Chương 1

    
e lửa dừng ở ga Mỹ Tho vào lúc mặt trời lặn. Lần đầu tiên tôi xuống một tỉnh lỵ miền Tây. Chưa có cây cầu nào bắc ngang Cửu Long giang nên xe lửa chỉ mới chạy tới Mỹ Tho. Nhà ga nằm sát bờ sông. Tấp nập hơn ga Tân An nhưng, dường như, vẫn mang một nỗi buồn. Buồn ga nhỏ. Ngó qua cửa sổ toa xe bên phải tôi trông thấy những cù lao nổi trên mặt sông chi chít cây cối. Y hệt những hòn đảo nhỏ trên mặt biển. Bên Tre bên đó. Nghe nói dừa nhiều
Tôi theo giàn nhạc Hạ-uy-di của Nguyễn xuống Mỹ Tho giúp vui một đêm văn nghệ tổ chức tại một trường trung học mà Điều, bạn chúng tôi, dạy tại đó. Giàn nhạc Hạ-uy-di mang tên Hương Duyên, được thành lập ở sân Cư Xá Hoả Xa đường Petrus Ký vào một đêm trăng. Nguyễn đã từng học nhạc Hạ-uy-di ông Williams Chấn từ ngày còn ở Hà Nội, mong ước của anh ta là, nổi tiếng ngang Đoàn Chuẩn, một tay chơi lục huyền cầm vang danh Hà Nội. Nguyễn luôn luôn nghĩ đến những chiếc áo chim cò bỏ ngoài quần, cổ đeo vòng hoa giấy màu, giàn nhạc trình bày những bản Hilo March, Blue Hawaii, Habor Light, Đàn chim Việt, Ngày về, Nỗi lòng. Những cây dừa và bãi biển sẽ là phông. Như giàn nhạc Hạ-uy-di của ông Willams Chấn đã trình bày tại Nhà Hát Lớn Hà Nội. Những Nguyễn chưa đủ tài phổ dàn nhạc Hạ-uy-di trước số khán giả sành điệu nghệ thuật. Nguyễn sợ sệt, dù ông Williams Chấn khuyến khích và tập dượt nhiều lần. Nhận dịp Điều mới, Nguyễn ben nhận lời ngay gọi là “thử lửa” một phen trước những người thưởng thức mà anh ta tin rằng sẽ dễ tính. Giàn nhạc rủ thêm hai em Quỳnh Hương và Vân Duyên, bạn gái của Ngạc, con hai ông kỹ sư hoả xa cùng ngụ tại Cư Xá Hoả Xa với gia đình Ngạc. Giàn nhạc, do đó, mang tên Hương Duyên. Tôi được cử đi hộ vệ giàn nhạc để trấn an tinh thần Nguyễn.
Một phần cũng vì Quỳnh Hương. Không hiểu tại sao Quỳnh Hương và Vân Duyên dám đi hát xa. Lại bằng lòng ngủ trọ ở Mỹ Tho, mấy đêm cũng được, Ngạc bảo gia đình hai nàng Tây lắm. Tôi không tin. Và tôi nghĩ hai nàng đều có máu nghệ sĩ trong tim. Quỳnh Hương giản dị, thành thật. Những người con gái miền Nam đều thành thật cả. Tôi mến Quỳnh Hương nhất, mỗi khi nàng tròn xoe mắt, ngây thơ hỏi những danh từ ăn chơi khó hiểu mà chúng tôi nói chuyện với nhau có nàng ngồi nghe. Không ai dám ngờ tôi có thể rủ rê hai cô con gái con hai ông kỹ sư đi lưu diễn văn nghệ. Ngay cả tôi, mãi tới lúc này, đứng tựa tay vào cửa sổ toa xe, nhìn sang sông tôi mới chắc rằng Quỳnh Hương và Vân Duyên đang ở sau lưng tôi.
- Thằng Điều kia rồi!
Nguyễn reo lên mừng. Anh ta gọi tôi:
- Hoài, Hoài, thằng Điều ra đón chúng mình.
Tôi quay lại, bỏ rơi ý nghĩ về Quỳnh Hương, Vân Duyên và rừng dừa Bến Tre. Một cơn gió lạ vừa thổi vào tâm hồn tôi. Gió miền Nam đây. Chúng tôi xuống tầu sau hết mọi người. Buổi chiều tỉnh lỵ thật đẹp và thật buồn. Một tà áo trắng từ đằng xa cũng đủ làm nổi bật đường chiều Mỹ Tho. Và tôi tưởng chừng hương khói không thể xoá mờ nhân ảnh ở đây. Hai năm trời xa quê hương, tôi mới vừa thấy tỉnh lỵ. Tôi vẫn để lòng tôi ở tỉnh lỵ miền Bắc, dù tôi đã lớn lên ở nhiều thành phố. Mỹ Tho sao mà giống cái tỉnh lỵ chôn rau cắt rốn của tôi thế. Tôi gặp tỉnh lỵ cũ kỹ mấy năm xưa của mình. Và cảm tình của tôi đã gửi trên những mái ngói rêu phong của những căn nhà một tầng xây không thẳng hàng. Tự nhiên, tôi không muốn người ta chỉnh trang tỉnh lỵ. Tôi ghét những căn nhà lầu mới xây ở tỉnh lỵ. Những căn nhà lầu, tôi nghi ngờ quá, sẽ là mầm mống của sự thay đổi lố lăng nếp sống êm đềm của người tỉnh lỵ. Mỹ Tho chưa có những căn nhà lầu mới xây cất. Ngay cả cây cầu bắc ngang con sông nhánh của sông Cửu Long ngăn cách hai bên tỉnh lỵ cũng hãy còn nguyên dáng dấp cổ xưa. Xuân Diệu ngày nào đã dừng trên cầu này, nhìn ra sông lớn tìm cảm hứng làm thơ ca ngợi tình yêu. Tôi mến Mỹ Tho hơn vì nơi ấy, đã chứa một thi sĩ tôi hằng yêu kính. Tôi ngẩn ngơ nhìn Mỹ Tho cơ hồ nỗi ngẩn ngơ của một cô gái vừa bước chân về nhà chồng.
Điều đưa chúng tôi đến một biệt thự đường Alexandre de Rhodes. Gọi là biệt thự, chứ thực ra chỉ là căn nhà có vườn trồng nhiều hoa và lối đi rải đá sỏi. Biệt thự Hương Lan. Điều trọ tại biệt thự này. Bà chủ có hai cô con gái. Một cô đã lấy chồng và hai vợ chồng qua Pháp học rồi. Còn một cô đang ở nội trú Gia Long Sài gòn. Ông chủ là một thẩm phán. Ông đã bỏ vợ con, bỏ tỉnh lỵ, lên Sài gòn xây dựng một hạnh phúc ồn ào hơn. Từ năm năm nay, ông không về Mỹ Tho nữa. Bà chủ đã quen nỗi buồn. Bà sống bình thản cùng những bông hoa nở rợp của vườn nhà. Nỗi buồn của bà ướp vào hoa sứ - hoa ngọc lan - phảng phất và mộng mị. Bà chủ còn trẻ. Bà yêu thơ. Điều bảo tôi rằng bà chủ thích sống trọn vẹn nghĩa của câu “Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên”. Bà đã từng ra bờ sông, ngồi dưới gốc dừa, đợi trăng mọc vào những hôm trăng mọc muộn. Vườn hoa của bà chỉ thiếu giàn thiên lý, Mà tôi, tôi yêu hoa thiên lý vì tôi có một kỷ niệm đằm thắm về hoa thiên lý. Tôi yêu hoa thiên lý như yêu mẹ tôi. Mẹ tôi yêu hoa thiên lý như yêu bố tôi và anh em tôi. Tôi thoáng gặp vài nét thân yêu trên khuôn mặt bà chủ biệt thự Hương Lan. Tôi chẳng hiểu có phải vì đồng điệu không mà, khi cả bọn rủ nhau đi ăn về, giàn nhạc của Nguyễn tập dượt cho buổi trình diễn ngày mai, bà chủ chẳng thèm chú ý tới tiếng đàn ngọt ngào của Nguyễn. Bà đã ra vườn trước nhà, ngồi nói chuyện với tôi trên chiếc ghế đã có lưng dựa.
- Thầy không chơi nhạc à?
- Thưa bác, cháu không biết âm nhạc.
Tôi khen một câu xã giao đầu tiên:
- Vườn nhà nhiều hoa đẹp quá.
Bà chủ nhìn tôi:
- Vậy mà không giữ nổi một cánh bướm.
Cánh bướm mà bà chủ biệt thự Hương Lan vừa mới nói tới bằng giọng nửa như trách móc nửa như tủi thân khiến tôi phải nhìn bà với cặp mắt của hoạ sĩ truyền thần. Tôi xuống Mỹ Tho vào dịp trăng tròn. Và, dưới ánh trăng sáng, tôi thấy bà chủ biệt thự Hương Lan từa tựa nhân vật nữ của Ôn Như Hầu trong “Cung Oán Ngâm Khúc”. Ánh trăng giấu giếm giùm người ta nhiều sự thật đau đớn. Nhất là đã giấu cái vẻ già nua của đàn bà. Nên tôi chưa thể nhìn rõ một vài nếp nhăn trên khuôn mặt bà chủ biệt thự Hương Lan. Mà chỉ thấy đôi mắt đen sâu thẳm ở khuôn mặt đẹp não nùng. Dưới ánh trăng tỉnh lỵ, dĩ nhiên là thế.
- Thưa bác, cháu nghĩ rằng con bướm chỗ vườn hoa nhà thật là dại dột.
Bà Hương Lan - bây giờ tôi muốn gọi vậy - suy nghĩ giây lát rồi hỏi tôi:
- Thầy bao nhiều tuổi?
- Cháu hai mươi ba.
- Trẻ quá nhỉ? Thấy còn trẻ mà sao biết nổi sự dại dột của con bướm?
- Có lẽ vì cháu vào đợi sớm.
- Đã dan díu với cô nào chưa?
- Thưa bác, nếu được ví như con bướm thì cháu đang bay trên những vườn hoa.
- Đợi chừng nào mới đậu?
- Ngày cháu làm nên một việc gì đó.
- Việc gì?
- Việc khác việc của người khác.
- Vậy thầy đang làm gì?
- Cháu đang… thất nghiệp!
- Tôi cứ nghĩ thầy cũng dạy học như thầy Điều.
- Không, cháu rất ghét cái nghề nhai lại. Nghề ấy cao quý lắm nhưng cháu chẳng dám theo đuổi.
- Cậu có vẻ… thi sĩ?
- Thi sĩ không biết làm thơ.
- Ồ, cần gì làm thơ! Có những người suốt đời làm thơ mà có ai nhận là thi sĩ đâu.
Bà Hương Lan, quả như Điều nhận xét, là người đàn bà tâm hồn nặng trĩu chất thơ. Tôi nghĩ trái tim bà được ướp bằng tinh tuý của thi ca. Bà chép miệng:
- Tỉnh lỵ nào cùng có đời sống bình thản. Không ai thích làm dậy sóng gió cả. Thầy biết không, một cây ngọc lan vườn nhà tôi, cả tỉnh đều ngửi được hương thơm. Tôi muốn như cây bông sứ dù tôi rất ghét thứ hương thơm giả tạo.
Tôi chợt hiểu vì nguyên do nào bà Hương Lan tự đầy mình trong lãnh cung của dục vọng từ năm năm trời nay. Cuộc đời ở tỉnh lỵ thật buồn. Đó là cái lồng không đóng cửa nhưng không con chim nào dám bay khỏi lồng để ca hót, bay lượn theo ý mình muốn. Nếu nó muốn bay, nó phải bay xa vùng trời của nó và đừng bao giờ hy vọng trở về. Tôi bắt tội nghiệp bà Hương Lan. Bà giống cô Nhung “Lạnh Lùng” của Nhất Linh. Khổ hơn cô Nhung, bà Hương Lan chỉ dám ngoại tình bằng tâm tưởng. Bà yêu trăng, yêu hoa, yêu thơ thay vì yêu một người đàn ông nào đó.
- Cháu thích tỉnh lỵ vì thế, thưa bác. Đời sống ấy bị giới hạn song sự giới hạn nó khiến tỉnh lỵ đẹp hơn thành phố.
Bà Hương Lan mỉm cười:
- Thầy an ủi tôi?
Tôi xoa tay:
- Cháu ích kỷ thì có. Giả dụ cây ngọc lan ở vườn nhà không còn mùi thơm của ngọc lan, làm sao cháu được ngồi đây, dưới ánh trăng này, nói chuyện cùng bác.
Bà Hương Lan cười thành tiếng. Tôi chưa biết diễn tả tiếng cười của bà ra sao. Bà dứng dậy, dời chiếc ghế đối diện tôi và sang ngồi gần tôi.
- Thầy không hút thuốc lá à?
- Dạ không ạ!
- Uổng hết sức. Với khung cảnh này, người ta cần hút thuốc. Tôi khuyên thầy nên tập hút thuốc lá đi. Khói thuốc hay bất cứ một thứ khói gì cùng đều gợi cảm.
- Thầy thuộc thơ Hồ Dếnh không?
- Cháu chỉ đọc “Chân trời cũ” của Hồ Dếnh thôi.
- À, tôi thích tâm hồn thơ Tầu lai Việt của Hồ Dzếnh lắm. Đọc bài “Cô gái Việt Nam” của ông ta, cảm xúc lạ lùng.
Chinh Hồ Dzếnh đã “Nhớ nhà châm điếu thuốc, Khói huyền bay lên mây” đó, thầy ạ!
- Bác đọc nhiều quá. Mà cháu hơi ngạc nhiên thấy bác nói tiếng Bắc thật hay.
- Thầy Điều dạy tôi đấy. Học hai năm rồi. Thuở còn là học trò, tôi mê đọc văn chương Tự Lực Văn Đoàn và Tiểu Thuyết Thứ Bảy. Tôi là người Nam, tâm hồn ướp bằng văn chương Bắc.
Bà Hương Lan lại trở về chuyện hút thuốc lá:
- Thầy hút thuốc lá, sẽ thấy mình già thêm một chút. Và già thêm một chút, tự nhiên, thầy sẽ đi xa ý nghĩ của mình một chút.
Tôi nói:
- Để làm gì, thưa bác? Cháu trẻ mãi?
Bà mỉm cười. Nụ cười thật đẹp. Vì tôi đã nhìn rõ nụ cười ấy.
- Bộ thầy tưởng một mình thầy ích kỷ thôi ư? Tôi cũng biết ích kỷ.
Từ trong nhà, tiếng đàn Hạ-uy-di của Nguyễn vọng ra. Anh ta đang rượt bài “Ngày về” của Hoàng Giác. Tôi đã nghe Williams Chấn đàn bàn này. Ông Chấn là người Trung Hoa, quê ở Thượng Hải. Ông chạy giặc từ Tầu qua Việt Nam và lập nghiệp luôn tại Việt Nam. Nhưng tay danh cầm Hạ- uy-di người Hà Nội, phần đông, là học trò của ông. Ông mến nhất Đoàn Chuẩn. đã nghe ông Williams Chấn chơi đàn Hạ-uy-di, không thiết nghe tiếng đàn Hạ-uy-di nào khác. Ông diễn tả những bản nhạc Việt thật bất hủ. Bài “Đàn chim Việt” của Văn Cao, có câu “…Tới đây chim thấy lòng ngập ngừng nhớ ai trên mấy đồi Yên Thế…”, ông lướt “bloc” trên sợi dây trầm hai nốt “ngập ngừng” khiến người nghe tưởng chừng cánh chim đang vỗ mạnh yếu đi và… ngập ngừng không muốn bay nữa. Nhưng ông Chấn bất hủ nhất câu “Nhớ phút chia ly ngại ngùng bước chân đi, luyến tiếc bao nhiêu ngày xanh… trong bản “Ngày về”. Tiếng đàn của ông nức nở, xao xuyến, bồi hồi… không một nhạc sĩ Việt Nam nào lột hết được ý của tác giả những “Ngày về, Đàn chim Việt, Suối mơ, Trở về bến mơ…” bằng bất cứ thứ đàn gì, ngoài tiếng đàn Hạ-uy-di của ông Chấn.
Người thầy nhạc này, một cây lục huyền cầm Hạ-uy-di diễn, có thể, chơi được vĩ cầm mà tôi nghĩ dù người chơi vĩ cầm cả chục nam vẫn thua cái nút đàn điện của ông. Ông Williams Chấn chơi lục huyền cầm Ý-pha-nho cũng tuyệt vời. Ông đúng là thiên tài âm nhạc. Chỉ tiếc ông “giấu nghề” nên học ông có nghĩa là tốn công vô ích. Ông không truyền những ngón điêu luyện cho ai cả, dù phục dịch ông như một đệ tử trung thành nhất. Tôi đã từng đi mua cà phê cho ông Chấn, coi lớp đàn giùm ông ta lúc ông vắng mặt, đến nhà ông ta khuân đồ đạc, dọn dẹp để cố học một bài “Ngày về”. Ông hứa dạy tôi. Một năm liền hầu hạ ông, tôi chẳng được ông truyền tí nghề nào. Tôi bèn bỏ mộng chơi đàn và ước ao, ngày nào đó, đầy uy quyền, tôi sẽ chặt hai ngón tay của ông Chấn để cảnh cáo sự giấu nghề nhỏ mọn của người Trung Hoa. Nói vậy, song tôi vẫn mê tiếng đàn Hạ-uy-di của Williams Henri Chấn. Mê đến nỗi, Nguyễn chơi đàn Hạ-uy-di, tôi cảm như anh ta vừa bắt đầu tập đàn, mặc dầu, anh ta đã khổ công tập luyện tự mười năm nay.
Nhưng, chẳng hiểu vì sao, tối nay và ở khung cảnh êm đềm này, tiếng đàn Hạ-uy-di của Nguyễn đã làm tôi bồi hồi, xao xuyến. “… Ta sống không một lời trìu mến. Như bóng con đò chiều lạc bến”. Tôi chợt hỏi một câu, vu vơ:
- Bác không thích âm nhạc?
Câu hỏi của tôi không có ý lảng những ý nghĩ nào đó của bà Hương Lan. Chừng bà cũng hiểu thế. Bà nói:
- Đôi khi tôi thích âm nhạc, đôi khi tôi ghét. Âm nhạc không diễn tả nổi chiều sâu thẳm của tâm hồn. Tôi đã nghe Mozart, Beethoven, Chopin, Bach, Wagner… Xúc động thì có đấy, song tôi thấy âm nhạc chỉ nói được tâm sự quanh ta chứ không nói hết được tâm sự trong ta. Thơ cũng vậy. Chỉ có văn. Cái gì còn bị ràng buộc vào luật lệ, khó mà diễn tả thật.
Bà Hương Lan là người đàn bà, tôi nghĩ, tỉnh lỵ không ai hiểu nổi bà ta. Tôi đâm ra sợ sệt trước người đàn bà trí thức và trĩu nặng chất nghệ sĩ này.
- Còn thầy?
- Dạ.
- Thầy thích âm nhạc hay văn chương?
- Cháu chưa đủ kiến thức để biết yêu thích cả hai thứ đó.
- Gần đây, thầy đọc tác giả nào?
- Mai Thảo.
- À, “Đêm giã từ Hà Nội”, tôi vừa đọc. Cây bút này tài hoa lắm. Thầy tin tôi đi, ông Mai Thảo đang để những dấu chân dò dẫm vào văn học của ông trên đường. Và, ít nhất, cùng có hai ba kẻ giẫm lên bước chân của ông.
- Bác thử đoán tương lai họ xem sao.
- Ai?
- Những kẻ bước theo vết chân ông Mai Thảo.
- Chỉ là...
Bà Hương Lan gõ ngón tay vào trán tìm chữ:
- Tôi sẽ nói quá đáng đấy.
Tôi cười:
- Cháu thích nghe sự quá đáng của bác.
Bà Hương Lan nhún vai:
- Chỉ là “xia ra” đánh bóng giày cho ông Mai Thảo! Tôi mến kiểu cách văn chương của Mai Thảo. Gọt giũa công phu đấy chứ. Tôi sợ người ta kiểu cách hơn Mai Thảo thì tôi nghiệp cả người ta lẫn Mai Thảo.
Tôi không dám đi sâu vào lãnh vực văn chương. Tôi đọc rất ít. Và đọc để giải trí. Để thay thuốc ngủ. Nói chuyện văn chương với bà Hương Lan là thòi cái đuôi dốt nát của mình. Bà Hương Lan đọc văn, phê bình văn và còn tìm hiểu tác giả nữa. Bản “Ngày về” của Hoàng Giác, Nguyễn chơi đi chơi lại. Và càng tăng thêm nỗi bồi hồi của tôi, dưới ánh trăng, trên ghế xi măng, cạnh bà Hương Lan.
- Bác thích bản “Ngày về” không?
- Thầy có vẻ thích?
- Vâng, vì cháu đang muốn về, đang mong ngày về. Xa nhà thế mà đã hơn hai năm. À, thưa bác, bản “Ngày về” nghe nói của một người lính lê dương.
- Ủa!
- Thưa bác, người ta bảo người lính lê dương này là một anh Đức trí thức. Anh ta, vì một cuộc tình, giết người rồi trốn sang Pháp đăng lính lê dương và nhập vào đoàn quân viễn chinh sang Việt Nam đánh mướn. Anh ta nhớ quê hương quá, làm bản “Ngày về”. Nhạc sĩ Hoàng Giác, dạo đó, là lính tác động tinh thần. Trong một buổi ca hát giải trí, Hoàng Giác đã gặp anh lính lê dương nọ. Và anh ta tặng Hoàng Giác bản nhạc duy nhất của anh ta. Hai người tâm sự với nhau thật nhiều. Rồi anh lính lê dương chết trận.
Hoàng Giác thương tri kỷ, đặt lời thành “Ngày về” rồi cho sự mơ ước hồi hương của anh lính lê dương lan toả trong không gian.
Bà Hương Lan khen tôi:
- Thầy nhớ cả lai lịch của một bài ca. Nhưng mà có chắc đúng không? Tôi sợ người ta hay thêu dệt huyền sử quanh một bài thơ, một cuốn sách. Thấy biết vụ T.T.Kh. chứ? Thật là nhức đầu.
Bỗng bà trầm giọng:
- Thầy mong “Ngày về” quê hương miền Bắc lắm, hả?
Tôi đáp:
- Dạ, cháu mong mỏi ngày đêm. Những buổi chiều mưa thất nghiệp, trú chân ở mái hiên nhà thiên hạ, thoáng gặp bếp lửa, cháu thấy trái tim se lại. Và muốn khóc. Cháu nhớ nhà.
Bà Hương Lan ngước mắt nhìn đám mây vừa phủ vầng trăng:
- Mỗi người đều có lần mơ ước một lần trở về. Người bất hạnh nhất là người không bị sông núi cách trở, mà vẫn chẳng dám trở về.
Bà Hương Lan muốn hé cánh cửa tim cho tôi biết tâm sự của bà. Song cánh cửa vừa hé đã khép chặt. Và tôi chỉ thấy tâm sự của bà u ẩn cơ hồ đôi mắt đen của bà. Mùi hoa lan đã quyến rũ tôi. Hai năm nay tôi mới được những phút giây thoải mái ngồi trong vườn hoa nghe một người đàn bà nói chuyện vui buồn.
- Thầy thuộc thơ Nguyễn Bính không?
- Thưa bác, không ạ!
- Nguyễn Bính đã từng lưu lạc phương Nam như thầy. Ông ta cũng nhớ nhà giống thầy. Ông ấy viết nỗi nhớ ấy thành thơ: “Chiều chiều ra đứng trông về Bắc, Chỉ thấy mây thôi, chả thấy gì”. Tôi muốn nơi tôi mong trở về xa vời vợi, nhìn về chỉ thấy mây. Có lẽ, như thế nó đẹp, thầy nhỉ? Người ta mơ ước điều chi, khi thực hiện được, điều mơ ước không đúng với niềm ước mơ của mình, chắc sẽ buồn hơn.
Tôi vừa nghe rõ từng giọt sầu đang đổ xuống tâm hồn bà Hương Lan. Giọng nói của bà mỗi lúc một cay đắng. Đám mây đã trôi qua vầng trăng. Bà Hương Lan quay mặt sang phía tôi:
- À, tôi vô ý quá, tên thầy kêu chi nhỉ?
- Hoài, thưa bác tên cháu là Hoài.
- Gì Hoài?
- Vũ Thương Hoài.
- Cái tên đẹp thật. Hèn chi thầy cứ thích thương nhớ hoài hoài. Thương hoài ngàn năm chăng? Này thầy Hoài…
- Dạ.
- Thầy nói muốn làm việc gì khác với người khác, vậy thầy tính sẽ làm gì?
Tôi đưa bàn tay lên xoa cằm lởm chởm râu ngắn:
- Ngày học lớp nhất, thấy giáo ra đề luận “Sau này lớn khôn, con chọn nghề gì”, cháu đã chọn nghề dạy học. Bây giờ lớn khôn, cháu lại ghét nghề dạy học. Và chưa biết định cư đời mình ở cái nghề nào. Theo ý bác, cháu nên chọn gì?
Bà Hương Lan lắc đầu:
- Ý tôi đâu phải ý thầy.
Tôi nói:
- Thưa bác, bác cứ thử chọn xem sao.
Bà Hương Lan lại ngước mắt nhìn trăng:
- Nếu tôi là thầy, tôi sẽ với trái cây nào gần tầm tay mình nhất. Với trái cây đời cao quá, múa vu vơ chỉ tổ mỏi tay. Mà giả dụ với được, nhỡ trái cây nó xấu xí, nó bị chim mổ rữa rồi, mình sẽ thất vọng.
Tiếng đàn của Nguyễn đã lắng lại, nhường cho tiếng lục huyền cầm Y-pha-nho đệm lời ca của Quỳnh Hương. Nàng rượt bản “Nghìn phương còn lạnh”, thơ của một thi sĩ chưa nổi danh và Nguyễn đã phổ nhạc. Giọng Quỳnh Hương, ở khung cảnh này, bỗng não nề, day dứt. Bà Hương Lan lắng nghe:
“Yêu nhau không nói năng.
Vì cửa đời còn khép, đường đi còn dài.
Tóc em buông xuống bờ vai.
Rồi tung tâm sự trâm cài lệch ngôi
Thơ anh nghiêng ngả thế thời
Tương tư non nước ngậm ngùi nước non
Mưa chiều nhỏ giọt hoàng hôn
Mắt em sao đẫm lệ buồn vương mi
Yêu nhau không nói năng.
Vì nghìn phương còn lạnh xuân thì còn xanh”
Tôi biết Bà Hương Lan đang để lòng mình rung động. Chợt bà hỏi tôi:
- Thầy nghĩ sao?
Tôi mỉm cười:
- Về bài thơ phổ nhạc, thưa bác?
- Không, về lời khuyên chọn nghề ấy mà.
- Thưa bác, bác đã khuyên cháu nên hút thuốc lá. Bác bảo hút thuốc lá sẽ thấy mình già thêm một chút. Và già thêm một chút, tự nhiên mình sẽ đi xa ý nghĩ của mình một chút.
Bà Hương Lan xoa tay:
- Thầy nhớ dai quá.
Tôi kéo cổ áo trùm kín gáy vì lành lạnh:
- Cháu muốn đi xa hơn một chút, muốn trái cây đời xa tầm tay với của mình một chút.
- Thầy không sợ đau khổ ư?
- Cháu đã là đàn ông rồi, thưa bác. Và cháu nghĩ rằng điều bất hạnh cho người đàn ông là hắn không biết đau khổ.
- Nhiều người tìm lạc thú trong dự đau khổ. Hàn Mạc Tử chẳng hạn. Thi sĩ này ca tụng cái “thú đau thương”. Tôi sợ thầy không hưởng nỗi “thú đau thương” đâu.
- Bác khinh thường cháu?
- Không đâu. Tôi quý mến thầy. Sự đau khổ làm lớn con người nhưng cũng dễ làm cằn cỗi con người, Đau khổ quá đỗi mà không giải toả được, người ta dễ biến thành tàn ác. Rất ít người quá đau khổ trở thành hiền nhân. Cho nên, đời thường dành sự đau khổ cho nhà thơ, nhà văn. Những con tằm này càng ăn nhiều dâu đau khổ càng nhả ra tơ vàng óng ánh.
Tôi đứng dậy, bước tới cây ngọc lan, dựa lưng vào thân cây. Bà Hương Lan cũng ngã lưng vô thành ghế đá. Tự nhiên, tôi thèm một điếu thuốc lá. Điếu thuốc lá để già dặn thêm và dễ soi rõ tâm sự của bà Hương Lan bằng đốm lửa đỏ.
- Cháu sẽ cho bác xem nỗi đau khổ thứ nhất của cháu.
- Làm sao mà tôi biết?
- Thưa bác, cháu sẽ viết nó.
Bà Hương Lan vụt ngồi thẳng, khẽ reo:
- Thầy viết văn?
Tôi nói:
- Cháu chọn nghề viết văn. Bác ngạc nhiên không?
Bà Hương Lan duỗi chân thoải mái:
- Không, tôi không ngạc nhiên chút nào. Tôi đã đoán trước…
Tôi hỏi:
- Bác đoán trước cháu sẽ chọn nghề văn?
Bà đáp:
- Gần gần như thế. Thầy có cái phong cách của một nhà văn.
Tôi đùa:
- Nhà văn cỏ, thưa bác?
Bà Hương Lan cười theo:
- Nếu thầy muốn làm “xia-ra” Mà thầy khởi đầu bằng nỗi đau khổ nào?
Tôi vươn tay bám một cành cây thấp nhất.
- Bác đã đọc “Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồng chưa?
Bà Hương Lan gật đầu:
- Rồi.
Tôi buông tay khỏi cành cây, khoanh tay trước ngực:
- Cháu sẽ khởi đầu từ nỗi đau khổ ấy.
- Thầy mê Nguyên Hồng?
- Dạ, mê lắm.
- Và ai nữa?
- Nam Cao, Tô Hoài.
Bà Hương Lan chép miệng:
- Thầy còn quá trẻ.
Tôi hơi bất bình câu nói ấy. Nhưng bà Hương Lan đã tiếp:
- Quá trẻ, vì quá khứ tuổi thơ của thầy còn gần gũi thầy và tương lai thì lại thật xa. Tới một tuổi nào đó, sau khi đã chín mùi thất vọng, người ta hồi tưởng thời thơ ấu, tôi nghĩ rằng thời thơ ấu nó sẽ rực rỡ và tha thiết vô cùng. Thầy đồng ý rằng những nhà văn đứng tuổi viết về tuổi thơ mới đằm thắm, nồng nàn. Những nhà văn trẻ, viết về tuổi thơ, có thễ cũng hay đấy, nhưng chắc chắn thiếu thiết tha, thương nhớ.
Tôi gật gù:
- Bác biết quá nhiều!
Bà Hương Lan nói:
- Mỹ Tho không ồn ào, thầy lại thích sự trầm lặng của Mỹ Tho. Hay là…
- Hay là sao, thưa bác?
- Hay là thầy ở Mỹ Tho ít lâu.
- Cháu sẽ làm gì ở đây?
- Thầy dạy học.
- Thưa bác, cháu rất ghét dạy học như cháu đã thưa với bác.
Bà Hương Lan không nói thêm một lời nào nữa. Tiếng đàn, tiếng hát của bọn Nguyễn đã im bặt. Đêm đã khuya rồi chăng.
Tôi nghe như sương ướt tóc mình. Và sương ướt cả vai bà Hương Lan. Một cảm giác lạ lùng vừa thấm trái tim tôi. Tôi mơ hồ như đi trong sa mạc cát bỏng từ hai năm nay. Và chợt thấy một khóm dừa mát rượi. Khóm dừa ấy, chỉ khoảnh khắc làm tôi quên Quỳnh Hương.
- Thưa bác, khuya rồi, cháu xin phép bác vào nghỉ.
Bà Hương Lan thản nhiên:
- Thầy vô nghỉ đi. Tôi đợi một bông hoa sắp nở.
Tôi bước vào nhà. Tiếng đá sỏi lao xao. Bà Hương Lan ngồi yên trên ghế đá. Tôi không dám quay lại nhìn bà.