Trận Xích Bích là một quan kiện chính trị liên hệ tới vấn đề chia cắt và thống nhất. Giả sử Tào Tháo thắng hoặc không có trận này thì thiên hạ đã thống nhất ngay mà không chia ba. Nói đến trận Xích Bích, trước hết phải tìm hiểu hình thế của ba lực lượng chủ động: Lưu Bị, Tôn Quyền, Tào Tháo. Lưu Bị là người có chí lớn, đầu óc lãnh tụ, thà làm đầu gà còn hơn làm đít trâu. Cho nên nhiều dịp Tào Tháo muốn thu dụng Bị, Bị đều từ chối. Không những thế, Lưu Bị trải qua một thời gian lập đức, định chuyển sang giai đoạn lập công, bèn cấu kết với Đổng Thừa, định dùng âm mưu chính trị cung đình quật ngã Tào Tháo. Thua, Bị xin tá túc bên Viên Thiệu rồi Lưu Biểu. Thế của Bị sau vụ Đổng Thừa là một mất một còn với Tháo, chứ không thể dung tha nhau được nữa, dù yếu, dù mạnh, Lưu Bị cũng phải chống Tào Tháo đến cùng. Phần Tôn Quyền ta cần phải liên hệ Quyền với Tôn Sách để nhận định. Tôn Sách liên kết với Viên Thuật. Thấy Tôn Sách gan dạ, anh hùng, Thuật trao lại bộ hạ cũ của Kiên cho Sách. Sách nhiều lần lập công lớn cho Thuật. Nhưng Thuật là người không sáng suốt, thưởng phạt bất minh, thiếu khả năng dùng người, quên lời đã hứa cùng Tôn Sách khiến Tôn Sách thất vọng. Sách nghĩ bụng, nếu cứ ở với Thuật, rồi ra không có ngày mở mặt nên tính kế xin Thuật phái mình đi bình định Giang Đông. Căn cứ địa lý thời hậu Hán thì Giang Đông thuộc Dương Châu. Các quan thứ sử Dương Châu vẫn đồn thú tại Thọ Xuân (tức Thọ Huyện tỉnh An Huy ngày nay). Thời gian này Thọ Xuân bị Viên Thuật chiếm giữ, thứ sử Dương Châu là Lưu Giao phải rời về Khúc A. Tuy quân lực thua sút Lưu Giao vẫn cầm cự dằng dai với Thuật. Lúc Tôn Sách vượt sông sang, tình thế chuyển ngay, Sách có thiện chí xông xáo đánh bại Lưu Giao. Toàn giải đất Giang Đông dọc theo bờ sông rơi vào tay Tôn Sách, Tôn Sách chụp cơ hội bỏ ngay Viên Thuật. Tào Tháo bấy giờ chưa đủ lực nuốt Giang Đông, lại nhân có mâu thuẫn với Viên Thuật, Tháo mới ve vãn Tôn Sách bằng cách dâng biểu xin vua phong cho Tôn Sách làm Ngô Hầu, xưng hiệu Thảo Nghịch tường quân. Năm Kiến An đệ ngũ, đang khi chiến tranh Viên Tào gay go, hai bên cầm cự nhau, Tôn Sách nẩy ra ý định xuất quân qua sông vượt lên miền bắc; chưa kịp chuẩn bị xong thì Sách bị bắn chết. Đầu đuôi câu chuyện bắn lén như sau: Tôn Sách qua Giang Đông, có quan Thái thú Ngô quận tên là Hứa Cống mật biểu về trào nói: Tôn Sách kiêu dũng, không nên để y ở ngoài, sẽ thành hậu họa. Sách bản ý hằng mong muốn lập giang sơn riêng, nay nghe tin Hứa Cống muốn phá kế mình, nổi giận giết phăng Cống. Các môn khách của Cống thề phục thù, họ lẩn quất trong đám dân, gặp cơ hội Tôn Sách đi săn, mải đuổi thú, Sách đơn phương, độc mã lạc vào ngay ổ phục kích của môn khách nhà họ Hứa nên bị tên độc. Ý định xuất binh của Sách, Tam Quốc Chí bản truyện cho rằng: Sách muốn đánh úp Hứa Đô nghênh giá Hiến Đế. Tam Quốc Chí đã nói sai. Ta có thể tìm nhiều lý lẽ để chứng minh sự sai lầm của Tam Quốc Chí bản truyện. Trước hết, Tào Tháo tinh thông binh sự, không đời nào lại bỏ trống hậu phương. Thứ nữa, Giang Đông với Hứa Đô so với Hà Bắc xa gấp 5, 6 lần, liệu quân Tôn Sách có tới nơi không, chứ chưa nói đến thắng hay bại. Tôn Sách giỏi quân sự chắc chẳng mán xá đến thế. Ngoài ra, giành giựt một ông Thiên Tử trong tình trạng chính trị vũ trang đấu tranh lúc ấy thật quả không cần thiết cho lắm. Vậy tại sao Tôn Sách lại có ý định xuất binh? Độc giả Tam Quốc Chí phần lớn thường bỏ sót điểm này. Nguyên lai, Trần Khuê, một vị quan cai trị cao cấp, trước sau quy phục Trung ương, ghét bọn Lã Bố, e khó bình định, nên vội vã đến dụ thuyết Lã Bố để phá hoại sự liên kết Bố-Thuật. Mặt khác Khuê sai con là Trần Đăng yết kiến Tào Tháo, nói Lã Bố hữu dõng vô mưu, phản phúc vô thường, nên tìm cách nhử Bố vào bẫy. Gặp Trần Đăng, Tháo rất hài lòng, bèn phong cho Trần Đăng làm Thái Thú Quảng Lăng. Tháo còn nắm tay Đăng mà rằng: “Tôi giao hết cả miền Đông cho ông đó”. Ý nói Đăng hãy thâu thập bộ hạ chờ cơ làm nội ứng cho mình. Quả nhiên, cha con Khuê Đăng giúp được Tháo tiêu diệt Lã Bố. Tháo xin vua phong cho Đăng làm chức Phục Ba Tướng Quân. Có lực lượng, danh nghĩa rồi, Trần Đăng mới dòm ngó đất Giang Đông của Tôn Sách, Tôn Sách 2, 3 lần chinh phạt Đăng đều thất bại vì chiến lược du kích của Đăng. Lần này, Tôn Sách gắng sửa soạn kỹ càng để quyết tiêu diệt địch, kẻ cứng cổ đó. Như vậy rõ ràng là Tôn Sách xuất binh đánh Trần Đăng chứ không phải đánh thẳng vào vị trí của Tháo. Việc chưa xong, Sách lâm nạn! Đến đây, đời chính trị của Tào Tháo phạm phải một thất sách to lớn là khi Tôn Sách tử nạn, Tháo lại điều động Trần Đăng đi nhậm chức Thái thú Đông Thành, thành thử Tháo đã nhổ hộ cho Giang Đông cái răng đau nhức. Đến nỗi về sau thua trận Xích Bích, Tháo phải nói: Ân hận đã không nghe lời Trần Nguyên Long! Cái thất sách ấy là do Tào Tháo muốn, vì sợ khả năng chính trị đấu tranh khôn khéo dẻo dai của Trần Đăng có địa bàn Đông Ngô thì còn nguy hơn Tôn Quyền, hay là một thất sách thật sự, khó lòng mà đoán biết được. Tôn Sách mất, Tôn Quyền kế vị. Công việc trước mắt của Tôn Quyền là: Chỉnh đốn các vùng Giang, Triết, Hoãn, Chương, chiếm đất của Hoàng Tổ mở mang sang các vùng Đông Nam tỉnh Hồ Bắc, miền Tây đến Hán Khẩu tiếp giáp Gia Lăng và Tương Dương. Trong lúc Tôn Quyền tiến hành mạnh mẽ công cuộc thống nhất khu vực mình thì Tào Tháo khởi binh đánh Lưu Biểu. Bản chất Lưu Biểu là một văn nhân nhu nhược, giữa thời nhiễu nhương mà Biểu chỉ muốn ngồi yên nhìn thành bại, mong làm kẻ bắt cá. Chủ trương bất động, cơ hội ăn sẵn không thể lâu dài được. Tháng 7 năm Kiến An thứ 13, Tào Tháo chinh phạt phía nam, vây Kinh Châu, Lưu Biểu lo phiền lâm bệnh chết. Con trai lớn của Lưu Biểu là Lưu Kỳ bị âm mưu ngoại thích truất phế, tống ra trấn giữ Giang Hạ. Em Kỳ là Lưu Tông lên thay. Lưu Tông cùng bọn tay sai không có khả năng chống lại quân Tào nên đầu hàng vô điều kiện ngay khi binh Tào tới Tân Dã. Lưu Bị lúc ấy đóng binh tại Phàn Thành bên bờ sông Tương Dương, phải vượt qua sông bỏ chạy về phía Tây Nam. Việc này sách Tam Quốc Chí Tiên Chủ truyện chép: “Lưu Bị bỏ đi, Gia Cát Lượng khuyên Lưu Bị sửa soạn công kích Lưu Tông để chiếm Kinh Châu, Lưu Bị nói “Ta không nỡ”. Chép thế có phần tiểu thuyết hóa khó xác thực. Đành rằng đương thời Tương Dương rối loạn, khắc phục Lưu Tông có thể dễ dàng, nhưng đại binh Tào Tháo rầm rập kéo đến thì sao? Gia Cát Lượng thường cẩn thận, không lẽ lại đi làm chuyện phiêu lưu để rồi không có đất mà chôn ư? Lâm vào cái cảnh “trời chiều, đường tận”, Lưu Bị mang theo lực lượng của mình cùng với một số dân chúng tị nạn lếch thếch chạy đến Hạ Khẩu nhờ vả Lưu Kỳ sau khi vừa thoát Đương Dương Trường Bản. Nếu tình trạng này kéo dài, chắc Lưu Bị phải chết. Bất ngờ xuất hiện sự chuyển hướng của Giang Đông. Tôn Quyền cùng Lưu Bị liên minh, Bị như cây khô gặp nước. So sánh tư cách chính trị giữa Tôn Quyền và Lưu Bị, Tào Tháo gờm Lưu Bị hơn Tôn Quyền. Huyền Đức tuy nhiên bao lần chiến bao lần bại, nhưng Tháo lúc nào cũng lưu ý Lưu Bị hơn bọn Viên Thiệu, Lã Bố, Tôn Sách, Tôn Quyền một bậc. La Quán Trung miêu tả tâm lý Tào Tháo đối với Lưu Bị như sau: Tháo và Huyền Đức cùng ngồi dựa vào bao lơn ngắm mai. Tháo hỏi: “Sứ quân có biết Rồng nó biến hóa như thế nào không?” Huyền Đức nói: “Tôi chưa được tường” Tháo nói: “Rồng lúc thì to, lúc thì nhỏ, lúc thì bay lúc thì nấp. Lúc to thì nổi mây phun mù, lúc nhỏ thì thu hình nép cánh, khi bay ra thì liệng trong trời đất, khi ẩn thì nấp ở dưới sông. Nay đang mùa xuân, Rồng gặp thời biến hóa cũng như lúc người ta đắc chí, tung hoành bốn bể. Rồng ví như anh hùng trong đời. Huyền Đức lâu nay đã đi khắp bốn phương, bao nhiêu anh hùng đời nay hẳn đã biết cả, xin thử nói cho nghe.” Huyền Đức thưa: “Bị này mắt thịt, biết đâu được anh hùng?” Tháo nói: “Huyền Đức không nên nhún mình quá” Huyền Đức nói: “Bị này được nhờ ơn Thừa tướng làm quan trong triều, anh hùng trong thiên hạ thực quả không biết”. Tháo nói: “Đã đành không biết mặt, nhưng cũng nghe tiếng chứ.” Huyền Đức nói: “Viên Thuật ở Hoài Nam, binh lương nhiều có thể gọi là anh hùng được.” Tháo cười: “Xương khô trong mả, chỉ nay mai là ta bắt được”. Huyền Đức lại nói: “Anh của Viên Thuật là Viên Thiệu ở Hà Bắc, bốn đời làm Tam Công có nhiều đầy tớ cũ, hiện nay như con hổ dữ hùng cứ ở Ký Châu, bộ hạ nhiều tay tài giỏi, có thể cho là anh hùng được.” Tháo lại cười nói: “Viên Thiệu ngoài mặt mạnh bạo, trong bụng nhút nhát, thích mưu mẹo mà không quyết đoán, làm việc lớn lại lo đến bản thân, thấy lợi nhỏ thì quên mình thì sao gọi là anh hùng?” Huyền Đức lại nói: “Có một người nổi tiếng trong đám kẻ tuấn kiệt, uy khắp cả chín châu là Lưu Cảnh Thăng có thể cho là anh hùng?” Tháo lại cười: “Lưu Biểu có hư danh nhưng không có thực tài, không phải anh hùng.” Huyền Đức lại nói: “Có một người sức lực đương khỏe, đứng đầu xứ Giang Đông là Tôn Bá Phù, hẳn là anh hùng.” Tháo nói: “Tôn Sách nhờ có danh tiếng của bố, không phải anh hùng.” Huyền Đức hỏi: "Lưu quý Ngọc ở Ích Châu có phải là anh hùng không?" Tháo cười: "Lưu Chương tuy là tôn thất, nhưng chỉ là con chó giữ nhà, sao gọi là anh hùng được." Huyền Đức lại nói: "Thế bọn Trương Tú, Trương Lỗ và Hàn Toại thì thế nào?" Tháo vỗ tay cười to: "Lũ tiểu nhân nhung nhúc ấy thì nói lên làm gì". Huyền Đức nói: "Ngoài những người ấy ra, Bị thực không biết ai nữa". Tháo nói: "Anh hùng là người trong bụng có chí lớn, có mưu cao, có tài bao bọc được cả vũ trụ, có chí nuốt cả trời đất kia." Huyền Đức mới hỏi: "Ai có thể xứng đáng được như thế?" Tào Tháo lấy tay trỏ Huyền Đức rồi lại trỏ vào mình mà nói rằng: "Anh hùng trong thiên hạ bây giờ chỉ có sứ quân và Tháo mà thôi." Huyền Đức nghe nói giật nẩy mình, cái thìa, đôi đũa đương cầm ở tay rơi cả xuống đất. Đánh giá Tôn Quyền quá thấp, đồng thời không dự liệu được trí mưu quyền biến thiên tài của Gia Cát Lượng nên Tào Tháo ghi lên trang sử hoạt động chính trị của Tháo một vết đen quá lớn và quá sâu vì thua quân ở Xích Bích. Lưu Biểu chết, tin đến Giang Đông. Lỗ Túc liền nói với Tôn Quyền: - Kinh Châu là trọng địa, xin chúa công cho tôi đi viếng tang nhân tiện dò xét tình hình. Nếu Lưu Bị và Lưu Biểu không có hiềm khích gì với nhau thì ta cùng họ liên kết, nhược bằng họ bất hoà, tôi sẽ có chủ ý khác. Tôn Quyền bằng lòng. Lỗ Túc liền ngược Giang Tây tới Hán khẩu thì nhận được tin Tào Tháo đang tiến quân hướng về phía Kinh châu. Lỗ Túc vội vã đi gấp ngày đêm, mới đến Nam quận đã có người phi báo là Lưu Tông hàng Tào rồi và Lưu Bị phải chạy về Nam. Lỗ Túc liền tắt đường nghênh đón Lưu Bị ở Trường Bản. Gặp Bị, Túc khuyên Bị nên liên hợp với Tôn Quyền. Gia Cát Lượng nói: "Sự gấp, tôi xin đi cầu cứu Tôn tướng quân". Gia Cát Lượng rời Hán khẩu đi gặp Tôn Quyền tại Cửu giang. Lúc này bên Tôn Quyền đang có cuộc tranh luận gay go để quyết định chiến hay hàng. Theo tài liệu sử thì phe chủ hàng chiếm đa số trong hội nghị. Phe chủ hàng lập luận: I- Tào Tháo khoác danh là tướng nhà Hán, nếu kháng cự thì khác gì phản kháng Trung ương. II- Tào Tháo nắm trọn trong tay lực lượng thuỷ binh của Kinh châu thêm bộ binh rất mạnh, thế núi sông hiểm trở của Giang đông không còn khả năng làm trở ngại binh Tào nữa. III- Quân Tào đông gấp mười quân Ngô. Chủ trương chiến đấu của Lỗ Túc bị phe chủ hàng tới tấp đập vụn. Tôn Quyền chưa biết quyết định ra sao thì Gia Cát Lượng đến nơi. Ấy là: Chỉ bởi con thuyền Gia Cát chạy. Khiến cho tướng sĩ giặc Tào tan. Sự hiện diện của Khổng Minh ở hội nghị Giang đông, La Quán Trung miêu tả linh động trong hội "Thiệt chiến quần nho" như sau: Túc dẫn Khổng Minh đến dưới trướng, đã thấy bọn Trương Chiêu, Cố Ung toàn ban văn võ trên hai chục người, mũ cao đai rộng, y phục chỉnh tề ngồi có thứ tự rồi. Khổng Minh chào hỏi từng người, thông tính danh đâu đấy, rồi đến ngồi trên ghế tân khách. Bọn Trương Chiêu thấy Khổng Minh hình dung sáng sủa, mặt mũi khôi ngô biết người này tất là đi thuyết khách. Trương Chiêu mới gợi trước rằng: - Chiêu tôi là một kẻ học trò ngu hèn bên Giang đông, lâu nay vẫn được nghe tiếng tiên sinh nằm khểnh trong Long Trung, ví mình với Quản Trọng, Nhạc Nghị, lời ấy chẳng biết thực hư? Khổng Minh đáp: Phải, Lượng tôi cũng có hợm mình mà ví như thế. Chiêu lại nói: Mới đây tôi nghe Lưu Dự châu 3 lần cầu đến tiên sinh ở trong lều tranh, may được tiên sinh như cá gặp nước, những toan thu sạch cả Kinh Tương, nay chỉ có một buổi sáng mà về tay Tào Tháo hết chẳng biết thế là ý làm sao? Khổng Minh nghĩ thầm rằng: Trương Chiêu là một tay mưu sĩ bậc nhất của Tôn Quyền, nếu mình không áp đảo được hắn thì sao thuyết phục Tôn Quyền? Bèn đáp rằng: Kể lấy đất Hán Thượng, tôi coi dễ như trở bàn tay, hiềm vì chủ ta là Lưu Dự Châu, muốn làm điều nhân nghĩa, không nỡ cướp cơ nghiệp của người đồng tông, cho nên nhất định không lấy. Lưu Tông là một đứa trẻ thơ tin nghe lời nịnh, bí mật hàng Tào cho nên mới để cho Tào Tháo ngông cuồng. Nay chủ ta đóng quân ở Giang Hạ sẽ có kế khác, những kẻ tầm thường hiểu sao được. Chiêu nói: Nếu thế thì tiên sinh lời nói không đi đôi với việc làm rồi. Tiên sinh đã ví mình với Quản Trọng, Nhạc Nghị mà Quản Trọng ngày xưa giúp Hoàn Công bá được chư hầu, định được thiên hạ; Nhạc Nghị ngày xưa giúp nước Yên đương suy yếu mà hạ được hơn bẩy mươi thành nước Tề. Hai người ấy thật có tài tế thế. Tiên sinh thì trước ở trong lều tranh, chỉ cười phong cợt nguyệt, xếp gối ngồi cao, nay đã theo Lưu Dự châu thì phải nên vì dân mà mưu lợi, bỏ điều hại, dẹp trừ kẻ loạn tặc mới phải chớ. Vả tôi xem Lưu Dự Châu khi chưa được tiên sinh thì còn tung hoành đây đó, chiếm giữ thành trì, nay được tiên sinh ai cũng mong, đến đứa trẻ lên ba cũng phải cho đó là hổ sinh cánh, nhà Hán sắp sửa lại hưng, họ Tào sắp đổ. Cựu thần trong triều đình, ẩn sĩ trong rừng rú, ai cũng chờ xem, tưởng tiên sinh với Lưu Dự Châu sắp xua tan mây mù trên trời, để thiên hạ lại được nhìn thấy ánh sáng mặt trời, mặt trăng, cứu vớt dân ra khỏi cơn nước lửa, giúp đỡ thiên hạ yên ổn làm ăn, chính là lúc này vậy. Ai ngờ từ khi tiên sinh về với Dự Châu mục, quân Tào mới đến đã quẳng giáp buông gươm, trông thấy bóng là chạy. Trên không báo được ơn Lưu Biểu để yên thứ dân, dưới lại chẳng giúp được con côi giữ lấy bờ cõi, lại bỏ Tân Dã chạy khỏi Phàn Thành, thua Đương Dương chạy ra Hạ Khẩu, chẳng có lấy chỗ dung thân. Thế chẳng hóa ra Dự Châu từ khi được tiên sinh lại không bằng trước ư? Quản Trọng, Nhạc Nghị chắc cũng như thế đó? Đó là mấy lời quê kệch xin tiên sinh đừng chấp. Khổng Minh nghe xong cười ha hả mà rằng: Cái chí khí của chim Bằng, các loài chim Sẻ há biết được sao? Ví như người bệnh nặng, trước hết phải cho uống nước cơm, nước cháo, thuốc thang, lúc nào phủ tạng điều hòa, thân thể hồi phục bấy giờ mới cho bổ bằng cá thịt. Trị bằng thuốc mạnh, thì gốc bệnh mới tiệt, còn yếu đã trị ngay bằng thuốc mạnh, bổ ngay bằng vị ngon thì khó lòng chữa khỏi được. Chủ ta, trước thua ở Nhữ Nam đến nhờ Lưu Biểu, quân không đầy một ngàn, tướng chỉ có Quan, Trương, Triệu chính là lúc đang nguy cập. Tân Dã là một huyện nhỏ, hẻo lánh, dân cư thưa thớt, lương thực ít ỏi, chủ ta chẳng qua đến nương nhờ tạm đó mà thôi, có phải muốn khư khư ngồi giữ cái xó ấy đâu? Trong hoàn cảnh quân sĩ không sẵn, thành quách không bền, quân không luyện tập, chạy ăn từng bữa, thế mà lửa cháy Bác Vọng, nước ngập Bạch Hà khiến bọn Hạ Hầu Đôn, Tào Nhân phải lòng run mật vỡ, thiết tưởng Quản Trọng, Nhạc Nghị dùng binh tất đã hơn gì. Đến như Lưu Tông hàng Tào Tháo, Dự Châu hoàn toàn không biết, vả lại không nỡ nhân lúc loạn mà cướp lấy cơ nghiệp người đồng tông. Thật là đại nhân, đại nghĩa. Còn trận thua ở Đương Dương, vì có vài vạn dân, già trẻ dìu dắt đi theo không nỡ bỏ nên mỗi ngày chỉ đi được 10 dặm, đành rằng chịu thua; không tưởng đến lấy Giang Lăng, cam chịu thất bại, ấy cũng là đại nhân đại nghĩa vậy. Còn như ít không địch được nhiều, thì được thua chỉ là việc thường thôi. Ngày xưa Cao Hoàng thua luôn với Hạng Vũ, sau chỉ một trận ở Cai Hạ là thành công, đó không phải là mẹo tài của Hàn Tín ư? Tín thờ Cao Tổ đã lâu, cũng không mấy khi thành; bởi vì kế lớn nhà nước, xã tắc an nguy đều đã có chủ trương. Không như cái lũ khoác lác hư danh, bịp bợm, ngồi một xó mà lý thuyết suông thì không ai bằng; đến lúc có việc thì trăm phần trăm chẳng được phần nào thật đáng cho thiên hạ chê cười. Bị thuyết một hồi, Trương Chiêu không còn thở ra được câu nào nữa. Lại có một người cất tiếng hỏi rằng: Nay Tào Tháo quân hàng trăm vạn, tướng ước ngàn viên, uy thế như rồng như hổ nuốt chửng Giang Đông, ông bảo sao? Khổng Minh trông xem ai, thì là Ngu Phiên, Khổng Minh nói: Tào Tháo thu quân rơm rác của Viên Thiệu, nhặt quân ô hợp của Lưu Biểu, dù có mấy trăm vạn cũng không đáng sợ gì hết. Ngu Phiên cười mát. Quân thua ở Đương Dương, kế cùng ở Hạ Khẩu, đi van xin cứu viện không xong còn nói không sợ, thật là khoác lác để bịp người đó thôi. Khổng Minh đáp: Lưu Dự Châu đem vài ngàn quân nhân nghĩa, địch sao lại được trăm vạn quân tàn bạo? Lui về giữ Hạ Khẩu là để chờ thời cơ đó. Nay Giang Đông, binh nhiều, lương đủ, lại có sông Trường Giang hiểm trở, thế mà còn xui chủ uốn gối hàng giặc, không nghĩ thiên hạ chê cười. Do đó mà suy thì Lưu Dự Châu thật không sợ gì giặc Tháo vậy. Ngu Phiên chịu cứng. Lại có người lên tiếng hỏi: - Khổng Minh muốn uốn lưỡi Tô Tần, Trương Nghi, sang làm thuyết khách ở Giang đông này chăng? Khổng Minh nhìn xem ai thì là Bộ Trắc bèn đáp rằng: Bộ Tử Sơn chỉ biết Tô Tần, Trương Nghi là biện sĩ, chuyên nghề nói mép chứ chưa biết Tô Tần, Trương Nghi cũng là những trang hào kiệt. Tô Tần đeo ấn làm tướng sáu nước, Trương Nghi hai lần làm tướng nhà Tần đều có tài giúp người gây cơ nghiệp, đâu thèm so sánh với những kẻ hay sợ thế mạnh, lấn người yếu, tránh kiếm lẩn đao. Các người mới nghe thấy Tào Tháo phao tin đã vội xin hàng rồi, còn dám cười Tô Tần, Trương Nghi sao được. Bộ Trắc im ngay không dám nói gì nữa. Lại có một người hỏi rằng: - Thế Khổng Minh cho Tào Tháo là thế nào? Khổng Minh nhìn xem ai thì là Tiết Tung, bèn đáp: Tào Tháo là giặc Hán, can gì phải hỏi. Tung nói: Ông lầm rồi, nhà Hán truyền ngôi kế thế mãi đến nay số trời sắp hết. Giờ thiên hạ chia ba, Tào Tháo đã nắm 2 phần rồi, nhân tâm ai cũng qui phục. Duy có Lưu Dự Châu không biết thiên thời, muốn gượng tranh với Tào Tháo, khác nào trứng chọi với đá sao chẳng thất bại. Khổng Minh quát lên rằng: Tiết văn Kính sao dám thở ra câu vô quân vô phụ ấy? người ta sinh ra ở đời phải lấy trung hiếu làm cốt, ông đã làm tôi nhà Hán, nếu kẻ nào phản nghịch phải thề giết nó đi mới là phải đạo. Nay tổ tôn Tào Tháo đời đời ăn lộc nhà Hán. Tháo đã không nghĩ báo ơn, lại mang lòng phản nghịch, thiên hạ đều oán ghét cả, ông lại dám đổ cho số trời, thật là con người vô quân vô phụ không xứng đáng bàn luận. Chớ có nói nữa. Tiết Tung đỏ mày xây mặt câm miệng như hến. Lại một người hỏi rằng: Tào Tháo tuy rằng mượn tiếng thiên tử để sai khiến chư hầu nhưng cũng còn là con cháu ông Tướng Quốc Tào Tham ngày xưa. Lưu Dự Châu vẫn tự xưng là dòng dõi Trung Sơn Tĩnh Vương nhưng không có bằng cớ, hiện mắt trông thấy chỉ là một người dệt chiếu, bán giầy, so sánh với Tào Tháo sao được. Khổng Minh nhìn xem ai thì là Lục Tích liền cười nói rằng: Ông có phải là người ăn cắp quýt ở trong bữa tiệc của Viên Thiệu đó không. Xin hãy ngồi nghe ta giảng giải cho: Tào Tháo đã là con cháu Tướng Quốc họ Tào, thì là đời đời làm tôi nhà Hán, nay dám chuyên quyền ngang ngược khinh nhờn cả vua, như thế hẳn không những là vô quân mà lại là khinh cả tổ tiên mình. Không những là loạn thần nhà Hán mà còn là đứa con bất hiếu của họ Tào nữa. Lưu Dự Châu đường đường một đấng tôn thất, đương kim hoàng đế hiện đã xét gia phả và phong tước cho, sao dám bảo là không có căn cứ. Và đức Cao Tổ ngày xưa xuất thân làm đình trưởng mà sau được thiên hạ thì dệt chiếu bán giầy có gì là nhục. Kiến thức ông như trẻ con, không nên ngồi nói chuyện với cao sĩ. Lục Tích ngồi im thin thít. Lại có người hỏi rằng: - Khổng Minh chỉ được cái già mồm lấn lẽ, không phải là chính luận, không cần dài dòng làm gì. Hãy xin hỏi Khổng Minh đã học những sách gì. Khổng Minh nhìn xem ai thì là Nghiêm Tuấn liền đáp: - Tìm từng chương, dò từng câu chỉ là bọn hủ nho mà thôi, sao có thể xây dựng được nước non cơ nghiệp? Vả như ngày xưa Y Doãn cầy ở đất Sằn, Tử Nha câu trên sông Vị, Trương Lương, Trần Bình, Đặng Vũ, Cảnh Cam đều có tài giúp vua, giúp nước cả, mà cũng không cần xem xét ngày thường học những sách vở gì. Có đâu lại bắt chước bọn thư sinh, bo bo sách vở, cãi đen bàn trắng, múa văn khua bút đó ư. Nghiêm Tuấn cúi đầu tiu nghỉu ngồi im. Lại có một người lớn tiếng nói: Ông chỉ được việc nói khoác là giỏi, vị tất đã có thực học, tôi chỉ sợ bọn nhà nho cười cho thôi. Khổng Minh nhìn xem ai thì là Trình Đức Khu ở Nhữ Nam liền nói: - Nho cũng có Nho quân tử, cũng có Nho tiểu nhân. Nho Quân tử thì trung vua yêu nước, giữ chính, ghét tà, chuyên làm những điều lợi ích chung, tiếng để đời sau. Còn như loại Nho tiểu nhân thì chỉ cặm cụi văn chương miệt mài nghiên bút; còn trẻ thì làm phú, đầu bạc thì đọc kinh, dưới bút dầu có nghìn lời, trong bụng không được một mẹo. Xem như Dương Hàng, văn chương có tiếng một đời mà khuất mình đi theo Vương Mãng rồi cũng đến đâm đầu xuống lầu mà chết. Thế gọi là Nho tiểu nhân, dẫu ngày làm nghìn câu thơ cũng có ích gì đâu. Trình Đức Khu cũng ứ cổ nốt. Chúng thấy Khổng Minh ứng đối như nước chẩy, cũng sợ mất vía. Lúc đó còn có hai người là Trương Ôn, Lạc Thống sắp vào muốn hỏi. Bỗng bên ngoài có một người chạy vào quát to lên rằng: - Khổng Minh là bậc anh tài đời nay, các người lấy môi mép vặn người ta, đó không phải là kính khách. Đại quân của Tào Tháo đã đến bờ cõi, tìm kế chống giặc chẳng tìm, cứ ngồi đấu khẩu như thế ích gì? Các tướng nhìn xem ai, thì là Hoàng Cái biểu tự Công Phúc. Sau khi Gia Cát đè bẹp phe chủ hàng, Tôn Quyền lòng đã muốn đánh nhưng vẫn chưa quyết. Quyền cho người mời Chu Du lại thương nghị. Chu Du quyết định nghênh chiến. Du đề ra 3 điểm chiến mà Đông Ngô có khả năng thắng lợi. 1- Tào Tháo cần phải thực hiện một cuộc chiến tranh tốc quyết vì Mã Siêu, Hàn Toại vẫn là mối lo sau lưng của Tào Tháo. 2- Nhân dân Kinh Châu chưa hoàn toàn qui phục họ Tào. 3- Giữa mùa đông lương thảo khan hiếm, khí hậu cũng không hợp với quân Bắc phương. Quyền thấy Chu Du cương quyết như thế mới cầm kiếm chém xuống đất ra lệnh cấm bàn chuyện đầu hàng. Binh lực đương thời của hai bên rất so le. Bắc quân riêng lực lượng Tào Tháo đã có ngót hai mươi vạn, cộng thêm bẩy tám vạn quân Kinh Châu. Bên Đông Ngô, quân Lưu Bị có một vạn, quân Lưu Kỳ một vạn, quân Chu Du, Trình Phổ chừng hai vạn, Lỗ Túc thâu thập được thêm một vạn. Như vậy là một chọi sáu! Trận đánh lớn nhất xẩy ra ở huyện Gia Ngư, khu vực Xích Bích. Kết quả Tào Tháo đại bại phải rút lui và lưu Tào Nhân chống giữ ở Giang Lăng. Chu Du thừa thắng đánh tràn. Tào Nhân phải bỏ Giang Lăng mà chay. Cả một giải lưu vực trường giang mất hẳn tung tích Bắc quân. Hình thế Nam Bắc phân lập bắt đầu từ đó. Trận Xích Bích phá vỡ tan tành kế hoạch thống nhất toàn quốc của Tào Tháo, ổn định địa vị Tôn Quyền ở Giang Nam, đồng thời cũng tạo cho Lưu Bị cơ hội lấy bàn đạp Kinh Châu tiến vào Ích Châu, từ chỗ vẫn đi nương nhờ người khác, đến chỗ có một thế lực riêng biệt lớn mạnh. Trận Xích Bích thực là then chốt cho sự hình thành của cái thế chia ba chân vạc. Chu Du Độc giả Tam quốc thường nhìn Chu Du là một nhân vật tuổi trẻ tài cao, nhưng tính khí bồng bột, hẹp hòi ghen ghét. Lối nhìn đó là bởi ảnh hưởng của Tam Quốc Chí diễn nghĩa qua câu chuyện đấu khí giữa Chu Du và Gia Cát Lượng. Du thua, tức đến nỗi thổ máu mà chết, lúc sắp chết Du có than rằng: “Trời đã sinh Du sao còn sinh Lượng?”. Thật ra Chu Du là con người rất có tu dưỡng, nhiều mưu trí và tính tình khiêm cung hòa nhã. Tôn Quyền đặt ngôi vị Chu Du ở trên lão tướng Trình Phổ, Phổ không bằng lòng, thế mà Chu Du đã đem độ lượng và tài cán của mình khuất phục được Trình Phổ. Phê bình về Chu Du, Trình Phổ đã phải nói: Giao du với Chu Công Cẩn như uống rượu ngọt, say lúc nào không biết. Nhưng chỉ có hai người thời đó đánh giá nổi Chu Công Cẩn là Tào Tháo và Khổng Minh. Cho nên ở trận Xích Bích cả Gia Cát Lượng và Tào Tháo đều ra sức tranh thủ Chu Du. Gia Cát thì vận dụng Lỗ Túc, Tào Tháo thì vận dụng Tưởng Cán. Chu Du chết sớm, ảnh hưởng tai hại cho cục diện ba nước không nhỏ. Thiết tưởng Tôn Quyền có tiếc Chu Du mà nói: “Ta mất Chu Du thì nghiệp đế của ta cũng hỏng” thì cũng không lấy gì làm quá đáng. Lỗ Túc Lỗ Túc đáng kể như một nhân vật khả ái nhất Tam quốc. Tử Kính tuy không có những biệt tài nổi bật như Cố Ung, Tưởng Uyển, Tuân Úc, nhưng ông cũng rất thông hiểu chính trị, ngoại giao, quân sự và rất cẩn trọng mỗi khi áp dụng định kiến của mình. Thêm nữa Lỗ Túc là người có phong độ, trung, dũng, trí, kiệm, có tu dưỡng nhân nghĩa lễ tín. Căn cứ vào tình thế đương thời mà bàn thì chủ trương Ngô Thục liên minh của Lỗ Túc thật chính xác. Thâm ý trong đường lối liên minh với Thục của Lỗ Túc là: “Gây cho Tháo nhiều kẻ địch, để xây dựng thêm vây cánh cho Đông Ngô”. Bởi vì so sánh với lực lượng Ngụy và lực lượng Đông Ngô thì Ngụy thừa sức nuốt sống Đông Ngô, nếu không có những lực lượng khác khiên chế Ngụy. Thế chia ba chân vạc do Lỗ Túc đóng góp một phần cực to tát. Ông dám khuyên Tôn Quyền cho Lưu Bị mượn Kinh Châu để làm tư bản chính trị. Giả thử Tôn Quyền không nghe Lỗ Túc, đương nhiên không có nước Thục. Giả thử Lưu Bị không kiến tạo nổi Thục thì liệu Đông Ngô có đứng vững nổi với Ngụy chăng? Tôn Quyền phê bình Lỗ Túc nói: - “Khuyên ta cho Huyền Đức mượn Kinh Châu là chỗ kém nhất của Tử Kính”. Nói như vậy, Quyền chỉ nghĩ đến cừu địch là Thục mà không kể chi đến Ngụy, chỉ nghĩ đến bực bội trước mắt mà không tưởng đến hiểm họa xa. Trí lực ngắn ngủi của Tôn Quyền cũng như mấy võ tướng Quan Vũ và Lã Mông đã gây thành đường lối ngoại giao đổ máu, trái ngược với lòng mong mỏi của Tử Kính, không ngừng dàn xếp để các cuộc quyết đấu giữa Ngô – Thục không xẩy ra. Tại Đông Ngô, duy Chu Công Cẩn mới nhận nổi giá trị của Lỗ Túc, cho nên lúc Du sắp mất, Tôn Quyền hỏi Du, ai khả dĩ thay thế. Chu Du nói: “Lỗ Túc là người trung liệt, lâm sự không cẩu thả”. Đề nghị cho Lỗ Túc thay mình, chứng tỏ Chu Du cũng là người rất nhiệt thành với đường lối ngoại giao liên kết với Thục lắm. Riêng lời ấy đủ lột hết sắc thái con người Lỗ Tử Kính. Cố Ung Bất cứ đường lối chính trị nào, hình thế chính trị nào đều liên hệ với một quyền lực thống trị thì mới mong lâu dài, bền vững. Thời Tam quốc, Ngụy, Ngô, Thục do đường lối chính trị khác nhau, hình thể chính trị khác nhau, nên quyền lực thống trị cũng sai biệt. Nước Ngụy quyền lực thống trị để bình định một tình trạng đã hỗn loạn đến cực độ nên phải áp dụng đạo hình danh của pháp gia, phải có những biện pháp mạnh, thủ đoạn nhiều trí thuật hơn từ ái nhân nghĩa. Nước Thục vì dân tình hiểm ác, nên quyền lực thống trị tuy chủ trương nhân nghĩa nhưng cũng không thể không dùng đến đường lối mãnh liệt của pháp gia. Ở đây quyền lực thống trị mang tính chất “pháp đa nho thiểu”, “pháp nho kiêm dụng”. Nước Ngô nhờ địa lý phì nhiêu, dân tình khoan hậu, nhờ tâm lý nhất trí để chống đối với dị tộc của dân chúng, nên quyền lực thống trị ở đây chỉ cần một chính sách thi hành nhân ái, khoan hình giảm chính, tóm lại Đông Ngô thuần dụng đạo trị của nho gia để ổn định xã hội. Xã hội Đông Ngô bấy giờ so với các khu vực khác đáng gọi là thiên đường. Công lệnh áp dụng trị đạo của nho gia ở Đông Ngô của ai? Của Tôn Quyền? Không đúng. Của thừa tướng Cố Ung đó. Lịch sử tuy không chú ý mấy đến ông, thậm chí còn xếp Cố Ung đừng hàng dưới Trương Chiêu một bậc. Chuyển sang diễn nghĩa thì những người như ông không có chuyện lạ gì để nhà văn miêu tả hấp dẫn thì lại càng bị lu mờ hơn. Thực ra đối với Đông Ngô, Cố Ung là người có công lao lớn nhất. Sở dĩ ông gần như bị quên lãng là vì chức vị của ông là chức vị thủ tướng hành chính, trong khi đương thời Tam quốc chỉ trọng những tranh phong chính trị, quân sự. Tôn Quyền tuy không có đại bản lĩnh, nhưng ở địa vị lãnh tụ. Sở trường của Quyền ở chỗ: Biết dụng người, biết tin và biết phân phối. Quyền rất nể Cố Ung, nhận thấy ở Ung một tài năng xuất chúng về nội chính nên giao phó trách nhiệm này cho Ung tới 19 năm trường. Hoàng Vũ tứ niên, Cố Ung từ giã mẹ già đi nhận lãnh chức vụ, Quyền ra tận ngoài tiếp đón, rồi lại gọi Thái tử tới lậy chào, trong khi Trương Chiêu tuổi lớn, tiếng xa mà Chiêu không được Quyền dùng ở ngôi vị này. Tại sao? Tại Quyền nhận thấy Chiêu khí lượng hẹp hòi hay câu nệ câu chấp, một lần Quyền và Chiêu xích mích. Trương Chiêu cáo ốm không đến chầu. Tôn Quyền hối hận đến tạ lỗi, Chiêu cũng không ra, đến nỗi Quyền phải sai người đốt nhà Chiêu mới chịu ra. Do đó nhiều lần, mọi người khuyên Quyền đặt Chiêu vào ngôi vị Thừa tướng Quyền đều lờ đi. Khi thừa tướng Tôn Thiệu chết, mọi người lại đề cập đến Trương Chiêu thì Quyền từ chối khéo: “Bây giờ đương lúc gay go, chức cao thì trách nhiệm thêm nặng, lão thần đã già không nên phiền nhiễu ông ta làm gì”. Cố Ung đủ sở trường của Trương Chiêu, nhưng Ung hơn Chiêu ở điểm không có những sở đoản như Chiêu. Ung cương trực mà ý khí không loạn, nói thẳng, ưa điều hợp lý, mà vẫn giữ được thái độ khiêm nhượng, hòa nhã, luận đoán, kiến giải nhất nhất đều chính xác, đối xử với người rất chân thành. Ở chức Thừa tướng, tất phải có phong độ đại thần, công bình, dung hợp, tầng trên điều chỉnh trăm quan, tầng dưới yêu mến bảo vệ trăm họ. Những điều Trần Bình nói về trách nhiệm tể tướng, đại thần: - “Trên thì phò thiên tử, điều hòa âm dương, thuận tứ thời, dưới thì nuôi vạn vật cho no đủ, sử dụng cho đúng mức, ngoài thì chấn áp tứ di, trong thì vỗ về trăm họ”. Cố Ung đều có cả. Cố Ung bao giờ cũng dùng nhân chính. Lần Tôn Quyền đi khảo sát dân tình, Cố Ung đã thảo cho Quyền một tờ lệnh như sau: - “Nạn binh đao đã lâu ngày, khiến cho dân gian bê trễ việc ruộng nương cày cấy, chồng con bố mẹ không đủ nuôi thương nhau, ta rất lấy làm buồn. Nay giặc đã tạm yên, bên ngoài không có gì lo ngại, vậy truyền cho dân chúng ai về nhà nấy mà nghỉ ngơi, tiếp tục canh nông, phụng dưỡng tôn tộc”. Năm Xích Ô thứ ba, Cố Ung lại thay Tôn Quyền thảo chiếu lệnh: - “Vua không có dân không lập, Dân không thóc gạo không sống. Gần đây dân bị phiền nhiễu vì binh dịch nên thóc không sinh sản nhiều. Thêm nạn quan tham lại nhũng chiếm đoạt của dân, khiến dân càng cùng khổ. Nay ra lệnh: bất cứ kẻ nào làm việc phi pháp đều gia tội nặng”. Nhờ Cố Ung, Tôn Quyền chẳng còn phải lo gì đến hậu phương nữa. Luận về Tôn Ngô Cục thế Tam quốc, Tôn Ngô chiếm toàn bộ Giang đông. Địa bàn Giang đông hẹp hơn Ngụy, tốt hơn Thục. Nhân tài Giang đông không thiếu. Thế mà thanh thế Giang đông không lúc nào vượt nổi khu vực mình, suốt bao nhiêu năm chỉ đứng địa vị cố thủ là cớ sao? Trước hết, Giang đông ngoài đường lối chính trị thu hẹp trong khu vực, không có hiệu triệu chính trị đại thể. Khác với Thục, mỗi lần xuất sư phạt Ngụy đều dùng danh nghĩa “Hán tặc bất lưỡng lập, vương nghiệp bất thiên an”. Một lần Tôn Sách tính chuyện xuất binh phát triển thế lực quá giang lên miền Bắc, chẳng may việc chưa thu xếp xong Sách đã bị bộ hạ của Hứa Cống giết chết. Lỡ cơ hội, từ đó về sau, chính trị Đông ngô rơi hẳn vào thế thủ. Thêm nữa thế thủ Đông Ngô phần lớn cũng tại người lãnh đạo, nó đã rõ ràng ngay lúc Tôn Sách giao phó quyền bính cho Tôn Quyền, Sách nói: - “Vận dụng dân chúng Giang đông để quyết cơ chốn trận địa thì Quyền không bằng ta. Nhưng cử người hiền, dùng người tài khiến ai cũng tận tâm tận sức bảo vệ Giang đông thì ta không bằng Quyền” Xét về nhà họ Tôn, riêng Tôn Sách rộng tầm mắt hơn cả. Tôn Quyền kém Tôn Sách rất xa, bản chất chính trị của con người Tôn Quyền là: “khuất thân nhẫn nhục, nhiệm tài đương kế”. Quyền chỉ biết thu vén tính toán hẹp hòi, không có cái phóng dật thiên tài của Khổng Minh và cái say sưa tàn bạo già dặn của Tào Mạnh Đức. Đối ngoại, Tôn Quyền biết khuất thân nhẫn nhục nhưng đối với chính sự nội bộ, tâm tính Tôn Quyền lại khác hẳn, nó chỉ mang khí chất một thanh niên con nhà nuông, với tác phong bồng bột, khinh thị, kiêu căng thừa tự của Tôn Kiên, Tôn Sách. Cho nên Tôn Quyền chỉ vì nóng nẩy hờn dỗi mà bốn phen lập tự, tạo thành những rối ren phiền nhiễu không đâu. Nguyên nhân thứ ba hãm Đông Ngô vào thế thủ là: Đông Ngô luôn luôn phải đối phó với các dân tộc biên cảnh, chiến tranh thường xuyên với các dân tộc này đã làm trở ngại cho sức phát triển của Đông Ngô ghê gớm vì biết bao nhiêu vật lực đã tiêu hao đi. Chỉ một khu vực Đan Dương thôi, Đông Ngô từng chống chọi hàng mấy trăm lần với dân tộc Sơn Việt. Sử chép rằng: dân tộc Sơn Việt rất hay việc võ, thiện chiến, sùng thượng khí lực, ở vùng hiểm trở, họ đi trong rừng như cá dưới nước, lúc đánh họ đến đông như kiến, lúc rút thì trận địa vắng teo, thật khó lòng mà chế ngự”. Xem nhận xét của Ngô Sử đủ biết dân tộc Sơn Việt là mối đại họa cho Đông Ngô. Trong Lục Tốn truyện còn cho biết: “Dân tộc Sơn Việt mỗi lần gây can qua đều mang tác dụng chính trị do âm mưu của Tào Tháo”. Muốn bảo vệ ta thì phải tấn công địch. Đó là một quy luật chiến tranh. Tôn Quyền giỏi thế thủ, nhưng không giỏi thế công, thường thường thế thủ tuyệt đối cũng là khó khăn tuyệt đối. Trận Xích Bích chứng minh sự khó khăn tuyệt đối đó. Tào Tháo xâm nhập Kinh Châu, Lưu Tông sợ hãi đem thuyền bè, bộ binh dâng cho Tháo. Binh Tào thừa thế uy hiếp Giang Đông, quân số ước chừng hơn ba mươi vạn. Dưới áp lực to lớn ấy, Giang Đông chỉ có hai con đường phải chọn, “đánh hay hàng”. Hàng lúc này không thể là hòa mà là tiêu diệt. Đánh thì sức lực Giang Đông so với Ngụy quân quá kém sút. Trong triều đình phái chủ hòa chiếm đại đa số. Thế thủ Tôn Quyền chủ trương bị đe dọa lung lay đến tận cội rễ. Nhưng kết quả của chiến tranh Ngô Ngụy lại hết sức đột ngột. Tào quân thua lớn. Tại sao? Tam quốc chí và Tam quốc chí diễn nghĩa nêu ra mấy nguyên cớ chính: Ngô Thục liên kết chặt chẽ. Tào Tháo thất bại trên mặt trận gián điệp (các việc Hoàng Cái chịu khổ nhục kế, Phượng Sồ, Tưởng Cán). Binh sĩ Trung nguyên không giỏi thủy chiến. Tào Tháo chưa khắc phục trọn vẹn tâm lý của mười vạn hàng quân của Lưu Biểu. Tào Tháo còn bị hạn chế bởi lực lượng Hàn Toại, Mã Đằng phía Bắc. Thua ở Xích Bích, nước Ngụy tìm ra một đại thắng về sau là: nhận được rõ tính cách lợi hại của liên kết Ngô Thục. Tháo liền quay về sửa sang xây dựng địa bàn rộng lớn của mình, đợi Ngô Thục mâu thuẫn sẽ ra tay. Thắng ở Xích Bích, Tôn Ngô đi đến thất bại tương lai vì lòng kiêu hãnh nóng nẩy của những người lãnh đạo say sưa với thắng lợi nhất thời. Tôn Ngô phạm vào lỗi lầm tai hại trên chính lược đúng như Tào Tháo dự đoán là phá bỏ chính sách liên minh Ngô Thục. Mặc dầu Lã Mông đã giết được Quan Vũ, chiếm cứ toàn cõi Giang Lăng, nhưng cũng bởi thế mà Đông Ngô bị lôi cuốn vào một cuộc chiến tranh tai hại. Mặc dầu Lục Tốn đập tan vỡ lực lượng Lưu Bị, nhưng Đông Ngô vẫn còn bị hãm vào một cuộc chiến tranh du kích tiêu hao khiến Đông Ngô vướng vít. Trong khi ấy, kẻ đại địch của Giang Đông là Tào Tháo thừa thế phát triển. Tôn Quyền bồn chồn vì thế lực Quan Vũ, uất ức vì vài lời khinh bạc và hấp tấp với mấy mối lợi do Tào Tháo nhử; nhãn quan chính trị của Tôn Quyền quả thật là quá ngắn. Tôn Quyền chỉ đụng độ với Tào Tháo một lần tại Xích Bích, trận này Tôn Quyền đại thắng. Thế mà đời sau vẫn bảo Tôn không bằng Tào. Ấy là vì cái khả năng chiến lược, khả năng nhìn thế lớn của Tôn không đáng học trò Tào vậy. Mưu sĩ Tuân Úc Nhân tài thời đại Tam quốc rất nhiều. Đem so sánh số nhân tài qui tụ tại ba nước Ngụy Ngô Thục thì số trí thức dưới trướng Tào Tháo cao nhất, thứ nhì Ngô, thứ ba Thục. Trong đám mưu sĩ nước Ngụy, có Tuân Úc được Tào Tháo thưởng thức hơn cả. Tào Tháo vốn đã là người túc trí, đa mưu, kẻ làm mưu sĩ cho Tào Tháo không phải dễ dàng gì. Tuân Úc xuất thân từ gia đình môn phiệt. Tổ phụ Tuân Úc là Tuân Châu nổi tiếng học rộng, thày dạy các danh sĩ Lý Ưng, Vương Xướng. Tuân Châu có tám người con được đời xưng tụng làm “tám con rồng nhà họ Tuân”. Chú của Úc là Tuân Sảng làm quan đến chức Tam Công. Tuân Úc ngay từ lúc còn trẻ đã nhận thức những cái thối nát của bọn danh sĩ Thái học sinh, tự mình từ bỏ con đường từ chương hoa mỹ để đi tìm thực học. Tuân Úc có 5 sở trường: - Thứ nhất: giàu mưu trí, kế hoạch của ông có một tính chất đặc biệt là ẩn trọng tính xa. Lúc Đổng Trác nắm quyền, Tuân Úc đang làm một chức huyện quan, từ dịch trở về quê quán. Úc nhận thấy sắp loạn to đến nơi mới hội họp các bô lão trong làng nói rằng: “đất Dĩnh Xuyên chúng ta chẳng chóng thì chầy cũng thành chiến địa vì nó ở chính giữa chỗ binh xung, vậy phải tính chuyện rời đi không thể chậm trễ nữa. Các bô lão dùng dằng chưa quyết, Tuân Úc gặp dịp Hàn Phức mời ra giúp việc liền thu xếp cho gia tộc thân thích bỏ đất Dĩnh Xuyên ngay. Quả nhiên không bao lâu, quân Đổng Trác tới cướp bóc vùng Quang Đông, đất Dĩnh Xuyên bị tàn hại hơn cả. - Tào Tháo khởi binh đánh Đào Khiêm, giao phó Tuân Úc cai quản hậu phương, quân còn lại rất ít. Trương Mạo, Trần Cung, Lã Bố thừa cơ tấn công, tình thế mười phần nguy cấp. Tuân Úc cùng Hạ Hầu Đôn bình tĩnh ứng phó. Giữa lúc nguy nan này, có quan Thứ sử Dự châu là Quách Cống đem mấy vạn quân đến dưới thành đòi tiếp kiến Tuân Úc. Ai cũng cho rằng Quách Cống đồng mưu với Lã Bố nên muốn giữ không để Úc ra nói chuyện. Úc nghĩ, từ chối Cống tức là đẩy Cống hùa theo Lã Bố, bất nhược nếu không thu dụng được Cống thì ít nhất cũng làm cho lực lượng Cống trung lập. Nghĩ vậy rồi Tuân Úc thản nhiên ra hội đàm với Quách Cống. Cống thấy Úc không hề có sắc mặt hoảng hốt lo âu nên bụng bảo dạ, chắc Úc đã bố trí chu đáo rồi nên kéo quân đi thẳng. Cái kế thành bỏ ngỏ chứng tỏ thủ đoạn quyền biến của Úc rất cao vậy. Ở với Tào Tháo, Tuân Úc đã giúp cho họ Tào những kế sách lớn như: a- Khi Tháo đánh nhau với Viên Thiệu, quân Viên Thiệu cực thịnh, quân Tào Tháo thì ít, lương lại thiếu. Hai bên cầm cự dằng dai, Tháo muốn rút quân bèn biên thư hỏi ý kiến Úc, Úc trả lời: - Hiện tại lương tuy thiếu, nhưng kẻ thoái trước tất là gẫy nát hết, xưa kia Lưu Bang cầm cự Hạng Võ ở Hàm Dương, cả hai bên đều nhất quyết không chịu thoái quân trước. Bây giờ ta chống giữ Viên Thiệu, chẹn họng Thiệu tính ra đã quá nửa năm, tình hình sắp chín sắp biến, chính là lúc ta nên dùng kỳ binh đó. b- Tào Tháo muốn chiếm Từ Châu của Đào Khiêm trước, trừ Lã Bố sau, Tuân Úc chủ trương ngược lại, Úc nói: “lấy lớn đổi nhỏ, lấy an đổi nguy, chỉ biết cái kế nhất thời mà quên rằng căn cứ mình còn chưa vững là không phải”. Tháo chịu. Tào Tháo chiếm Nghiệp thành, lĩnh chức Ký Châu Mục, nhiều người khuyên nên trở lại chính chế cũ, phân định cửu châu. Tháo bằng lòng, đem ý kiến ấy hỏi Tuân Úc, Tuân Úc bàn rằng: - “Ký Châu đất rộng người đông, ta mới chiếm đoạt, hết thẩy đều lo sợ, nếu dân chúng sinh biến mà ta chống giữ tất nhiên phải đàn áp. Đàn áp là ta mất chính nghĩa. Đã mất chính nghĩa rồi thì càng khó giữ. Chẳng bằng ngài hãy đem binh đánh dấn lên Hà Bắc, tiến xuống Kinh Châu để làm sáng tỏ chính sách to tát quang minh của ta cho thiên hạ rõ đại thể, mà biết tự an, đấy mới là kế lâu dài vậy”. Tào Tháo tỉnh ngộ bãi bỏ việc tái lập cựu chế tại Ký Châu. Việc Tô Châu, Duyện Châu, Tuân Úc chủ trương củng cố trước, phát triển sau. Việc Ký Châu Tuân Úc lại chủ trương phát triển trước, củng cố sau. Trông bề ngoài thì trước và sau có vẻ phân cách riêng biệt, sự thật Tuân Úc chỉ là: trong phát triển đi tìm cái củng cố, trong củng cố mở đường tái phát triển. Chỗ khó là vấn đề thích đáng “sự thích thời giả kỳ công đại!” (làm việc đúng thời mới nên đúng). Đáng tiếc Tam Quốc chí diễn nghĩa không cho người đời sau đủ tư liệu cần thiết để phân tích, chứng minh rõ ràng khúc triết hai đường kế sách của mưu sĩ họ Tuân. Thứ hai: Tuân Úc sáng suốt và rộng lượng đề cử người tài giỏi. Thông thường các mưu thần sách sĩ vẫn có lối trông người thiên hạ bằng nửa con mắt. Tuân Úc trái lại, lúc nào ông cũng tha thiết quý trọng nhân tài, tìm cách tiến cử. Tuân Du, Vương Lãng, Quách Gia, Tư Mã Ý, Hoa Hâm, Trần Quân (Quần?) hết thảy đều do một tay Tuân Úc đề bạt. Thứ ba: Nhân phẩm thuần hậu, làm việc thẳng thắn. Sách “Điển lược" nói Tuân Úc là người khiêm nhượng, không đài các, không để cho tư dục loạn tâm ý. Úc có một tên tùy tùng tận tụy hầu hạ. Lúc ông nắm quyền lớn, có người nói: “bây giờ ông ở ngôi cao, tại sao không nhân tiện xin phong chức cho hắn? Tuân Úc cười nói: Quan chức dùng để tỏ tài hành sự của người ta, hắn tuy tận tụy với tôi nhưng không phải vì thế mà tôi dùng bậy”. Sau khi địa vị Tào Tháo củng cố, các bạn của Tuân Úc sốt sắng, nhất là Đổng Chiêu đều chạy đua vận động tước vị. Chiêu đem ý kiến bàn với Tuân Úc. Họ Tuân trả lời: Thái Tổ vì đại nghĩa hưng binh để lập kỷ cương triều đình, ổn định nhà nước, riêng tôi, tôi muốn giữ lòng thành thực trung trinh mà yêu mến Người qua đức độ, chẳng ham như thế”. Thứ bốn: Mỹ đức giản dị tiết kiệm. Thường thường Tuân Úc vẫn đem bổng lộc của mình phân phát cấp đỡ cho tôn tộc, họ hàng, bạn bè thân mật cũ, cho nên nhà không có của thừa. Tào Tháo đem con gái mình gả cho (con?) Tuân Úc và cấp ruộng nương tiền bạc vô kể, nhưng cha con Tuân Úc đều khiêm nhượng từ chối. Thứ năm: dáng dấp đường bệ, dung mạo chín chắn, Tuân Úc có một nghi biểu ít thấy. Chẳng thế mà khi Nễ Hành chửi Úc cũng phải công nhận rằng: “Tuân Văn Nhược chỉ đáng đi viếng đám tang”. (Tuân Văn Nhược khả tá diện điếu tang). Về cái chết của Tuân Văn Nhược Tuân Úc thọ đúng 50 tuổi. Cái chết của ông, dư luận chia làm hai thuyết. Tam Quốc chí viết: “Tuân Úc không tán thành việc Tào Tháo tấn phong Quốc công, Tào Tháo e dè để bụng, Tuân Úc buồn phiền lâm bệnh nặng”. Sách Ngụy thị Xuân thu viết: “Tào Tháo sai người biếu Tuân Úc một mâm gỏi, Úc mở ra, ở trong không có gì, biết Tào Tháo muốn mình tự xử bèn uống thuốc độc chết”. Tâm sự người xưa ra sao? Thuyết nào cũng đúng, ngày nay ta chẳng có tài liệu xác thực nào để mà chứng minh cả. Tuân Úc, Nễ Hành, Trần Cung Phần tử trí thức bình dân thời đại Xuân Thu đặt chủ trương cho mọi hoạt động chính trị phải: - Lấy Trung, Thứ làm lập trường. - Lấy Nhân, Nghĩa làm nguyên tắc. Cả ba Tuân Úc, Nễ Hành, Trần Cung đều chịu ảnh hưởng tư tưởng mà phần tử trí thức Xuân Thu đã nêu lên. Khi thể hiện trên hành động, ba người lại khác hẳn nhau. Tuy vậy kết quả cùng quy vào một mục tiêu là đề cao Trung Thứ Nhân Nghĩa. Mặc dầu cả ba cùng cống hiến cho mục tiêu giống nhau, nhưng nếu đem so sánh, phán đoán thì việc làm và thái độ Tuân Úc tỏ ra đáng kính trọng, đáng khâm phục hơn cả, cho nên công lao cống hiến của Tuân Úc cho thời đại cũng lớn nhất. Vì Tuân Văn Nhược là người sáng suốt, biết thỏa hiệp lý tưởng chính trị với hiện thực, tuy phải ứng phó với hiện thực mà vẫn không hề quên công tác chỉnh đốn thể hệ nhân văn. Trần Cung thì ý thức đấu tranh quá ngắn hơi. Còn Nễ Hành chỉ là một loại trí thức không tưởng, điên cuồng. Một tâm trạng yếu ớt và nông nổi. Tâm trạng nổi loạn bằng những cơn giận cơn điên, nhắm mắt lao đầu vào chướng ngại để hòng phá nó. Tâm trạng chống đối vô ích, chỉ bàn chỉ nói, chỉ chửi mà không làm gì cho đúng mức cả.