Dịch giả: Phan Nghị
- 1 -
Nguyên tác “Antibodies”

Phóng tác từ "Hồ sơ X" -

Dịch từ bản tiếng Pháp, NXB 84, 1997

    
HẾ TÍCH CỦA PHÒNG THÍ NGHIỆM DYMAR
Chủ nhật, 23 giờ 13
Đêm lạnh ngắt và sương mù dăng lên khi chuông báo động vang rền. Hệ thống bảo vệ chỉ được thiết lập sơ sài chung quanh cái địa điểm bỏ hoang này. Vernon Ruckman là người gác duy nhất chịu trách nhiệm trông coi nó về đêm. Một công việc chán ngắt, nhưng anh được trả lương hậu và chỉ có mỗi một nhiệm vụ là ngăn chặn những kẻ đột nhập cơ sở của DyMar, nơi hãy còn những tàn tích nguy hiểm.
Dinh cơ DyMar được thiết lập trong vùng ngoại ô Portland, Oregon.
Vernon dừng xe trong lối đi dải sỏi. Anh ngắm nhìn phòng thí nghiệm, một trung tâm nghiên cứu chống ung thư mà 10 ngày trước đây còn nguyên vẹn. Anh kéo thắng tay, cởi dây lưng an toàn và mở cửa xe. Việc đầu tiên: kiểm soát các nơi để xem chuyện gì đã xảy ra.
Vernon lấy ra một chiếc đèn pin to bằng cái gậy bóng chày.  Một vệt sáng chói chang rọi vào đêm tối. Anh đảo mắt quan sát tứ phía. Ngoài đèn pin, người ta còn cung cấp cho anh một huy hiệu, một bộ đồng phục, một khẩu súng lục cũ rích. “Được rồi, để xem con chuột nào dám giỡn mặt với mèo!” – Anh thầm nghĩ. Chỉ có làm ra vẻ hung dữ mới tống cổ được bọn nhóc ưa quậy tới đây để chơi trò ú tim.
Cách đây 10 ngày, những tên khủng bố bí mật đã ném bom cháy vào khu DyMar và biến nó thành một đống hoang tàn. Trong khoảng thời gian ấy, Vernon đã phải đối phó với một vài tên ăn trộm và các nhóc tì ấy. Anh tin rằng thể nào cũng thộp cổ được một đứa.
Tuy nhiên, khu này chẳng có gì hấp dẫn đối với bọn chúng. Những di tích của DyMar sẽ được san bằng trong vài ngày nữa. Những xe ủi, xe xúc đậu thành từng hàng để chuẩn bị nhập cuộc. Một nhà kho mới được dựng lên. Các kỹ sư đã dự trữ ở đó những khối chất nổ cần thiết cho sự phá hủy hoàn toàn.
Hình như một kẻ nào đó chỉ muốn mau chóng xóa hết tất cả dấu vết sự hiện hữu của trung tâm này. Thật lạ lùng! Nhưng Vernon chẳng muốn tìm hiểu cho mệt óc.
Trong khi chờ đợi, cái đống phế tích ấy là nơi lý tưởng để gây tai nạn. Cho nên Vernon không thích có chuyện gì xảy ra trong thời gian anh công tác. Anh rọi đèn vào khu nhà chính của DyMar. Khắp nơi ngổn ngang những cột kèo gẫy gục. Những bức tường nham nhở khói đen. Vernon tưởng tượng như có một con quái vật nấp trong bóng tối sẵn sàng nhảy bổ ra.
Sau hôm hỏa hoạn, người ta thiết lập một hàng rào sắt tạm bợ chung quanh khu DyMar. Cái khóa ở cổng vào đã bị mở. Vernon nín thở. Anh tưởng như nghe thấy những bước chân, những giọng nói. Lập tức anh thực hiện những điều mà người ta đã dạy anh trong khóa huấn luyện: một tay lăm lăm khẩu súng, một tay cầm đèn pin, và đôi mắt mở rộng. Cặp còng số 8 dắt ở thắt lưng, nhưng anh chưa bao giờ có dịp sử dụng bởi anh chưa bao giờ bắt giữ một ai. Như tất cả những người gác đêm, anh dành hầu hết thì giờ để đọc trong khi chờ đợi thời gian lặng lẽ trôi qua.
Cô bạn của Vernon sau khi tốt nghiệp khoa văn chương đã quyết định đi vào địa hạt thi ca. Vì vậy cô sống về đêm để tìm cảm hứng. Vernon đã ứng dụng lối sống của nàng cho mình. Những tuần lễ đầu, anh thường xuyên ngủ đứng. Thế rồi anh trở thành một con chim ăn đêm!
Vernon hoàn toàn tỉnh táo khi bước vào trong cái mê lộ của những hành lang của phòng thí nghiệm đã bị tàn phá. Anh cau mày. Nhìn cảnh tượng hôm nay, khó mà có thể hình dung được sự huy hoàng của trung tâm trước khi có vụ phá hoại: những bức tường bằng kính mờ, những đồ đạc toàn bằng gỗ quí.
Nhất định có một kẻ lạ mặt quanh quẩn đâu đây.
Tro than và những mảnh thủy tinh vỡ kêu lạo xạo dưới mỗi bước chân.
Đêm hôm khuya khoắt này, kẻ đột nhập phải là một “khách hàng” nghiêm túc hơn những tên nhóc trong vùng. Có thể đó là một thành viên trong nhóm chống thử nghiệm súc vật, kẻ đã ném những trái bom lửa. Nó trở lại để tìm kiếm các chiến tích! Cần phải thận trọng!
Vernon cúi mình chui qua một xà nhà gãy nằm ngả trên hành lang. Tầng dưới của tòa nhà hình như gần sụp. Tuy không phải là hạng nhát gan, nhưng Vernon cũng không thể ngăn được cảm giác tòa nhà sắp ập xuống đầu mình…
Một kẻ nào đó đang xê dịch. Lần này thì chắc chắn như vậy. Không phải vì những tiếng động của bước chân mà vì người khách bí mật đã ngang nhiên xô đẩy những mảnh vỡ.
Một cái bóng… cái bóng của một người lớn!
“Phải làm ra vẻ ta dũng cảm mới được”, Vernon tự nhủ.
Giơ tay lên! Đây là một cơ sở tư nhân! Tôi bắt anh!
Vernon rọi đèn về phía người lạ mặt. Người này hình như không sợ hãi một chút nào – cái đó chứng tỏ rằng hắn ta là một tên nguy hiểm. Hắn ăn mặc bê bối, quần áo đầy bồ hóng và bụi bặm. Vernon kết luận ngay rằng hắn là một kẻ vô gia cư, tới đây để chôm chỉa.
Anh làm gì ở đây? Anh sẽ chẳng tìm thấy cái gì đáng giá đâu.
Anh nhầm rồi, anh bạn ơi!
Người đó nói với một giọng kẻ cả. Vernon bắt đầu hốt hoảng. Anh lặp lại một cách ngớ ngẩn:
Đây là một cơ sở tư nhân! Cần phải có giấy phép mới được vào.
Tôi biết, và tôi có giấy phép. Tôi làm việc… ở đây, cho phòng thí nghiệm DyMar.
Đó là điều Vernon chờ đợi. Dù sao mặc lòng, anh vẫn tiếp tục theo dõi từng cử chỉ của hắn.
Tôi là Dorman, bác sĩ Jeremy Dorman.
Nói xong, ông ta cho tay vào túi. Lập tức Vernon cũng đặt tay lên khẩu súng.
Không, đừng sợ! Ông ta kêu lên. Tôi chỉ tìm giấy phép của tôi mà thôi.
Vernon lại gần và rọi đèn vào mặt ông ta.
Người đàn ông ấy đẫm mồ hôi. Ông ta có vẻ như đang ốm nặng.
Trông ông không được khỏe. Ông cần phải đi khám bệnh.
Chuyện đó không cần thiết. Cái mà tôi cần nằm ở trong này. Coi đây.
Vernon thấy ông ta thu dọn những đống gạch vụn phủ trên cái két sắt chống hỏa hoạn. Ông ta rút trong túi ra một cái thẻ ghi hàng chữ DyMar Labs.
Ông thấy đó. Tôi làm việc ở đây.
Xin ông cảm phiền, nhưng thẻ ấy không cho phép ông vào đây. Tôi phải báo cáo lên cấp trên…
Không! Người lạ mặt kêu lên. Ông làm tôi mất một khoảng thời gian quí báu. Hãy để cho tôi làm!
Vernon lùi lại, mặt Dorman co rúm. Anh chưa bao giờ nhìn thấy một bộ mặt ghê rợn đến như vậy.
Dorman không chú ý tới sự ngạc nhiên của Vernon, và tiếp tục giải tỏa cái két sắt. Vernon cho rằng mình nhịn như thế là đủ rồi. Anh rút súng ra:
Bác sĩ Dorman, xin cảm phiền, nhưng ông phải theo lệnh tôi. Giơ tay lên, úp mặt vào tường, lẹ lên!
Thốt nhiên Vernon nhận thấy chiếc sơ mi của nhà bác học giật nẩy lên như mặt ông ta, như thể có những con chuột chạy ở dưới lớp áo.
Ông ta ngoan ngoãn úp mặt vào tường.
Tôi đã nói với ông rồi, tôi là một nhân viên của DyMar. Ông đã làm mất thì giờ của tôi.
Tôi cũng đâu có muốn mất thì giờ của tôi.
Khách lạ giơ tay lên. Vernon nhận thấy làn da của ông ta có màu vàng sáp. Có lẽ ông ta là nạn nhân của một tai nạn công nghiệp. Vernon không biết một tí gì về khoa học, và mặc dù có súng, anh cũng bắt đầu thấy sợ!
Áo sơ mi của Dorman tiếp tục gợn sóng. Người ta tưởng như có một con mèo hoang ẩn núp dưới cái áo vét!
Ông có cái gì ở dưới áo vậy? Hãy đứng im để tôi lục soát!
Dorman lặng lẽ nhìn bức tường nham nhở bồ hóng ở trước mặt.
Nếu tôi là ông, tôi sẽ không làm thế! Ông ta giận dữ nói.
Đừng hăm dọa tôi vô ích, tôi không ngán ông đâu.
Đừng động vào tôi!
Vernon đặt đèn pin lên một cái xà gẫy và bắt đầu lục soát. Da của lão đốc tờ nóng một cách kỳ lạ. Khắp nơi đều có những cái bướu. Bất chợt những ngón tay của anh đụng vào một chất nhầy. Anh vội vàng rút tay ra.
Ông giở cái trò gì bẩn thỉu vậy?
Tôi đã báo trước với ông rồi, nhưng ông không nghe lời tôi…
Vernon cho súng vào bao và bắt đầu xoa tay lia lịa vào quần.
Nhưng thế là nghĩa lý gì? Anh hỏi trống không.
Đột nhiên, da anh bắt đầu nóng như bốc lửa, giống hệt như khi bị đổ acide lên.
Aaaa!
Bây giờ thì Vernon hoàn toàn khiếp đảm, chập choạng lùi lại vì đau đớn. Anh cảm thấy như có những ngọn lửa nhỏ tí xíu đi ngược lên dọc theo cổ tay và trong cánh tay, trong ngực và trong đầu.
Dorman quay lại nhìn Vernon.
Tôi đã báo trước với anh rồi, có đúng thế không?
Vernon có cảm giác như đầu óc mình sắp nổ tung. Anh không còn trông thấy gì nữa. Tay anh run rẩy và chân nhũn ra. Rồi anh nghe thấy xương gẫy răng rắc. Xương của anh…
Kêu thét lên vì sợ hãi, Vernon ngã vật ra đất, trong những đống tro. Cơ thể anh trở thành một bãi mìn nổ từng cái một.
Dorman quan sát người gác đêm quằn quại trên mặt đất trong giây lát, rồi lại quay về phía cái két sắt. Chẳng cần nhìn anh chàng ngốc nghếch ấy, ông ta cũng biết rằng da anh ta đã co lại, và những mảnh thịt đỏ hiện ra, ở đó các mô đã bị phá hủy. Những mụn mủ, những khối u và những cái bướu cũng xuất hiện trên xác Vernon.
Dorman lau chùi cửa két sắt, quay theo mã số rồi mở ra. Nhưng cái két trống rỗng. Bọn chúng đã ra tay trước.
Không!
Dorman thốt lên một tiếng kêu cuồng nộ. Những hồ sơ của David, những băng video, những bộ phận mẫu, tất cả những yếu tố có thể cho phép ông ta khám phá ra giải pháp đã biến mất.
Bị ăn cắp, bị tịch thu hoặc bị phá hủy?
Dorman giận muốn phát điên. Làm gì bây giờ đây. Ông ta nhìn bàn tay của mình. Kết cấu của da đã thay đổi như thể bị một dòng điện chạy qua. Ông ta rùng mình và cố sức hô hấp từ từ, nhưng những run rẩy đã biến thành co quắp.
Nhờ một cố gắng phi thường, ông ta đã lấy lại được sự kiểm soát của cơ thể mình. Chuyện đó mỗi ngày càng trở nên khó khăn. Nếu cứ nay lần mai lữa thì sẽ quá muộn.
Tuyệt vọng Dorman chập choạng đi vào những hành lang của phòng thí nghiệm. Tất cả máy vi tính đều bị phá hủy. Chẳng còn tài liệu lưu trữ nào nữa. Sau cùng ông ta tìm thấy văn phòng của David Kennessy, cố giám đốc trung tâm DyMar.
Tên David khốn kiếp! Ông ta rủa thầm.
Cơn giận đã đem lại sức mạnh cho ông ta. Những ngăn kéo bị cháy dở dang đều bị ông ta mở tung ra. Một trong những cái ngăn ấy chứa đựng một tấm hình cũ. Khung kính đã bị vỡ dưới sức nóng của cuộc hỏa hoạn.
Dorman lấy tấm hình ra và nhìn nó đăm đăm.
Môt phụ nữ trẻ đẹp, tóc vàng, tươi cười rạng rỡ và con trai bà ta, một cậu bé xinh xắn. Dorman biết tấm hình ấy đã được thực hiện khi đứa bé chưa đầy 7 tuổi, ở vào thời điểm khi nó chưa mắc bệnh bạch cầu. Patricia và Jody Kennessy.
Dorman suy nghĩ, mân mê tấm hình trong tay. Phải, có lẽ đó là may mắn duy nhất của ông ta…
Dorman trở lại với thi hài của người gác đêm, và không thèm ngó ngàng gì tới những mụn mủ khủng khiếp đầy cơ thể hắn, cúi xuống nhặt khẩu súng. “Có vũ khí trong tay cũng có lợi lắm chứ?" Ông ta thầm nghĩ.
Nhưng trước hết là cần phải tìm thấy họ, họ và con chó của họ. Patricia Kennessy trốn tránh ở đâu?
Ông khách kỳ lạ rời khỏi khu DyMar để lại phía sau mình cái xác chết nhớp nhúa của Vernon. Không có thì giờ dành cho tình cảm. Cần phải tìm ra những người sống sót của gia đình Kennessy.
Họ là nguồn hy vọng độc nhất của ông ta.
TỔNG HÀNH DINH FBI – CAO ỐC EDGAR J. HOOVER WASHINGTON D.C
Thứ hai, 7 giờ 30
Con gấu to đùng. Chí ít nó cũng cao hơn 3 mét. Nó có bộ lông màu nâu tuyệt đẹp, cơ bắp nổi bật, móng vuốt sắc bén. Nó chỉ cần tát một cái là toi mạng!
Mulder ngắm nghía hàm răng của con vật và vóc dáng bề thế của nó. Từ thân hình nó tỏa ra một sức mạnh khủng khiếp! May mắn cho anh đó là một con thú nhồi rơm. Nhưng, dù biết vậy, anh vẫn cảm thấy tim mình đập rộn ràng. Nó được trưng bày trong đại sảnh của cao ốc Hoover, Tổng hành dinh của F.B.I.
Sự trang trí ấy đã có một chút lịch sử: một tay tổ buôn ma túy, say mê săn bắn, đã chi một khoản tiền lớn để đi săn gấu ở Alaska. Khi hắn bị thộp cổ về tội buôn lậu “hàng trắng”, người ta đã tịch thu tất cả tài sản của hắn, trong đó có con gấu ấy. Chẳng biết làm gì cới cái chiến lợi phẩm cồng kềnh này, các nhân viên F.B.I bèn đặt nó ở văn phòng, giữa một chiếc Harley và những đồ nữ trang thu hồi từ bọn trộm cắp.
Thỉnh thoảng, Mulder, từ bàn giấy của mình ở tầng hầm, ngoi lên mặt đất tới đây chỉ để ngắm nghía con gấu. Trong lúc chiêm ngưỡng nó, anh chợt nhớ tới bản báo cáo kỳ lạ vừa nhận được, theo viên cảnh sát tư pháp của Portland, một người gác đêm chết bất đắc kỳ tử bởi một bệnh dịch bí hiểm. Da anh ta bị gặm nhấm từng mảng, và cơ thể anh đầy những mụn mủ và khối ung thư. Tuy nhiên, các nhân chứng gặp anh vài giờ trước đó thì thấy anh hoàn toàn khỏe mạnh.
Khi một con gấu ở Bắc cực giết một con mồi, thi thể nạn nhân mang những dấu vết đặc trưng. Nguyên nhân của cái chết quá rõ rệt. Nhưng đằng này người gác dan lại được tìm thấy tại trung tâm DyMar đã bị phá hủy bởi hỏa hoạn.
Một chứng bệnh mới và khủng khiếp, đó là một trường hợp đặc biệt kỳ lạ.
Một vấn đề đối với nhân viên đặc biệt Fox Mulder.
Anh nhìn con gấu lần cuối, trở lại phía thang máy để đi xuống văn phòng của mình. Anh sẽ đọc lại bản báo cáo ấy trước khi tìm gặp nữ đồng nghiệp Scully của mình.
Khẩu súng Sig Sauer 9mm, hộp đạn đặc biệt chứa được 15 viên, chế tạo tại Thụy Sĩ. Ở trong tay một xạ thủ điêu luyện, nó trở thành một thứ vũ khí vô cùng lợi hại. Dựa vào cái vách bằng thủy tinh hữu cơ chống tiếng ồn của phòng tác xạ của F.B.I, nhân viên đặc biệt Dana Scully lên đạn. Cô gõ vào bàn phím máy vi tính để ở bên cạnh và ra một loạt mệnh lệnh. Ngay lập tức, cái bóng dáng cách điệu hóa “kẻ hung dữ” mà cô nhắm bắn lùi ra xa.
Đội mũ an toàn, đeo kính bao vệ, Scully nắm chặt báng súng. Cô ngắm từ từ, rồi bóp cò, trút tất cả đạn vào cái bia bằng các tông, nó bị vỡ tung thành từng mảnh. Mùi thuốc súng làm cay sống mũi.
Scully nghĩ tới những gã đàn ông hèn nhát đã ám sát Melissa, em gái cô; những sát thủ ấy cũng đã nhiều lần giết hụt cô. Chúng sẵn sàng tìm đủ mọi cách để hạ bệ uy tín của Mulder. Cô cần phải bình tĩnh, không để cho giận dữ và mong muốn trả thù chi phối.
Hiện nay Scully đang bị chứng ung thư hành ha, không thể giải phẫu được và cũng không thể chữa trị được. Cô nghiến răng ném cái nạp đạn rỗng xuống đất để thay cái khác. Những vỏ đạn bật ra từng cái một theo khoảng cách đều nhau, rơi vào cái thùng ở dưới chân.
Scully lại tiếp tục bắn. Cách cô 25m, hình bóng “kẻ hung dữ” hiện ra trước mắt. Cô nã bốn viên vào trong cái vòng tròn đen biểu hiện cho trái tim. Còn ba viên trong nạp đạn. Cô nhìn thấy ba điểm chạm đích ghi trên trán của hình vẽ. Không một ai có thể sống sót dưới một cơn mưa đạn như thế.
Scully tháo mũ ra và bấm vào một cái nút để cho tấm bia trở lại phía mình. Mỗi tam cá nguyệt, tất cả nhân viên F.B.I đều phái trải qua một cuộc thử nghiệm tác xạ.
Các nhóm du khách được hướng dẫn viếng thăm cao ốc Hoover sắp dự khán một cuộc biểu diễn các loại súng: Sig Sauer, Beretta 92, M-16, và cả Thompson Sub. Bằng mọi giá, Scully phải đi ra khỏi đây trước khi họ tới. Cô hãnh diện ngắm nhìn kết quả của sự rèn luyện của mình hiện trên tấm bia. Với số điểm này, cô dư sức để tranh tài với các đồng nghiệp.
Ở Quantico, nơi người ta đào tạo những thành viên của F.B.I, các huấn luyện viên dạy cho các sinh viên của họ không được nghĩ tới cụm từ “kẻ bị bắn hạ” mà phải sử dụng từ ngữ “bia”, và phải nói “nhắm vào trung tâm” thay vì “nhắm vào trái tim”.
Người ta không giết một tên tội phạm, người ta chỉ bắn vào cái bia. Âu cũng là một cách diễn đạt.
Scully tháo tấm bia ra, ghi chú vào đó và ký tên. Rồi cô ra lệnh cho máy tính ném những tấm bia di động lên trời với tốc độ thật nhanh.
Bất chợt cô cảm thấy có người nhìn mình.
Quay lại, cô thấy Mulder. Dựa lưng vào cánh cửa để quan sát cô. “Anh ấy đứng ở đó bao lâu rồi?”, cô tự hỏi.
Scully bắn giỏi lắm – Mulder. Nhận xét với nụ cười thân mật.
Bộ anh dò xét tôi sao
Rồi anh tiếp lời:
Chúng ta có một vụ làm ăn mới. Một trường hợp sẽ khêu gợi trí tò mò của em.
Scully móc cái kính bảo vệ vào cái giá, rồi báo cho máy tính: “Cuộc thực tập kết thúc, ghi kết quả”, và nhét súng vào bao, để rồi sau này xem sau cũng không muộn.
Scully đi theo người bạn đồng nghiệp. Ở Mulder, cô luôn tìm thấy những điều lý thú có lợi cho nghiệp vụ.
QUÁN CÀ PHÊ KHE SANH
Rời khỏi cao ốc Edgar J. Hoover, Mulder báo cho Scully biết sẽ tới một quán cà phê để bàn bạc về một công việc mà anh muốn đảm trách.
Tổng hành dinh của F.B.I không phải là nơi ra vào dễ dàng. Hai người xuất trình huy hiệu cho nhân viên bảo vệ túc trực ở phía cửa có máy ra kim loại.
Các du khách đã nối đuôi nhau chờ đợi vào tham quan. Scully cảm thấy các em thiếu nhi chăm chú nhìn mình. Có thể vì cô chưa kịp thay bộ đồng phục sau khi rời trường bắn. Cô vội vàng kéo tay Mulder rảo bước.
Mulder đẩy cánh cửa của Khe Sanh Coffee Shop, lịch sự nghiêng mình để cô bạn đồng nghiệp đi trước.
Tại sao anh lại chọn nơi này? Scully hỏi.
Bởi anh thích – Mulder khẽ nhún vai. Họ pha cà phê trong những cái ly nhựa và luôn có bã ở đáy. Người ta có cảm tưởng như ở nhà.
Scully thở ra. Cô biết Mulder thích trêu mình nên ghé vào cái quán tồi tệ nhất của thành phố.
Mulder đặt cái “attaché-case” (một kiểu va li nhỏ và dẹt) lên trên bàn.
Em ăn gì để anh gọi?
Nhìn những món ăn bày trên quầy, Scully bĩu môi.
Không, một ly cà phê là đủ.
Đáng tiệc, thực đơn hôm nay có vẻ ngon và…
Cô ngắt lời:
Một ly cà phê, có vậy thôi. Em không đói.
Scully theo học y khoa. Nàng biết rõ căn bệnh của nàng: không thể chữa khỏi được. Nhưng nàng không muốn bệnh tật làm trở ngại công việc của mình.
Mulder trở lại với hai cái ly nhựa đựng một chất lỏng gọi là cà phê. Chỉ ngửi cái mùi của nó, nàng đã thấy khó chịu.
Mulder lấy từ va li ra một tập hồ sơ và nói với giọng nghiêm túc:
Em sẽ thích vụ này. Xảy ra tại Portland, Oregon. Chính xác hơn: phòng thí nghiệm DyMar, một trung tâm nghiên cứu chống ung thư do nhà nước tài trợ.
Anh nhìn vào mắt Scully để xem phản ứng của cô về hai tiếng “ung thư”, rồi trao cho cô tập sách mỏng bìa in hình một tòa nhà hết sức hiện đại. Bên trong tập tài liệu còn có những hình ảnh khác; những hành lang và những căn phòng được trang trí bằng gỗ quí và chậu kiểng.
DyMar, Scully lặp lại, chưa bao giờ nghe.
Người ta luôn giữ bí mật cho đến gần đây.
Cô trả lại cho Mulder tập sách.
Chuyện gì đã xay ra?
Mulder chỉ cho cô xem một tấm hình màu đen và trắng. Cũng vẫn là tòa nhà ấy, nhưng đã bị thiêu hủy, bị phá hoại, có những hàng rào an toàn vây chung quanh.
Không khác gì bị bỏ bom?
Trông bề ngoài thì như thế, nhưng đây là một trường hợp phá hoại cố ý. Cuộc điều tra chưa kết thúc. Tai họa chỉ mới diễn ra có 10 ngày. Một nhật báo ở Portland nhận được một lá thư yêu sách, ký tên “Nhóm giải phóng tức khắc”. Trước đó chưa bao giờ nghe nói về họ. Họ tự nhận là bạn của súc vật nên đã nổi dậy chống lại những cuộc thử nghiệm của giám đốc trung tâm, bác sĩ David Kennessy.
Và họ đã thiêu hủy tất car
Không, thoạt đầu họ sử dụng, sau đó mới hỏa thiêu!
Cách ứng xử ấy không bình thường. Không đời nào những người khủng bố của nhóm bảo vệ sinh thái lại sử dụng bạo lực như vậy. Hành động của họ giới hạn trong việc giải phóng những con vật và cốt để cho giới truyền thông nói về họ.
Cô nhìn lại hình và hỏi:
Ông Kennessy đã làm gì? Tại sao cái đám người xách động ấy lại muốn hãm hại ông ta?
Mulder tỏ ra bối rối trước câu hỏi ấy.
Chưa có gì là chắc chắn. Hình như ông ta nghiên cứu những kỹ thuật cho phép khôi phục lại những tế bào bị hư hại bởi bệnh tật. Tôi đã đọc những báo cáo đầu tiên của ông ta. Trong giai đoạn đầu của cuộc nghiên cứu, ông ta xưng tụng việc sử dụng vi kỹ thuật. Nhưng những tài liệu mới nhất đã biến đi một cách bí mật. Theo tôi biết, ông ta muốn dùng kỹ thuật ấy để chống ung thư.
Scully cau mày.
Vì kỹ thuật chỉ là một ý nghĩa mông lung, một giả tưởng. Nó dùng để chế tạo những bộ máy nhỏ xíu. Chúng được đưa vào cơ thể con người để hoàn thành một công việc nhất đinh. Một chuyện thần tiên… Nhưng than ôi, theo các chuyên viên, không phải ngày một ngày hai cái lý thuyết cao siêu ấy trở thành hiện thực.
Mulder nhấp một ngụm cà phê:
Người ta bảo rằng một số người không chấp nhận công trình của Kennessy. Đã có những cuộc biểu tình. Người ta cũng nghe nói đến những nhóm phản đối công việc thử nghiệm của ông ta trên một vài con vật của phòng thí nghiệm.
Mulder tiếp lời sau một cái bĩu môi:
Cuối cùng, tất cả hồ sơ hình như đã bị thiêu hủy bởi hỏa hoạn.
Đã có những nạn nhân trong vụ này?
Có, Kennessy và viên phụ tá của ông ta, Jeremy Dorman, đã thiệt mạng trong vụ nổ.
Scully giở một số trang trong tập sách, ở đó người ta nói về những “khám phá tuyệt vời trong lĩnh vực chống ung thư”, “hy vọng mới cho tất cả những chứng bệnh” và “cuộc cách mạng y khoa”… vẫn chỉ là những từ ngữ mà các nhà ung thư học sử dụng từ năm 1950.
Mulder đưa cho cô xem tấm hình một cậu bé khoảng 8 tuổi, mặt tái xanh và hầu như bị hói.
Kennessy có những lý do riêng. Cậu bé ấy là Jody, con trai ông ta. Nó bị bệnh bạch cầu, ở giai đoạn chót. Người đàn ông khốn khổ ấy đâu có thể để cho một vài lá thư nặc danh hoặc một vài cuộc biểu tình phá hoại những cuộc nghiên cứu mà ông ta hy vọng là sẽ cứu được con mình.
Scully đứng dậy:
Ok, trung tâm ấy được chính phủ tài trợ. Vậy anh có dự tính cáng đáng cuộc điều tra không, bởi lẽ đây là một vụ phá hoại tài sản quốc gia.
Mulder nghiêng mình về phía cô.
Nội vụ còn rắc rối hơn chứ không phải thoạt nhìn như bề ngoài đâu.
Cô mỉm cười biểu lộ sự nhất trí.
Em sẽ ngạc nhiên nếu chỉ vì một hành động khủng bố mà lại khiến anh quan tâm.
Coi đây nè.
Gì vây?
Mulder dưa cho cô xấp hình mới. Một người đàn ông mặc đồng phục của nhân viên bảo vệ. Thân hình anh ta co quắp như một con nhện chết. Da nổi lên những cái bướu, những cái u khủng khiếp. Thịt anh ta bị xé rách.
Đêm vừa rồi – Mulder giải thích – người ta thấy xác nạn nhân trong đống phế tích. Hắn như có vẻ mắc một chứng bệnh cực kỳ ghê gớm, một loại dịch. Chẳng ai biết là bệnh gì.
Scully xem xét tấm hình kỹ hơn.
Cái gì có thể gây ra những tang thương như vây? Em chưa bao giờ nhìn thấy những cái đó.
Có thể là do những thí nghiệm của Kennessy.
Không ai rõ bọn khủng bố đã giở những trò gì trước khi ra tay phá hoại. Có thể chúng đã giải thoát những con vật mang mầm bệnh lây nhiễm cực nhanh. Cũng có thể chúng đã phóng thích vào thiên nhiên một thứ bệnh dịch, một loại ung thư kinh khủng.
Mulder cất hồ sơ vào va li. Scully không che giấu sự hoài nghi của mình.
Nhưng anh đừng nên quên rằng bệnh ung thư không lây, nó không lây truyền như bệnh cúm.
Biết chứ, nhưng em đã nhìn thấy xác của người đàn ông ấy chưa? Những người gặp anh ta vài giờ trước khi anh ta chết, bảo rằng anh ta hoàn toàn khỏe mạnh. Anh không thể ngăn cản được ý chí cho rằng, trong lúc đi tuần tiễu, anh ta đã đụng độ với một cái gì còn lại sau hỏa hoạn.
Scully thay đổi thái độ.
Nếu anh có lý, và nếu những triệu chứng ấy biểu hiện cho một chứng bệnh mới, thì…
Mulder ngắt lời cô:
Cảnh sát tư pháp đã đặt cái xác đó trong sự cách ly kiểm dịch và Trung tâm dịch tễ quốc gia đã được cảnh báo. Nhưng anh cố thu xếp để em có thể tận mắt nhìn thấy. Một vài chi tiết nhỏ sẽ có thể giúp ích cho chúng ta. Em nghĩ sao?
OK!
Nàng cho rằng Mulder đã không cường điệu: một trong những con vật bị lây nhiễm có thể thoát ra khỏi vụ hỏa hoạn. Có trời biết nó mang theo bệnh gì. Chắc chắn nó phải là một cái gì đó cực kỳ rùng rợn!
QUỐC LỘ 22 – OREGON
Thứ hai, 22 giờ
Con chó băng qua lộ về phía rừng. Nó dừng lại ngay giữa đường. Một tiếng động khiến nó chú ý. Nhưng không một bóng người. Chỉ có mấy cái hộp thư ở mé đầu con đường đất chứng tỏ sự có mặt của cư dân.
Hai luồng ánh sáng tròn xuất hiện trên đường, lao thẳng về phía con chó. Âm thanh của động cơ rền vang trong đêm. Chiếc xe ngày càng lại gần với tốc độ nhanh hơn.
Con đường tối đen và lấp lánh dưới cơn mưa. Lộ trình thì dài và những đứa trẻ không còn chịu ngồi yên một chỗ trong xe nữa. Họ đã vượt hơn 600 km một nửa lộ trình trên con đường không được phẳng phiu ấy. Sau đó, họ sẽ tiến vào xa lộ trước khi tới bờ biển.
Richard lái xe, mắt nhìn thẳng.
Lẽ ra chúng ta phải chuẩn bị kỹ càng hơn trong chuyến đi này! Vợ Richard lầu bầu.
Biết rồi, khổ lắm! Chuyện đó ít ra anh đã nghe em nói 20 lần rồi!
Phía sau họ, chú bé Rosy chơi với cái máy bấm điện tử trong khi Megan, em gái nó ngồi một mình phụng phịu.
Bố ơi, con buồn lắm. Có thể chơi trò chơi gì chứ?
Trò chơi ư, con nai vàng của bố. Ừ, hay là ta chơi trò đếm những tháp xilo chứa lúa mì. Ai đếm được nhiều nhất là thắng cuộc.
Ở đây làm gì có tháp xilo, vả lại trời tối mù? Rosy kêu lên.
Richard tuy bực bội, nhưng vẫn nhẫn nại nói với con:
Thôi được, chúng ta sẽ bắt đầu bằng…
Bà vợ vội ngắt lời chồng:
Richard, coi chừng, một con chó! Bà hét lên.
Ông vừa kịp nhìn thấy cái bóng của một con vật trên đường ngay trước mặt mình. Ông bẻ tay lái. Một sự va chạm mạnh ở cái cản.
Chiếc xe dừng lại. Hai đứa trẻ ngồi sát vào nhau khóc rấm rứt. Richard bực dọc, loay hoay tháo dây lưng an toàn, rồi mở cửa xe bước xuống.
Đi một vòng, ông nhận thấy chắn bùn ở mé phải hơi bị móp.
Con chó đâu rồi? Nó có sao không? Megan kêu lên.
Khi phát hiện con vật, tim Richard se lại. Đó là một con Labrador đen tuyền. Máu từ sọ nó chảy ra, nhưng nó vẫn cử động và cố gắng lết về phía bìa rừng.
Thà rằng nó chết ngay còn hơn. Khổ thân con vật!
Phải đưa nó đi bác sĩ!
Richard quay lại. Rosy đã xuống xe. Đứa bé chăm chăm nhìn con chó.
Bố nghĩ ngay rằng cả bác sĩ giỏi nhất thế giới cũng chẳng thể làm gì cho nó được.
Không thể bỏ rơi nó, bố ạ! Từ trong xe, Megan kêu lên.
Có một cái mền ở trong thùng xe đấy… bà vợ nhắc.
Cần phải đưa nó tới bác sĩ thú ý, Rosy khẩn nài.
Richard thở dài. Không có sự lựa chọn nào khác. Vợ ông đã lấy ra từ trong thùng xe các vật dụng, các con ông chờ đợi nơi ông một cử chỉ đẹp.
Họ tới Lincoln, một thị trấn nhỏ. Không có một tiệm buôn nào mở cửa. Cũng chẳng có một chút ánh sáng nào, ngoại trừ đèn đường.
Richard vừa lái xe vừa ngó nghiêng để tìm phòng mạch trực của bác sĩ thú ý. Vòng vo một hồi, ông cũng tìm ra. Ông bấm chuông. Một ông già ra mở cửa.
Chào bác sĩ. Xe của chúng tôi đã đụng phải một con chó.
Để tôi xem có thể làm gì được cho nó.
Viên thú ý không tỏ vẻ ngạc nhiên chút nào. Ông đã quá quen với những loại tai nạn ấy.
Con vật có vẻ bị thương nặng, Richard nói.
Họ đi ra mở thùng xe.
Con Labrador vẫn còn sống. Hình như nó đang hồi sức. Sự hô hấp của nó sâu hơn, đều hơn.
Viên thú y nhìn con vật, rồi nhìn hai đứa bé trong xe; chúng đang quan sát xem sự thể diễn tiến ra sao. Nhìn ánh mắt của ông ta, Richard hiểu rằng con vật sẽ không thoát khỏi cái chết.
Không phải con chó của ông?
Không, thưa bác sĩ, và nó cũng chẳng có cổ-dề nữa.
Hãy giúp tôi đưa nó vào phòng mổ.
Megan sốt ruột kêu lên:
Nó sẽ khỏi chứ?
Sẽ khỏi thôi cưng ạ – ông già thở dài nói. Tôi có những thứ thuốc rất hiệu nghiệm.
Richard biết, vì mến những đứa trẻ nên ông ta không muốn làm chúng đau lòng.
Chúng ta sẽ trở lại thăm nó chứ? Rosy hỏi.
Không, nó sẽ ở lại đây – người mẹ đáp. Nhưng bác sĩ sẽ chăm sóc nó. Con đừng lo.
Hai người đàn ông khiêng con vật được bọc trong mền. Khi vào tới phòng mổ, viên thú ý xem xét nó và tuyên bố:
Thật kỳ lạ, con chó này đang lên cơn sốt. Tôi chưa bao giờ thấy như thế.
Có thể là do nó bị cú đụng mạnh.
Có lẽ.
Richard cám ơn người thầy thuốc rồi quay trở lại với vợ con. Ông hơi ngần ngại vì không biết có nên để lại danh thiếp để sau này viên thú y gửi biên lai tính tiền cho mình. Nhưng nghĩ thế nào ông lại bỏ qua ý định ấy.
Dĩ nhiên, vụ đi nghỉ hè đã bắt đầu với một dấu hiệu xấu.
Và hai đứa bé vẫn nước mắt lưng tròng.