Phấn II

      đây những người đồng hương của bố tôi đã phải đi cùng với những người cai trị họ. Nhưng những dấu tích họ để lại không phải là ít. Như tôi, và bao nhiêu đứa trẻ xấu số khác đã sinh ra trong hoàn cảnh đen tối của quê hương những người mẹ bất hạnh. Số phận họ chắc chắn là khổ hơn tôi nhiều lắm, những người mẹ khác không thế nào bằng mẹ tôi được. Tôi đã từng gặp nơi dọc đường nhiều đứa trẻ chung hoàn cảnh như tôi. Tôi nhận ra họ bởi hình thù của họ mang cùng, vẻ buồn rầu trong cái nhìn hơi cúi nhiều tủi hổ. Tôi nhận ra họ và chắc họ cũng nhận ra tôi nhưng đều lặng thinh, chúng tôi không muốn nhớ, không muốn nhận ra người đồng cảnh, không muốn nhắc nhở tới quá khứ, tới số phận chúng tôi. Chúng tôi có gì tốt đẹp mà nhắc nhở. Chúng tôi chỉ là một vết đen trong lịch sử những người chung quanh. Chúng tôi là dấu tích đi truyền không xóa đi được, không tan đi được. Chúng tôi còn là cái nhắc nhở họ những gì đen tối, đau khổ. Chính tôi là điều để các anh tôi nhớ rằng chính mẹ tôi đã bị nhục nhã, bố họ đã bị giết, kẻ giết đó chẳng phải ai xa lạ mà chính là bố tôi. Rồi từ đó một đoàn quân hung hãn lại hiện ra trong trí họ, đoàn quân đã đến tàn phá đất nước này. Tôi biết rõ về những tội ác không sao lường được ấy. Bom đạn đã nhả ra giết bao nhiêu người hiền lành, lửa trong tay họ đã châm vào bao nhiêu mái nhà êm ấm... Đó là tội ác những kẻ chinh phục da trắng, đó là trách nhiệm của tổ tiên họ. Những người đáng được tha thứ và khoan dung chính là bố tôi - tôi chẳng muốn bênh vực, mà còn muốn lên án họ nữa bởi tôi chịu cực khổ còn kém ai - bởi họ là kẻ không có tự do. Họ là những người nô lệ bị tước đoạt ngay cả quyền không được sống ngay trên quê họ. Họ như một bầy thú bị nhốt vào một chiếc cũi sắt, ở đó họ bị dồn lén, chèn kẹp, bị làm thui chột nhân tính, ở đó thú tính được nuôi dưỡng, khuyến khích để thèm muốn, tàn bạo, hung hãn... Rồi bầy thú đó được mang tới một nơi nào đó thả ra cho hoành hành. Bầy thú đen lao đầu vào tội ác, vào cái chết... Họ là những con người đáng thương hại. Họ đã rời khỏi đất này, hoặc chết bỏ xác ở đây không ai biết đến, số phận của họ chẳng lúc nào làm tôi có thể quên, nhất nữa tôi là một đứa trẻ lai da đen...
Không thể nào mẹ có thể chết được, mẹ phải sống với con. Con phải chết đi mới phải. Mẹ phải sống với các anh con, bởi vì chính con đã làm họ không được sống với mẹ, và làm cho họ mất bao nhiêu hạnh phúc đáng ra họ được hưởng. Tôi tự biết tôi. Đêm đã xuống rồi, đêm đen như mặt tôi, như số phận tôi và những người đồng cảnh ngộ. Mẹ tôi đã còn sống được trong bao lâu nữa, các anh tôi sẽ trở về, tôi tin họ trở về, ít ra họ cũng còn thương mẹ tôi và sau nữa họ trở về để tranh giành gia tài, để đòi những quyền lợi của họ. Tôi thì không. Tôi là một người ở ngoài. Mẹ tôi chết đi rồi thì coi như đời tôi cũng đã hết, không còn gì nữa, không còn gì nữa phải không thưa mẹ. Như thế mẹ có thể chết được sao? Mẹ hãy nghĩ lại xem... Thật đời con còn có ra gì nữa... Con của mẹ là như thế...
Ông Hai đã bắt đầu siêu người vào thành giường, tay trái vươn dài bỏ lên nền chiếu, tay phải cầm điếu thuốc tổ sâu chưa châm lửa, hai chân duỗi ra một cách mệt mỏi. Thạch dựa lưng vào vách, chân co chân duỗi, tay cầm bát rượu. Trên chiếc bàn thấp đóng bằng những thanh củi một cách vụng về còn lại mấy miếng thịt nướng, bình rượu ngả nghiêng nơi mặt đất. Ông Hai đưa tay tìm chiếc bật lửa, ông nặn khắp túi áo rồi túi quần tới thành giường, tay ông run run, ông tìm mãi một thấy đành phải cầm thanh củi cháy dở đưa lên mồi điếu thuốc. Ánh lửa chiếu sát vào khuôn mặt làm Thạch nhìn rõ cả những giọt mồ hôi đang chảy trên hai thái dương và đầy cả vầng trán nhăn nheo. Hàm râu ngắn điểm ít nhiều sợi bạc làm khuôn mặt ông Hai khỏe mạnh, dắn dỏi thêm lên, đôi mắt sâu và lớn, những sợi lông mày dài lả xuống, đôi lông mày mà ông Hai vẫn lấy làm thích: tôi có đập đầu vào đá cũng không chết, rồi chú coi đấy. Thạch nốc nốt chỗ rượu còn lại rồi bỏ chiếc bát không lên mặt bàn, ông Hai hít liền mấy hơi thuốc thở ra một cách say sưa, mặt ông đỏ bừng, ông đưa tay quệt ngang miệng, tép tép lưỡi:
- Chú về tôi lại chỉ biết ngủ khì chớ rượu chè một mình chán chết. Rượu ngon không có bạn hiền, không mua không phải không tiền không mua... là thế đó. Nhưng chú về là phải lắm, chú đi cũng lâu rồi. Mà tôi thì nghĩ...
- Mấy bữa ăn thua gì, chỉ mấy bữa thôi mà, tôi lên ngay đó...
- Ủa, chú còn lên làm gì, bây giờ là lúc chú phải về rồi chứ? Chả gì chú cũng lớn rồi. Bà cụ lại bảo chú về thì phải ở dưới đó trông nom mẹ chứ, rồi còn lập gia đình, vợ con...
lông bông lang bang mãi thế này được à, tôi không chịu được như thế mãi đâu...
- Ờ thì vậy đó...
- Thế chú có được tin gì về người vợ trượt của chú không? Cái cô vợ mà bà cụ bắt chú lấy đó. Kể chú cũng ương thật chứ không phải chơi, chuyện như thế mà cũng bỏ đi...
- Không bỏ đi thì ông bảo tôi ở làm cái gì mới được chứ? Sống như vậy với người mẹ và các em mình, một thứ nhục hình...
- Thế ra không phải chuyện vợ con à? Chú lại bịp cả tôi rồi. Sao chú vẫn bảo gia đình chú êm ấm lắm, một gia đình ít có, nào là giòng dõi một gia đình nền nếp có học, dù sa sút, cha mất sớm vẫn giữ được gia giáo, chịu đựng nuôi con thờ chồng khác hẳn những người đàn bà khác. Hóa ra lại không phải như thế. Nuôi được những người con lớn như chú đâu phải chuyện dễ... Rồi chú rời đi cũng không phải là ý muốn của mẹ chú muốn cho chú một nghề tự do, một nếp sống tự lập... Hóa ra chú muốn quên những điều ở đó, chú muốn lừa cả chú...
- Cũng có thể mà cũng không có thể...
- Chú nói chi lạ vậy? Chú say rồi đấy à?
- Tôi muốn say lắm chứ, nhưng chưa bao giờ có thể say được, dù là một lần. Ông mà lại còn tưởng gì nữa. Những đứa con bỏ nhà mà đi đâu phải là một câu chuyện giản dị như thế. Có đứa con nào mà muốn rời khỏi gia đình, nếu nó được sống một cuộc đời yêu thương thân thiết đùm bọc? Họa chăng là những đứa con hư đốn ăn cắp tiền cha mẹ, đĩ tính theo trai, theo gái... những hạng đó không phải là tôi. Nhưng vẫn có những người có yêu cha mẹ mà vẫn phải rời xa cha mẹ vì hoàn cảnh người chung quanh đó nữa. Tôi đi là thế.
Ông Hai với chiếc bình rót rượu nhưng rượu không còn đầy bát, ông cầm lấy miệng bình liệng vào vách nhà, tiếng vỡ chát chúa làm Thạch giật mình.
- Ngụy biện, ngụy biện, tôi nghe hoài những luận điệu như thế rồi, tôi chán lắm, lại thêm một trường hợp bất hạnh nữa...
Thạch nhớ lại những điều đã nói với ông Hai, những điều chàng tạo ra, để cho chính chàng, để cho chàng có một gia đình êm ấm trong tưởng tượng, và một quá khứ có thể nhắc nhở được, nhưng đó chỉ là một bề mặt, còn trong tâm tâm chàng vẫn thấy những uất ức thù ghét nhen nhúm như mồi lửa trong lò thép...
- Vậy mà tôi vẫn tưởng...
- Tưởng gì. Tôi về có thằng bỏ mạng là thế đó. Ông không thể hiểu được đời sống chúng tôi.
- Một thằng anh em, tôi nói ra thì ông cũng không biết thế nào, đó là chuyện của tôi.
- Lại thêm một trường hợp bất hạnh nữa hay một thảm kịch?
- Ông thử đặt ông vào trường hợp tôi xem?
- Lại thêm chú nữa? Có mà tôi điên.
Ông Hai muốn đứng dậy nhưng hai chân ông run rẩy một cách thảm hại. Thạch đứng lên tựa người nơi cửa sổ ngó ra ngoài, đêm đen thẳm gió lạnh... Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời dì ghẻ có thương con chồng... Tôi chịu đựng mười năm trời nay rồi. Tôi mong cho dì khi chết còn có thể nhắm mắt được... tôi là một đứa vô lại, để sống với những người... Thạch muốn kiếm con dao đâm cho hắn một nhát rồi ra sao thì ra.
- Hóa ra cũng chẳng êm đẹp gì, nhưng chí có thương mẹ chú không?
- Tôi muốn hỏi ông như thế?
- Tôi thì khinh.
- Tôi thì không. Tôi vẫn nhớ và thương mẹ tôi. Nhưng tôi không thể sống với mẹ tôi được.
- Ít ra mẹ chú cũng còn có điều để cho chú có thể thương được. Tôi thì tôi khinh. Cho tới bây giờ vẫn thế, có khi tới chết nữa. Bố tôi là một anh kéo xe cho tên tri huyện, chẳng hiểu sao mẹ tôi lại đi làm hầu cho tên tri huyện đó, bỏ tôi lại cho bố tôi. Nghĩ mình là một tên kéo xe nhưng ít ra cũng có liêm sỉ của một thằng kéo xe, thấy vợ mình làm nhục không thể nào chịu được. Bố tôi đâm chết cả hai đứa một lần rồi vào tù. Chỉ khổ cho tôi thôi... Thật tôi không có gì để nhớ hay đáng nhớ hết.
- Tôi không thể nào hiểu được người đàn bà. Tôi không thể hiểu ngay cả mẹ tôi. Mẹ tôi lấy bố tôi sinh được hai người con trai, tôi là em, anh tôi bỏ đi hồi nhỏ, bố tôi để lại một sản nghiệp không phải nhỏ, cái dinh cơ bây giờ còn đó. Bố tôi chết tôi không biết mặt, mẹ tôi lấy một người chồng đã có ba người con riêng, tôi không thể nào chịu được những đứa con riêng có trước và cả những người con riêng có sau này đi nữa. Trong đó còn có cả một đứa con lai Tây đen... Ông hãy tưởng tượng ra một hoàn cảnh như thế xem ông có thể chịu được không chứ kể gì tôi. Nghĩ tới bố tôi, tôi không thấy gì khổ hơn nữa. Tôi một mình đơn độc. Tôi là đứa con lớn mẹ tôi không yêu thương. Sau đó mẹ tôi không - Ai?
muốn các con chồng ghen ghét, nhưng dù vậy các con chồng có yêu thương mẹ tôi đâu. Bao nhiêu lần chúng nó làm mẹ tôi nhục. Chúng bảo có bao giờ dì ghẻ thương các con chồng, chỉ có cái vẻ bề ngoài che đậy. Mẹ tôi không đánh mắng chúng, chúng bảo như vậy là muốn nương chiều cho các con chồng hư hỏng, một hành động nham hiểm của người ác độc và thủ đoạn, nhưng nếu đánh mắng thì chúng lại vu oan giá họa ra chứ, điều ấy ông thừa hiểu... Thằng Tuấn còn đặt ra hàng trăm điều khốn nạn. Bây giờ mẹ tôi chết rồi dì cho chúng tôi sống hay chết chả được, sao dì không giết chúng tôi đi cho bố tôi chỉ yêu các con của dì thôi. Ấy như thế đấy, luận điệu của chúng bao giờ cũng bi thảm. Chúng không hiểu rằng nếu không có mẹ tôi thì chúng đã chết đói nhăn răng cả ra, nhất là sau khi chiến tranh tàn phá, của cải tiêu tan, bố chúng bị bắn chết, một kẻ hèn nhát, đã làm mẹ tôi chịu nhục nhã. Đáng ra chúng phải tự lấy làm sỉ nhục là dù đã lớn chúng vẫn không có lấy một chỗ cắm hương mà thờ bố mẹ chúng chứ. Nhà bây giờ của bố tôi để lại và chúng rúc đầu vào đó nương nhờ. Bố chúng có còn để lại cái gì, có chăng là để lại những nhục nhã cho chúng, và để lại cho người khác những đứa con hư đốn, mất dạy...
Như thế thì ở dưới âm phủ bố chúng cũng phải lấy làm tủi thân xấu hổ chứ?
Chưa hết, bởi như thế tôi còn có thể tha thứ cho chúng được, những điều chúng đã nói về mẹ tôi... Thật là những điều đê nhục không thể nào nói ra được... Ông hiểu cho tôi chỗ ấy. Tôi biết hết tâm địa của chúng. Chúng còn không muốn cho mẹ tôi cúng giỗ bố tôi, ngày giỗ chúng chỉ biết ăn, chúng không chịu lễ bố tôi, như thế đời nào tôi chịu lễ bố mẹ chúng nó. Ấy thế mà phen này khi mẹ tôi chết chúng sẽ trở về đòi chia gia tài cũng nên, thật là điếm nhục, xảo trá... Tôi tưởng chúng nên vùi đầu vào một xó nào mà chết đi mới phải chứ. Tôi phải trở về. Tôi về để tạ tội với mẹ tôi, để nói cho mẹ tôi biết bao giờ tôi cũng thương mẹ tôi hơn hết dù tôi phải xa mẹ tôi, xa cách để kính trọng thêm.
Mẹ tôi đã khổ nhiều rồi, nỗi khổ bao nhiêu năm răng ra được vì thương yêu các con. Và như thế tôi phải chịu phần bất hiếu với mẹ tôi. Đáng ra dù thế nào tôi cũng phải ở lại mới phải, tôi không được phép rời khỏi căn nhà ấy. Tôi phải thay anh, thay bố để đáp lại một phần nào chút nghĩa với mẹ tôi...
Tôi về thế nào cũng có đứa bỏ mạng là thế.
- Bố làm phu xe, mẹ là một người... Còn gì mà nhớ... Vợ bỏ theo trai, con theo giặc làm lính Lê Dương đi giết mướn. Đáng ra tôi phải tự tử mới phải. Nó có bao giờ thèm biết là tôi sống chết thế nào đâu? Nó còn mải mê giết người cướp của ở đâu xa lắm...
Chú về rồi thì tôi cũng đến...
Thế nào anh cũng về, anh nhất định về dù em nói gì đi nữa vì anh yêu em. Không những một mình anh về, anh còn muốn cả em cùng về với anh. Tại sao không? Em thử nghĩ tại sao không? Không phải anh về với ý muốn che đậy sự giả dối của mình, để vênh vang tự nhận là một người đại lượng, có lòng bao dung, thương yêu cả người không thương yêu mình. Bây giờ nếu anh không về thì chắc không bao giờ anh còn cơ hội gặp mẹ kế, cũng là dì ruột anh trước khi bà mất, sau nữa không còn có can đảm để gặp lại anh em mình dù sao cũng vẫn còn một sợi dây liên lạc vô hình, cho ngay đó là lòng đố kỵ, ghen ghét và thù hận. Và đồng thời anh còn muốn được trở về nhận một phần gia tài, nhận cái bằng chứng tấm lòng bà mẹ kế dành cho anh.
Em nói không phải không đúng: lòng anh đầy thù hận và phẫn nộ, chẳng phải riêng với người khác, mà còn cho cả anh. Anh sợ một lúc nào đó em sẽ phải chịu đựng với anh như một kẻ thù. Anh đã chẳng nguôi oán hận tại sao mình lại sinh ra ở một thời như thế này, trên một đất nước nhiều tủi nhục như thế này, và tại sao em lại yêu anh. Em chưa bao giờ nghe anh nói về quá khứ, thời ấu thơ, chưa bao giờ anh nói về gia đình, bạn bè, quê hương... Em không dám hỏi, hay em sợ phải nghe, phải chung chịu một tấn thảm kịch. Có lẽ tất cả... và chính anh, anh cũng chỉ muốn sống một mình trong thế giới của anh cho đầy đủ sự bí mật u uẩn, thiêng liêng và trĩu nặng những ảo ảnh... Cái bề mặt trong đời sống anh - có lẽ em yêu anh cái đó - cái bề mặt hiền lành ngờ nghệch đượm vẻ ngây thơ anh tạo ra không phải chỉ để cho em yêu, cho mọi người tin cậy, mà chính để cho anh sống. Vâng chỉ có thế mới nuôi anh sống được đến bây giờ.
Đời sống nhiều phức tạp, sự phức tạp làm chúng ta cô đơn xa cách mọi người. Anh không muốn nó phức tạp, cô đơn và xa cách thêm nữa. Bởi vì gần ba chục năm trời nay anh phải chịu đựng với nó. Em thử tưởng tượng...
Đời sống anh bây giờ, đời sống em thấy đó, một ông giáo tỉnh lẻ, đời sống bình thản, đều đặn, mực thước, mỗi ngày mang tập bài vào ngồi trước đám học sinh, những gương mặt ngây thơ, những mái tóc xanh ngoan ngoãn, những đôi mắt tròn đen như cặp bi ve nằm trên bàn tay hồng ửng, đôi môi đỏ còn chứa chan nhựa sống, và những cặp má mướt lông tơ, sống với đám trẻ, những lúc khen thưởng nhìn vẻ mặt cảm động rụt rè, lúc quở mắng lo lắng cuống quít, lúc nào chúng cũng vẫn lộ ra vẻ đáng yêu, như một bát nước trong mát từ giếng khơi được tưới vào tâm hồn nhiều khô cằn mệt nhọc của anh, anh không được như chúng, đó chẳng phải là điều thiệt thòi cho anh hay sao? Người ta vẫn bảo: đứa trẻ năm tuổi muốn mình chóng cao lớn để tự với lấy quả bóng đỏ bị bay lên trần nhà, người ba mươi tuổi muốn mình là đứa trẻ năm tuổi để đứng vịn nơi tay ghế khóc òa nhờ người mẹ, người chị, hay anh với hộ quả bóng... Có thực thế không? Những người như anh muốn bé lại mà chẳng được, còn đám học sinh đang ngồi nhìn bên thầy giáo kia với tất cả ước mong. Mà chắc chắn khi chúng ngồi vào đó rồi, hay ngồi những địa vị cao hơn trong xã hội rồi chúng sẽ ân hận, những niềm ân hận chúng ta không thể cưỡng lại được.
Em muốn biết thời thơ ấu của anh. Bây giờ anh có thể nói cho em nghe. Mai này anh sẽ đi. Chưa hiểu chuyến đi này sẽ can dự gì đến mối tình của đôi ta. Anh không muốn biết.
Có điều chúng ta đã yêu nhau. Con đường này đã bao nhiêu lần chúng ta đi với nhau. Thật không thể nhớ, chỉ biết em đã có mặt trong đời sống anh. Người trước mặt anh đây là em, người yêu của anh và anh có thể nói hết mọi điều. Nói cho ra người khác nghe để anh khỏi phải nói một mình. Trong một mùa xuân anh đã nói với một người bạn rằng: năm nay, hay bao nhiêu năm rồi, chẳng ai chúc tết mình, cho nên ở căn gác hẹp này mình để ngọn đèn về phía sau lưng, cho bóng mình đổ dài trước mặt, trước bóng đen to lớn sừng sững đó, mình nói lớn: Năm mới chúc anh nhiều hạnh phúc và may mắn... Bóng đen im lặng không nói, anh đã khóc và bóng đen nhòa tan... Em đừng khóc thêm nữa, nước mắt ấy em hãy dành cho tương lai anh, nếu không mai này anh còn gì để sống, lúc chết đi còn có giọt nước mắt nào được nhỏ ra cho anh nhắm mắt được.
Anh sinh ra trong một gia đình làm ruộng bậc trung. Ông nội anh là một người tay trắng từng làm mướn cày thuê, cố công tạo ra một sản nghiệp có ruộng để cày, có nhà để ở. Ông đã thuê mướn những ruộng xấu rẻ tiền nhất để tạo nên. Những ruộng đó hoặc ở đồng xa nước cạn, đất dắn cỏ gà mọc không được, hoặc ở đồng lầy ói nước. Ông đã đi sớm về tối đổ mồ hôi xuống đó để cấy được cây lúa. Hồi anh lớn lên, có đủ trí nhớ, khi đó mà anh đã khá hơn xưa, thế mà anh chỉ thấy ông anh thức dậy sớm, buổi sớm mùa đông lạnh như cắt, ông lấy bát triết yêu xúc cơm nguội, múc một gáo nước mưa kinh niên, lấy một quả cà bát ngâm tương ăn bữa cơm buổi sáng dù lúc đó ông đã ngoài năm mươi. Mùa rét ăn ngô rang, ông ăn những hạt cúp, những hạt rắn chắc, ông bảo: nhai kỹ nó bùi lắm; cơm ăn thứ xấu, nhiều khi là gạo xay không giã, ông bảo: có thế cơm mới ngọt. Cắt rau trong vườn ông cắt toàn chỗ già, lá gốc, nghĩa là những gì không ngon, xấu xí thì ăn, còn những gì ngon tốt thì để bán lấy tiền vun vào cái sản nghiệp nhỏ cho mỗi ngày một lớn thêm. Ông anh có theo học và biết ít nhiều chữ Hán. Những lúc thong thả ông ngồi kể lại đời cụ nội, người đã từng là anh em của Bãi Sậy, chính ông anh cũng từng đi theo hồi cụ Tán Thuật khởi nghĩa chống Pháp. Ông cụ anh bỏ mình ở đó. Ông anh vẫn thường ân hận về chuyện mồ mả, câu chuyện Bãi Sậy đã chỉ là bãi Sậy với sự huy hoàng của lịch sử, khối dũng mãnh của ông cha chúng ta, nó là ngọn lửa khi tắt đi đã để lại nhiều ghẻ lạnh, nhiều ê chề. Ông anh bảo: sau khi các cụ thất bại đâm ra chán, ai cũng thuốc phiện, ẩn dật, ông thì ông nghĩ đến con cháu, thua keo này bày keo khác. Mình ngu và yếu, chống với giày đinh mà mình trả ổi xanh, đậu tương thì nó mừng rơn. Thành Sơn thất thủ vì một ngọn đèn bay với quả bóng cao su thì thua là phải lắm rồi còn nói gì nữa, ở Hà Nội bây giờ đó, đạn đại bác nó bắn vào như thế cụ Hoàng Diệu không tuẫn tiết sao được... Khi thong thả ông đánh võng ngâm thơ. Ông không muốn con cháu thua kém người ta, ông cho cha anh đi học chữ Hán với cụ Cử Nhổn, rồi ra Hà Nội học chữ quốc ngữ, nhưng việc học nửa chừng thì bà anh mất, đám tang lớn lắm, anh còn nhớ một điều: dưới huyệt bà có những con dơi xòe cánh bay... Cái quá khứ đó trong trí óc anh như một màn sương trắng đục nhiều mơ mộng ấm áp...
Mẹ anh là một người làng bên. Con gái cả một gia đình có học, nền nếp, ông ngoài là một nhà Nho đã nhiều lần lều chõng nhưng hai lần thi chỉ đỗ đến tú tài, ông là ông Kép, vốn nhà nghèo thi đỗ nhưng không ra làm quan, không hiểu vì thời đó cái học đã tàn không còn thích hợp hay vì một mối uất ức gì, ông chỉ mở trường dạy dăm ba đứa học trò.
Nhiều kẻ sau này trong hàng huyện làm nên, cũng có khi ông còn đi để đất cho thiên hạ. Bởi thế bà ngoại anh vất vả nuôi chồng, nuôi con, giữ thanh danh cho một gia đình có học. Cha anh đã đến làm rể gia đình ấy, chịu ơn ông ngoài không những là người cha mà còn là một bậc thầy.
Không hiểu sao anh thấy em có nhiều điều giống mẹ anh, em đừng vội nghĩ là anh yêu em chỉ vì em có những điều giống người mẹ yêu quí của anh. Bởi vì anh yêu em thực. Mẹ kế anh bây giờ cũng có những điều giống mẹ anh, cái giống của hai chị em ruột, sao anh không yêu mà lại còn ghét. Anh không đổi ý kiến trở về đâu. Anh còn muốn tìm lại những nét đáng yêu của mẹ anh, và muốn cả em cùng biết nữa. Mẹ anh thấp nhỏ, mặt vuông vắn; có nước da trắng mịn, nước da như trứng gà bóc. Đôi môi lúc nào cũng đỏ vì mẹ anh nhai trầu luôn miệng, đôi má ửng hồng và núm đồng tiền xinh xinh duyên dáng.
Anh nhớ nhất mái tóc, mái tóc quấn khăn bỏ ra đằng sau chiếc đuôi gà làm dáng, tóc mẹ có tiếng cả vùng vì dài óng và xanh mượt. Em hãy tưởng tượng ra mỗi lần mẹ gội đầu mẹ phải đứng lên trên chiếc ghế đẩu cho tóc khỏi quệt xuống đất, với ánh nắng êm dịu buổi sớm mai, với gió đồng nội nhẹ thoảng, mẹ đứng ở hiên nhè nhẹ gỡ từng cuộc tóc, nhiều lần mẹ kêu tóc dài nặng cả đầu cắt đi cho xong, nhưng cho đến lúc mẹ mất tóc mẹ vẫn giữ nguyên vì mẹ yêu mến nó quá.
Tóc hồi xưa của em cũng thế, mái tóc hồi em chưa yêu anh, mái tóc tung bay trong gió mỗi buổi chiều tan học em đi ngang qua cửa ngõ nhà anh. Mái tóc như một dòng suối mun trong thần thoại của những nàng ngọc nữ thả bay trong gió. Bây giờ em cắt nó đi rồi, anh tiếc nó, bởi vì những chiếc trâm ngà không còn chỗ để được cài lên, và gió biển đêm nay cũng không còn một rừng hương để quyện vào đó nữa. Trên đầu chúng ta đã trống trải quá nhiều những thần thoại và những giấc mơ êm đềm của một suối tóc buông lơi mang nỗi mềm mại vỗ về...
Mẹ anh con nhà Nho, biết chữ, nhưng khi về nhà chồng không bao giờ nghĩ đến, mẹ chỉ làm một đứa con dâu hiền thục phụng dưỡng cha mẹ nhà chồng, làm một người vợ ngoan, mẹ dấu mái tóc vào trong chiếc khăn mỏ quạ, đi chân đất, bỏ đôi tay trắng ngà xuống nước đục ruộng lúa, vơ cỏ, cấy lúa, bỏ phân... Mẹ theo nhà chồng sống chết với ruộng đất. Không hiểu sao mẹ anh đã không chọn một gia đình phong lưu nhàn nhã sống cuộc đời khuê các của mình. Mẹ bỏ quên đời mẹ như thế. Mẹ bảo: mẹ không biết sống đài các, và những gia đình ấy họ khinh người lắm. Không biết thật như thế không, hay mẹ tự an ủi đời sống của mình. Có một mùa hạn hán, vùng quê anh hạn hán luôn, ruộng thường mất mùa, mẹ và cha anh đã phải thức nhiều đêm chờ tới phiên tát nước, phải tát nước rất xa, qua nhiều đạy mới tới ruộng mình, sau những đêm đó mẹ kể trong lúc chờ đợi mẹ thấy có hai bà cụ ở bên bắt chấy cho mình từ bao giờ, nhưng bàn tay sao lạnh như đá, mẹ kêu: tay gông lạnh như tay ma ấy, hai bà cụ quay lại lè lưỡi xanh lét ra: chả ma thì gì, rồi hai bà cụ biến mất trong khi mẹ sợ không kêu được thành tiếng. Từ đó mẹ chẳng bao giờ còn dám ngồi một mình nữa. Trí nhớ của anh hình như chỉ bắt đầu có vào lúc lên bảy lên tám gì đó. Mẹ anh sinh người anh đầu không được, người con thứ hai là con gái, về sau chị ấy lấy chồng không bao giờ thấy trở lại nữa, sau đó là anh, dưới anh là người em trai, mẹ anh mất, nó đi theo sống với chú thím. Ba chị em ruột nhưng không bao giờ đoàn tụ bên nhau. Rồi mỗi người một phương như đã chết. Những ngày thơ ấu anh được hưởng quá ngắn, cho tới trước chiến tranh được vài năm khi tiếng súng bùng nổ. Đã chẳng phải là từ đó tất cả dân tộc chúng ta bắt đầu khổ sở, quay cuồng, và đời anh đã chẳng phải cái tang chứng đích thực cho nỗi đau khổ, niềm u tối nhục nhằn đó sao? Anh không muốn nói đến đó vội. Anh vẫn còn muốn anh được trở về cái quá khứ ngắn ngủi êm đềm, cái quá khứ thần thánh của đời mình, anh muốn dìu em về thuở mà làng nước những đêm trăng vang lên tiếng hát: hát ghẹo cho chéo củ gà, đàn ông hát trước đàn bà hát sau... Mẹ anh hát hay lắm, nhiều cô gái vẫn đến nhờ mẹ anh dạy, trí nhớ của mẹ anh thật thanh, mẹ nghe quan viên tế ở đình, mẹ thuộc lòng lời xướng lễ, mẹ dạy anh và cắt nghĩa cho anh nghe thế nào là độc trúc, tiến tửu, tẩy trần, tại sao khi một, khi hai chủ tế, mẹ nhớ cả những ngày hội hè đình đám, các tiết mỗi năm. Mẹ anh đã từng đi hội chùa Hương Tích với bà nội, anh nhớ những trái mơ xanh mẹ mang về ngâm muối làm thuốc ho và những chú sâu đá như hòn bi được để nơi hòn non bộ. Mẹ kể hội chùa Thầy có trò múa rối, có hang Gió, cũng như dấu tích nơi Từ Đạo Hạnh đã hóa... Anh đã được nuôi lớn lên với tiếng hát lời ru, và bao nhiêu chuyện cổ tích, cùng với những cổ tục tập quán xưa vẫn còn lưu giữ đầy hoang đường và linh thiêng.
Mẹ anh xoa đầu anh: khiếp cái đầu nó như gáo dừa, hồi có mang sao nó đạp khỏe thế, to đầu khó chui sau này là bướng phải biết, tóc như rễ tre đêm rúc mẹ không chịu được, thôi đi mà ngủ với bố cho xong - dù thế cho đến khi mẹ mất anh vẫn ngủ với mẹ, dù có em bé đi nữa. Quê anh ngoài làm ruộng còn có trồng dâu nuôi tằm và dệt vải, ngoài vụ cấy hay gặt mẹ lại đêm đêm thức với khung cửi, chiếc thoi bằng sừng nhẵn bóng qua lại thoăn thoắt. Từ bao nhiêu năm nay anh không ăn được miếng cơm nào gọi là cơm nữa. Anh nhớ bát cơm cháy của mẹ mỗi lần đạp sợi. Những hạt gạo trắng ngần nấu bằng nồi đất mới, cơm dùng đạp sợi nhưng bao giờ cũng thổi dôi ra một ít rồi đánh lên lẫn với cháy, mẹ cho vào mấy hạt muối trắng nắm từng nắm nhỏ chia cho các con. Cơm dẻo và thơm, ăn nắm cơm đó chúng ta mới hiểu vì sao những miếng cơm, cũng là cơm cả mà lại ngon với không ngon. Đã chẳng phải là vì những hạt cơm đó đã được nằm trong bàn tay một người mẹ, cũng từ đó sẽ hiểu vì sao người làm ruộng quí ngày xôi mới, ngày mà người dân quê được ăn nắm xôi đậu đen nấu bằng những hạt gạo đầu tiên của vụ gặt, thưởng thức cái hương thơm nồng nàn của gạo mới sau bao nhiêu khó nhọc...
Người con trước lại là con gái nên anh càng được nuông chiều, cũng như nhiều bà mẹ khác lo cho số mệnh của con mình, mẹ đã bán anh cho nhà chùa. Một đứa con cầu tự, một đứa con của Phật. Những phiên chợ mang tơ lụa hay vải đi bán chẳng bao giờ mẹ quên mua kẹo bột Thanh Trì, bánh hòn Thượng Hiệp về cho. Đã gần như thường lệ, đến khi lớn vẫn thế. Chú bảo như vậy là hư, con trai đòi quà mẹ mãi làm hèn cả người, dù vậy mẹ vẫn mua và dấu vào buồng cho anh như thường. Anh nhớ một lần, lần cuối cùng, để từ đấy không còn dám đòi quà mẹ nữa. Buổi sáng vừa đi học về, chú ngồi ở hiên nháy bảo: này cháu mang sách lại chú coi xem hôm nay tô thế nào nào - chú gọi lại gần và nói khẽ vào tai - lại có kẹo giấu trong miệng chum đó. Anh đưa sách rồi chạy vội vào buồng, ở chỗ thường lệ có một bọc lá chuối khô, rõ ràng như những gói kẹo bột mỗi lần, mang ra ngoài ăn sợ chú cười, hoặc chị trông thấy đòi chia như mỗi lần, anh mở gói kẹo một cách vội vàng, nhưng sao kẹo lần này lại ướt và có vẻ đen đen. Trong buồng tối nhìn không rõ, anh nghĩ chắc bánh gai nên dẻo, anh cầm cả lá chuối đưa lên miệng ngoạm, nhưng anh vội buông bỏ và phun ra, không phải kẹo hay bánh gì hết mà là phân gà sáp, nhưng đã muộn, nó dây ra chi chát cả miệng, chú đã chực sẵn chạy vào cửa buồng hỏi: cái gì đó cháu, cái gì đó cháu... Anh khóc òa lên vì biết mình bị lừa. Anh xấu hổ từ đó không dám đòi quà để khỏi mang tiếng là ăn tham, là con trai hèn...
Anh còn biết bao nhiêu chuyện để kể cho em nghe. Em cười vui chưa? Thuở nhỏ chúng ta là những đứa trẻ thộn và ngu đần một cách hạnh phúc, ngày nay chúng ta khôn ngoan lanh lẹ một cách bất hạnh, thật chả nên lớn khôn làm gì... Anh muốn dành cả đời anh để chỉ nói về những kỷ niệm đầy hạnh phúc đó, những hạnh phúc chúng ta đã đánh mất, như những hạt sương sớm long lanh trên thảm cỏ đã bị thiêu đốt bốc hơi. Mẹ anh đã chiều anh, bà ngoại còn chiều anh hơn nữa, cháu bà nội tội bà ngoại, thật chả sai. Bà đi chùa có lộc bao giờ cũng để phần cho cháu, từ một góc oản, trái chuối. Ông ngoại trong những lần đi làm đất xa về mang theo những chiếc bánh đa khoai tròn nhỏ bằng lòng bàn tay. Những buổi tối mùa đông được ông nội gọi vào đấm lưng rồi kể truyện cho nghe. Sao đời sống anh không trôi theo cái dòng sông lặng lờ xuôi chảy đó, ở giữa gia đình êm ấm, trong lũy tre xanh bao bọc, với tiếng sáo diều trên không. Nhưng chúng ta có bao giờ được sống với sự mong ước của mình...
Đời sống anh lớn lên và biết, biết nỗi khổ của rượu lậu chôn giấu nơi ruộng, của quan huyện, của lính lệ, lúc đó anh còn nhỏ lắm...