GÔI NHÀ CỦA JEREMY DORMAN Thứ tư, 13 giờ 10 Thấm thoát thế mà đã hơn hai tuần trôi qua kể từ khi hai mẹ con Patricia về trú ngụ tại ngôi nhà của Jeremy. Patricia đã phải giải thích cho Jody biết tại sao hai mẹ con lại phải ẩn náu ở nơi sơn cùng thủy tận này, trong lúc chờ đợi người ta tìm thủ phạm vụ phá hoại trung tâm DyMar. Kennessy đã phạm một sai lầm nghiêm trọng khi muốn công bố phát minh của mình. Nhưng Patricia đã linh cảm thấy những sự đe dọa của đám đông trong bóng tối. Phản ứng của chúng đã dữ dội hơn và nhanh chóng hơn phản ứng của nhóm chống đối cuộc nghiên cứu di truyền học. Patricia nhớ lại cuộc tranh cãi giữa mình và chồng về vấn đề ấy. Bộ anh tưởng chỉ có mình anh hiểu dược tầm quan trọng của vi kỹ thuật? Sẽ là một tin sốt dẻo khi được biết thiên hạ không đến nỗi dốt đặc cán thuổng như người ta nghĩ. Nhưng có điều bà biết chắc: không bao giờ có nhóm sinh thái lại hành động thô bạo như vậy. Thế thì ai cầm đầu vụ tấn công? Kẻ nào đứng đằng sau những người biểu tình? Với một thủ đoạn khôn khéo cực kỳ, người ta đã tập hợp được những thành phần hỗn tạp nhất. Và David đã chết tại trung tâm. Ông chỉ còn kịp báo cho vợ con chạy trốn. Patricia thu xếp một vài thứ cho vào trong vali rồi rời khỏi Tagard. Bà đã thay đổi bảng số xe nhiều lần trên lộ trình. Trước nửa đêm, lấy thẻ tín dụng, bà rút tối đa số tiền được cho phép tiêu trong một hai ngày tại một máy phân phối tự động ở Eugene. Và bà chờ 15 phút sau, khi ngày tháng đã thay đổi, lại tới rút tiền ở một máy phân phối khác. Như vậy là đã có một số tiền lớn trong tay. Từ đó hai mẹ con Patricia sống tương đối yên ổn trong ngôi nhà của Jeremy. Sẽ chẳng có ai ngó ngàng tới vùng heo hút này. Nhưng Vador biến đâu mất? Con chó là niềm vui duy nhất của Jody. Patricia hy vọng nó sẽ trở về. Nó là một con vật trung thành. Nhưng bà đã tháo cái cổ dề và bảng tên của nó. Nếu người ta có bắt được nó, người ta cũng chẳng biết chủ nó là ai. Jody chấp nhận hoàn cảnh với sự thản nhiên và chờ đợi anh bạn bốn chân trở về. Chú bé đã lấy lại được thể trọng và tóc cũng đã mọc. Nó bắt đầu giống như những đứa trẻ khác. Sau khi chán những trò chơi lắp ráp, Jody đi ra phía cửa sổ để xem con chó có xuất hiện ở bìa rừng không. Bất chợt nó kêu lên: Mẹ ơi, nó đã trở về! Patricia hơi phấp phỏng vì sợ rằng đã có người thấy nó và đuổi theo. Nhưng chỉ có một mình Vador mà thôi. Từ xa, nó phóng tới, vẫy đuôi lia lịa. Đứa bé vội vàng chạy ra khỏi nhà để đón. Sợ Jody ngã, Patricia kêu lên: Jody, coi chừng té! Nếu bị thương, nó phải đi khám bác sĩ, rồi lại phải đi trốn một lần nữa, để tìm một chỗ ẩn nấp khác. Nhưng Jody không sao hết. Con Vador vừa sủa vừa chạy chung quanh Jody và liếm tay đứa bé để biểu lộ sự mến thương. Mẹ đã nói với con rồi mà. Nó sẽ trở về. Patricia cúi xuống vuốt ve con vật. Con Vador không hề hấn gì, ngay một vết xước cũng không có. Tại sao nó không về sớm hơn? Nếu mày có thể kể cho chúng tao nghe mày đã nhìn thấy gì và làm những gì? Patricia nói với con vật. BỆNH VIỆN THÚ Y HUGHART – THỊ TRẤN LINCOLN, OREGON Thứ tư, 17 giờ 01 Xe vừa xịch đỗ trước cổng bệnh viện Hughart, Scully đã nghe thấy tiếng chó sủa, mèo kêu ầm ĩ. Mulder bước xuống mở cửa xe cho người bạn gái. Các chuyên viên của Trung tâm dịch tễ quốc gia đã phân tích mẫu chất lỏng nhầy do Scully trích trên cơ thể người gác dan trong lúc cô thực hiện cuộc giải phẫu. Họ nhận thấy có một trường hợp tương tự trong hồ sơ của họ, một trường hợp mới đây cũng xảy ra tương tự tại Oregon: bác sĩ Hughart đã điều trị một con Labrador đen bị nhiễm một chất y hệt như vậy. Hay tin này, Mulder muốn nhảy lên trần nhà: họ biết có thể tìm hai mẹ con Patricia ở đâu. Con chó không thể xa những người chủ của nó. Chắc nó chỉ quanh quẩn ở vùng này thôi. Họ tiến về phía cô nhân viên tiếp khách và tự giới thiệu: Chúng tôi là thành viên của F.B.I., Fox Mulder và Dana Scully. Chúng tôi muốn gặp bác sĩ Hughart. Chúng tôi tới để hỏi về con chó mà bác sĩ Hughart đã điều trị cách đây hai ngày. Và ông ấy đã gửi một bản báo cáo cho C.D.C. Giây lát sau, vị thú y già xuất hiện. Ông ta ra dấu mời họ vào phòng mạch. Xin mời… xin mời… Căn phòng sặc mùi thuốc tẩy uế. Bàn phẫu bằng kim loại để ở phía giữa. Những cái tủ kính la liệt khắp nơi, bên trong đựng chai lọ, ống chích. Tôi có thể giúp được gì cho các bạn. Ông mỉm cười hỏi. Tôi nghĩ rằng các bạn tới về cái báo cáo mà tôi đã gửi cho C.D.C. Tại sao vụ việc lại chuyển tới F.B.I.? Có phải do sự nguy hiểm về dịch bệnh không? Mulder đưa cho ông ta coi một tấm hình. Chúng tôi tìm hai người này, chúng tôi e rằng họ đã bị bắt cóc. Con chó ấy là của họ. Ông có thể cho chúng tôi biết ai đã đưa con vật tới? Những du khách lái xe đã đụng vào nó rồi đưa nó tới đây. Đêm tối và trời mưa. Tôi trông thấy những đứa trẻ ở trong xe. Người ta vội vã chuồn thẳng. Nhưng tôi chấp nhận chăm sóc con vật mặc dù chẳng có một hy vọng nào cứu được nó. Nhưng con Labrador ấy thì… lại khác. Ông có thể nói rõ hơn? Scully hỏi. Nó bị chấn thương nặng. Sườn bị gẫy, cột sống nhiều chỗ bị dập, cơ quan nội tạng cũng bị thương. Chắc chắn nó sẽ chết. Ông dựa lưng vào bàn phẫu trước khi tiếp lời: Tôi đã băng bó cho nó nhưng tôi biết sẽ vô ích. Con chó ấy nóng hổi. Tôi chưa bao giờ thấy một con vật có nhiệt độ cao đến như thế. Vì vậy tôi đã lấy mẫu máu của nó. Tôi thú nhận tôi không chờ đợi để tìm thấy… cái mà tôi đã tìm thấy. Trong trường hợp bị chấn thương bởi tai nạn xe cộ – Scully giải thích cho Mulder hiểu – nhiệt độ của cơ thể không thể tăng lên, cho dù con vật bị hôn mê. Khi tôi đi tới kết luận rằng nó không còn một hy vọng sống sót nào nữa, tôi đã chích cho nó một mũi penthio-barbital de sodium. Đó là một phương pháp êm dịu nhất để chấm dứt sự đau đớn của con vật. Chúng tôi có thể coi cái xác của con vật ấy? Chuyện đó không thể được. Tại sao? Tôi đang xét nghiệm máu trong phòng thí nghiệm. Chợt có một tiếng động. Tôi chay ra coi thì thấy con chó chạy vụt đi. Dù chân trước đã bị bẫy và sườn bị dập hàng trăm mảnh. Có phải ông muốn làm cho chúng tôi tin rằng một con chó bị xe cán gần chết, rồi lại được ông chích cho một mũi “ân huệ”, vậy mà còn có thể nhảy từ cái bàn giải phẫu này, để biến đi? Mulder cũng phụ họa: Nó phải có một sức đề kháng không thể tưởng tượng. Ông đốc tờ già bực mình, lầu bầu: Tôi không biết giải thích như thế nào về những chuyện đã xảy ra, nhưng chính mắt tôi đã thấy. Tôi đã bỏ ra hàng giờ để tìm nó trong khu phố. Tôi nghĩ rằng nó đã chết ở một xó xỉnh nào đấy, gần đây thôi. Nhưng tuyệt vô âm tín. Dân cư trong thị trấn này hay ngồi lê đôi mách. Nếu thấy con chó chết, họ sẽ đồn đãi ngay. Ông còn giữ mẫu máu không? Scully hỏi. Nếu có, làm ơn cho chúng tôi xem qua. Dĩ nhiên, hãy theo tôi. Ông Hughart lấy từ trong tủ ra một bản kính trên đó có một vết màu nâu. Ông đặt nó dưới kính hiển vi, điều chỉnh đường ngắm rồi ra hiệu cho Scully tới quan sát. Khi xem xét mẫu trích này lần đầu tiên, Hughart giải thích, tôi thấy có những phần tử óng ánh bạc ấy… động đậy. Tôi chưa bao giờ thấy hiện tượng ấy cho nên đã báo cáo với C.D.C. Và trung tâm đã tiếp xúc với chúng tôi… Scully nhìn máu của con chó, khẽ nói. Những vật màu kim loại ấy mang những hình kỷ hà không phải là những sinh vật bình thường. Scully cũng vậy, cô chưa bao giờ thấy hiện tượng ấy. Cách đây hai ngày, những con vật tí xíu ấy chạy tới chạy lui như những… cái máy. Bây giờ chúng không cử động nữa. Chúng đã chết hoặc đang nằm ngủ, Hughart nói. Scully chú ý xem xét những vật kỳ lạ ấy, nhưng cô vẫn không hiểu chúng là cái quái gì. Cô nhìn ông đốc tờ. Chúng tôi cảm ơn bác sĩ đã giúp đỡ chúng tôi. Nếu ông nhớ lại một điều gì hoặc nếu người chủ của con chó xuất hiện, làm ơn cho chúng tôi biết ngay. Chúng tôi phải tìm ra họ. Đứa bé mà ông thấy trong hình bị bệnh ung thư. Nó cần phải được điều trị. Chủ nhân tiễn khách ra tới cửa. Scully, em có nghĩ rằng đó là vi kỹ thuật không? Mulder nói với cô sau khi đã yên vị trong xe. Em nhìn nhận thứ máy ấy chứa đựng những phân tử kỳ lạ, nhưng… Nhưng nếu Kennessy thử nghiệm những cái máy nhỏ xíu ấy trên con chó thì, ông rất có thể lập trình để chúng biết cách “chạy chữa” con vật trong trường hợp nó bị thương hoặc bị bệnh? Điều đó giải thích được rằng tại sao nó lại phục hồi sức khỏe sau những chấn thương nặng và đề kháng được chất kịch độc mà Hughart đã chích cho nó. Anh cho rằng Kennessy đã thử nghiệm những vi sinh vật của ông trên con chó và người gác dan đã bị lây nhiễm bởi những mẫu còn sót lại trên phế tích của phòng thí nghiệm? Mulder nổ máy cho xe chạy rồi đáp: Đó chính là điều anh lo ngại. Nếu những vật ấy ở trong thiên nhiên và có khả năng lây nhiễm từ loài vật này sang loài vật khác thì sẽ có một bệnh dịch tiềm tàng lan tràn trong toàn liên bang. Và nếu chúng lây sang người… Ôi! Lạy Chúa! Chúng ta phải tìm ra con chó ấy! BỆNH VIỆN PITIE – NHÀ XÁC Thứ hai, 2 giờ sáng Thiên hạ cứ nghĩ rằng đi lang thang trong nhà xác vào lúc đêm hôm quả là rùng rợn. Nhưng với Edmond thì ngược lại. Anh thấy sự yên ắng và ánh sáng êm dịu rất thuận tiện cho việc nghiên cứu. Trong thời gian trực gác, anh đọc những cuốn sách chuyên đề và tiểu thuyết trinh thám, rồi cả chuyện ma quỉ như Dracula. Đang cắm cúi đọc, Edmond chợt cảm thấy có một cái gì đó động đậy! Anh ngẩng đầu lên, đảo mắt nhìn chung quanh. Chẳng có gì hết. Phía đầu phòng, một ngọn đèn neon nhấp nháy. Cần phải báo cho ê kíp bảo trì để họ thay một cái đèn khác. Edmond lại trở về với những trang sách. Lại có một tiếng động. Lần này thì anh nghe thấy rõ ràng. Edmond đứng dậy. Làm việc lâu năm tại đây, anh biết rõ từng âm thanh gây ra bởi những bộ máy nối với phòng này. Một tiếng động khác! Người ta đập một cái gì trên kim loại. Edmond cố lắng tai nghe để xem nó đến từ đâu đấy. Tiếng đập ngày càng mạnh. Không thể chần chừ lâu hơn nữa: tiếng động đến từ một ngăn của tủ lạnh đựng xác chết! Một kẻ nào đó ở bên trong, đập lia lịa. Bất đắc dĩ, Edmond lùi lại. Tại sao một người chết lại có thể gõ vào những cái thành của tủ lạnh? Dĩ nhiên, anh đã đọc những truyện nói về những người bị chôn sống. Anh cũng biết những tin đồn lan truyền trong số các sinh viên y khoa. Theo họ, đã có những người chưa chết mới chỉ hôn mê bị tống vào máy đông lạnh, và những con người khốn khổ ấy tỉnh dậy rồi bị chết bởi cái lạnh khủng khiếp. Người ta còn nêu ra những chi tiết: đó là trường hợp ngưng trệ chức năng sống, giống như là chết, hoặc động kinh hoặc hôn mê vì bệnh tiểu đường! Song Edmond không bao giờ tin những chuyện tào lao ấy. Chúng chỉ có thể được dùng để hù dọa các nhân viên. Tuy nhiên, rõ ràng anh nghe thấy có những chuyển động ở một trong những cái ngăn của tủ lạnh. Anh tiến lên mấy bước. Ê này, có nghe thấy tôi nói không. Đừng động đậy, tôi sẽ để cho ông ra! Tiếng động lạ phát ra từ ô kéo 4E, nơi ghi chữ “NGUY HIỂM LÂY NHIỄM”, ở đó có cái xác có nhiều bướu và mủ. Trong tình trang ấy, anh ta làm sao sống lại được. Vả lại, anh ta ở trong đó đã hơn một tuần, rồi cô nhân viên của F.B.I. lại giải phẫu anh ta. Anh ta không thể nào còn sống. Có ai không? Edmond kêu lên. Tiếng động ngừng. Im lặng được giây lát, tiếng động lại vang lên trong căn phòng, như có tiếng bước chân rậm rịch. Nếu đây là một chuyện đùa bỡn, Edmond sẽ lột mặt nạ thủ phạm và đưa hắn ra hội đồng kỷ luật. Một vài sinh viên thực tập ở bệnh viện đã từng trêu chọc anh bằng cái trò tương tự. Trong khi chở đợi, Edmond thấy cũng nên kiểm soát xem trong ô kéo có người nào đang lâm nguy không. Anh nghiêng mình về phía ô 4E, lớn tiếng: Ông ở trong đó hả? Tôi sẽ mở cho ông ra. Đừng hoảng sợ! Edmond thu hết can đảm để kéo cái ngăn, thì thấy một vật gì đang cố sức chui ra, một vật gì kinh tởm. Anh khiếp hãi kêu thét lên và lập tức đẩy cái ngăn vào. Vẫn còn một vật gì mềm mại như một ngọn roi lòi ra. Không phải là một chi của con người mà là một xúc tu. Những chi khác – hoặc những xúc tu khác – kết hợp với cái đầu tiên để đạp vào không khí và cố gắng tóm lấy Edmond. Anh tập trung sức lực đóng chặt các ngăn lại, nhưng có hai cái xúc tu bị kẹt ở bên ngoài vẫn còn vùng vẫy. Cuối cùng, chúng cũng tự giải thoát và trở vào trong ô kéo. Run lẩy bẩy nhưng sung sướng vì đã loại trừ được con quái vật, Edmond kiểm soát lại cái ngăn xem nó đã được đóng chặt chưa. Rồi anh lùi lại và ngắm nghía cái ngăn 4E với một sự kinh tởm. Con vật ở bên trong tiếp tục ngọ nguậy. Nằm yên! Edmond kêu lên. Hoảng hốt, Edmond chạy tới chỗ kiểm soát phòng lạnh. Anh điều chỉnh nhiệt độ tới mức thấp nhất. Đó là cách tốt nhất để làm đông lạnh con vật. Tiếng động ngưng hẳn khi khí lạnh khủng khiếp lưu thông trong các ô kéo. Edmond chờ đợi, trong lúc quan sát hàn thử biểu bắt đầu yên vị ở mức thấp của thang chia độ. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu con quái vật chui ra khỏi ô kéo. Chắc chắn anh sẽ bị nó ăn thịt, rồi với cái thân hình nhầy nhụa, nó bò lổm ngổm trong các hành lang của bệnh viện để lần lượt ngốn ngấu các bệnh nhân. Tất cả trở lại sự yên ắng. Con vật không còn lộng hành nữa. Edmond nhả cái cần điều khiển máy lạnh và điện thoại cho phòng trực, để họ khẩn cấp phái các nhân viên bảo vệ tới chỗ anh. Các nhân viên bảo vệ của bệnh viện Pitié vốn đã quen thuộc với những vụ báo động được gọi là “khẩn cấp”. Đôi khi, thần hồn nát thần tính, chỉ cần nghe thấy một tiếng động khác thường, các nhân viên trực cũng kêu cứu ầm ĩ. Con vật trong tủ lạnh không còn động đậy nữa. Edmond cho rằng nó đã bị chết vì đông lạnh. Hai nhân viên bảo vệ cười bò ra khi Edmond kể cho họ nghe những sự việc xảy ra và bảo anh ta giàu trí tưởng tượng. Edmond bỏ ngoài tai những lời chế nhạo của họ. Không bao giờ mở cái ngăn ma quỷ ấy ra nữa dù để chứng tỏ rằng anh đã có lý. Anh chỉ có một ý nghĩ trong đầu: sẽ không lai vãng tới đó lần thứ hai, dù người ta có đến kiểm soát ô kéo 4E.