc phiều diễu đến nỗi đôi đồng tử của chị tôi và tôi lờ đi vì chói lọi…ở chỗ nào cũng có trăng, có ánh sáng cả, và tưởng chừng như cả thế giới chở chúng tôi đây cũng đang ngập lụt trong trăng và đang trôi nỗi bềnh bồng đến một địa cầu nào khác…
Tôi bỗng thấy chị tôi có vẻ thanh thoát quá, tinh khôi, tươi tốt và oai nghi như pho tượng Đức Bà Maria là đức tinh tuyền chi thánh. Tôi muốn sốt sắng quỳ lạy và mang ơn bào chữa. Nhưng Trời ơi, sao đêm nay chị tôi dẹp đẽ thế này. Nước da của chị tôi đã trắng, mà vận quần áo bằng hàng trắng nữa, trông thanh sạch quá…Nhưng tôi lại phì cười và vội reo lên: “A ha, chị Lễ ơi chị là trăng mà em đây cũng là trăng nữa!”.
…Không, không, chị ơi! Em ơi ánh sáng đêm nay sẽ tan đi, ta sẽ buồn thương và nhớ tiếc. Em muốn bay thẳng lên trời để tìm ánh sáng muôn năm thôi…”
Trong âm nhạc, trăng là hình tượng, là chủ đề của biết bao nhiêu nhạc sĩ.
Trịnh Công Sơn, ngợi ca người con gái mang tên Nguyệt, mô tả vẻ đẹp thanh thoát của nàng, Trịnh dùng hình tượng mặt trăng để nói sự chuyển di từ một thực thể (tinh cầu) được thi vị hóa bằng những khái niệm có tính biểu tượng (chị Hằng) sang một con người cụ thể (Nguyệt) và đánh dầu sự kiện đó như là một thời khắc, làm nên biến cố: “Từ khi trăng là Nguyệt, đèn thắp sáng trong tôi. Từ khi trăng là nguyệt, em mang tim bối rối. Từ khi trăng là nguyệt tôi như từng cánh diều vui. Từ khi em là Nguyệt trong tôi có những mặt trời.
Em là Nguyệt hay trăng là Nguyệt, đó là một sự hòa nhập, không có ranh giới giữa danh và thực. Mặt trời không bao giờ có thực, nhưng mặt trời tràn ngập trong tôi kể từ khi em bước nhẹ vào đời. Chúng ta lưu ý tư tưởng thiền bàng bạc trong Nguyệt ca.
Với Nhạc sĩ Phạm Duy, trăng là Ông, là nam tính, là niềm vui, là hạnh phúc, đem đến sự an lạc cho mọi người. Trăng đến đâu đều được đáp ứng, tặng quà theo kiểu «cây nhà lá vườn»: «ông trăng xuống chơi cây cau thì cau sẽ cho mo. Ông trăng xuống chơi học trò thì học trò cho bút. Ông Trăng xuống chơi ông bụt thì ông bụt cho chùa. Ông trăng xuống chơi đền thánh thì cụ chánh cho mõ...Ông trăng xuống chơi nhà vua thì nhà vua cho lính...»
Trăng là một tinh cầu, là một thực thể, có thực nhưng trăng đã được tác giả gọi là ông, là sự vui tính đem lại niềm vui, sự viên mãn cho mọi người. Với ngôn ngữ âm nhạc của Phạm Duy, trăng là một hình hài, xuống chơi với trần thế và đến đâu đều được tặng quà. Giai điệu của bài hát ngắt quảng. Hình ảnh được cụ thể hóa bằng hình tượng, sống động theo ngôn ngữ trẻ con: cây cau, cái mo, ông Bụt, ngôi chùa, nhà vua, lính,...
Nhắc đến những bài hát về trăng, không thể bỏ quên hai bài hát nỗi tiếng: «Thuyền trăng» của Nhật Bằng và «Khúc nhạc dưới trăng» của Dương Diệu Tước:
Bài hát «Thuyền trăng», lời của Thanh Nam, nhạc của Nhật Bằng như đưa chúng ta vào cõi thoát tục, xa rời cuộc sống ô trọc đầy những bon chen danh lợi, con thuyền lướt trôi nhẹ nhàng dưới đêm trăng, êm đềm thơ mộng:
Thuyền trôi triền miên trên sông nhịp nhàng
Thuyền trôi lướt êm trên sông mơ màng
Gió đưa con thuyền dìu theo ánh trăng
Bờ xa âm thầm làn sóng luyến thương
Thời gian nhẹ trôi như ru mộng đời
Thuyền ơi hãy đi thăm nơi chân trời
Dưới trăng ta về dạo chơi xứ thơ
Cùng với tiếng đàn hòa khúc mơ hồ
Lời của bài hát cùng với giai điệu để lại cho người nghe một cảm nhận dịu dàng đầm thắm. Thuyền trăng hay thuyền chở trăng? Con thuyền lướt nhẹ dưới đêm trăng lung linh ánh sáng mờ ảo. Thi sĩ Lý Bạch đã đi thuyền trên sông, nhìn trăng dưới nước, đẹp quá. Lý Bạch đã nhảy xuống sông ôm trăng mà chết.
Thuyền trăng không nhắc đến điển tích Lý Bạch, nhưng đi thuyền dưới trăng, tác giả đã nhớ lại mối tình Trương Chi - Mỵ Nương. Trương Chi, người chèo đò có tiếng hát ru hồn con gái vị quan, Mỵ Nương. Nàng đã tương tư người chèo đò, nhưng khi gặp được chàng, người ca nhân ấy với khuôn mặt ấy, ngôn ngữ ấy, nàng đã thất vọng. Nhưng còn chàng Trương Chi? Sự gặp gỡ nàng là một định mệnh oan khiên. Trương Chi ôm mối hận tình mà chết.
« Thương anh Trương Chi yêu nàng Ngọc nữ đêm nào. Câu hát ân tình muôn đời muôn kiếp không phai. Hồn còn nghẹn ngào hận tình sầu mộng về đâu. Thuyền trôi chèo nghiêng trên sông lặng lờ. Vầng trăng khuất sau chân mây mơ hồ. Lắng nghe sông buồn dạo lên khúc ca. Thuyền hỡi nhớ về cùng bến mong chờ.».
Tiếng hát ru hồn đã làm biết bao nhiêu người mê đắm. Có người với danh vọng sự nghiệp lẫy lừng. Hoa hậu Mỹ Quốc, tốt nghiệp y khoa đại học Mỹ hạng giỏi, đại sứ thiện chí, tình nguyện viên công tác xã hội, mê tiếng hát, kết hôn với người ấy, nhưng hôn nhân giết chết tình yêu. Nàng thất vọng. Hóa ra tình yêu chỉ là ảo ảnh. Nó là con đom đóm ban đêm. Đẹp lắm thay, nhưng khi chiếm hữu được nó, thì ra nó chỉ là một con sâu bọ ghê sợ.
Câu cuối của bài hát là sự thể hiện niềm chung thủy, một lời nhắn gửi: Thuyền hởi nhớ về cùng bến mong chờ!
Khúc nhạc dưới trăng được nhạc sĩ Dương Thiệu Tước dàn dựng một điệu vũ vui nhộn, hồn nhiên. Giai điệu, lời bài hát trong sáng. Con người hòa mình với thiên nhiên, vạn vật, bao nhiêu sầu muộn, bao nhiêu khổ đau, hãy trút bỏ: Vui, một đêm vui, nhạc đầy vơi. Ca múa chơi. Ta cùng say trăng. Khúc ca mơ màng...
«Dưới ánh vầng trăng bóng ngà, một trời mát êm trong sáng, dưới bóng ngàn sao sáng ngời, chập chờn bóng đêm. Thấp thoáng ngàn cây bóng lồng. Một bầy thiếu niên ca múa, khúc hát nhịp theo tiếng đàn chập chờn dưới trăng. Vui một đêm vui. Nhạc đầy vơi. Ca múa chơi.. Ta cùng say trăng. Khúc ca mơ màng. Gió cuốn lên tìm trăng. Ta ước mơ cung hằng. Ta ước mơ cung hằng. Làn gió, như lưu luyến ánh trăng thanh. Kìa dáng liễu buông tơ mành. Kìa làn nước in trời xanh. Mờ rung bóng đêm tàn canh. Cùng vui. Ta vui khúc ca du dương. Lòng tha thiết bao yêu đương. Cùng mây gió bay ngàn phương. Lòng quên hết bao sầu thương. Thề quên hết bao sầu thương. Mơ trăng tươi hoa tươi vui ca đời vui».
Hãy chung vui một đêm dưới trăng. Hãy hòa mình cùng ánh trăng bàng bạc
Hãy quên đi cuộc đời đầy phiền muộn!
Cảm ơn đời. Cảm ơn trăng.
Tuấn Nguyễn