a năm nặng nề trôi qua... lòng thương nhớ hai đứa con vẫn không phai mờ trong lòng ông Chánh. Nét mặt ông lúc nào cũng ủ dột, nước mắt chảy dài trên má. Ông không ăn ngủ được, người chỉ còn da bọc xương. Nhiều lúc ông như người mất hồn, thỉnh thoảng ông lại ôm bức ảnh hai đứa con mà khóc thê thảm. Đã ba năm rồi, ông chờ đợi ngày về của Gương Lành, song vẫn biệt tăm vô tín. Nghĩ đến hai đứa con yêu quí nhất đời, đang phải sống cuộc đời cay cực ở nơi phương trời xa thẳm, ông đau đớn như điên dại. Phải chi ông biết hai con không còn nữa, ông chẳng còn muốn sống làm gì. Ông bà Thành Hưng hết sức an ủi khuyên lơn ông và tìm mọi cách cho ông khuây khỏa, nhưng vẫn vô hiệu. Nhất là cậu Liêm, từ ngày hai em mất tích, cậu cũng bỏ học, suốt ngày săn sóc ông Chánh, chẳng khác gì như con đối với cha già vậy. Tuy thế, lòng ông Chánh vẫn không sao nguôi được lòng thương nhớ hai con...Ba năm rồi, hình ảnh hai đứa con yêu quí luôn luôn như hiện hình trước mắt ông. Trí tưởng tượng ông theo bức thơ em Lành gởi về, diễn lại trong trí ông những cảnh phũ phàng em Lành bị đánh đập, em Gương bị đày đọa cực khổ. Bưng bát cơm lên miệng, nhớ đến con, ông lại vội đặt xuống thành mâm, ôm mặt khóc. Ai nghe thấy tình cảnh ông cũng ứa nước mắt. Mỗi ngày ông Chánh một yếu dần, ông thoi thóp trên giường, không chịu ăn uống gì nữa. Cậu Liêm phải tìm thầy cắt thuốc bổ, ép ông uống, mong giữ được mạng sống ông. Giữa lúc trong nhà bối rối, không còn tìm được phương thế gì để an ủi ông Chánh cho khuây khỏa nỗi buồn thảm, thì một bức điện tín của ông Thành Lợi từ Thượng Hải gởi về:Ông Thành Hưng, đường Bona - SaigonĐã gặp được hai em Gương Lành. Sẽ có thư sau,Thành LợiĐọc xong bức điện tín, cả nhà vui mừng khôn xiết. Ông Chánh đang liệt nặng, nghe tin đã tìm thấy hai đứa con thân yêu, ông nhảy xuống giường đi lại như người khỏe mạnh. Ông đòi ăn uống và cười nói huyên thuyên. Đã ba năm rồi, nhà ông Thành Hưng vắng tiếng nói cười, nay lại vang lên rộn rã. Hàng phố nghe tin cũng chạy đến chia vui và hỏi thăm, nhưng tin tức vỏn vẹn chỉ có thế. Ai nấy nóng lòng đợi lá thơ của ông Thành Lợi để biết thêm chi tiết. Một tuần sau lá thơ quý hóa này mới đến nơi.Thượng Hải, ngày 15 tháng 4 năm 1942Kính thăm bác Chánh, Ông bà và cậu Hai.Thật là một việc tình cờ mà cũng may mắn hết sức. Số là tôi và hai người bạn đi Hồng Kông mua hàng xong, đang chờ chuyến tàu để về, thì chúng tôi gặp ông Giám đốc xưởng dệt tơ lụa ở Thượng Hải; ông ta mời chúng tôi đi Thượng Hải thăm xưởng dệt của ông. Vì đến cuối tháng mới có tàu về Việt Nam, nên chúng tôi nhận lời mời. Thời cuộc nước Tàu lúc nầy còn đang lộn xộn, nhưng ở Thượng Hải vẫn yên tĩnh. Thủ tục giấy tờ xin vào Thượng Hải không đến nỗi khó khăn. Chúng tôi đến Thượng Hải được hai ngày. Công việc xong xuôi, chúng tôi đi xem phố phường để hôm sau trở về Hồng Kông. Chúng tôi vừa đi vừa nói chuyện với nhau, thì một cậu bé phía sau chạy vượt lên nhìn chằm chặp vào mặt tôi một lúc, rồi hỏi tôi bằng tiếng Việt Nam:- Thưa bác, có phải bác là ông Thành Lợi ở Sàigòn không?Tôi ngạc nhiên như trên trời rơi xuống đất! Làm sao mà một cậu bé người Tàu lại nói sõi tiếng Việt Nam như thế, mà lại biết tên tôi nữa chứ? Tôi chưa kịp trả lời, thì cậu lại tiếp:- Bác không nhận ra cháu à? Cháu là Lành con ông Chánh ở nhà ông bà Thành Hưng. Chị em cháu bị bắt cóc sang đây đã ba năm nay. Chúng cháu vừa mới trốn được về đây!Tôi nhìn kỹ, thì trời ơi! Cháu Lành thật! Tôi sung sướng ôm lấy cháu reo to lên, nhưng cháu vội ra dấu cho tôi làm thinh và dẫn tôi đi. Tôi đi theo cháu vào một cái miếu bỏ hoang, thì ra cháu Gương đang ẩn trong đó. Hai chị em gặp chúng tôi vui mừng quá sức. Cháu Lành kể vắn tắt cho chúng tôi nghe là hai chị em nhân được phép đi xem hát bội rồi trốn luôn. Đến đây đang bơ vơ, may gặp chúng tôi. Chúng tôi đem hai chị em về nhà trọ cho ăn uống, tắm rửa, nghỉ ngơi một lúc rồi nhờ người đi trình ông Đốc lý thành phố. Ở đây họ đã ghi tỉ mỉ những lời khai của hai chị em. Họ hứa sẽ tìm ra manh mối bọn bất lương này và sẽ gởi tài liệu về cho nhà cầm quyền mình biết, để thộp cổ trọn ổ tụi lưu manh đang tác hại ở Sàigòn. Họ cũng cấp giấy cho hai em được trở về Việt Nam. Tôi vội vàng đi gởi điện tín cho bác, ông bà và cậu Hai hay, rồi trở lại nhà trọ viết lá thơ này để bên nhà rõ chuyện hơn một tí. Còn nhiều điều, để khi hai cháu về sẽ kể lại sau. Tôi cũng quên chưa nói là hai cháu bây giờ lớn hơn trước nhiều. Cháu Gương hơi gầy và xanh, còn cháu Lành khỏe mạnh hơn. Hai cháu đi trốn tránh mất ba ngày, vừa đói vừa mệt nên có vẻ đuối sức. Chúng tôi sẽ ở lại đây thêm vài ba hôm nữa, để các cháu nghỉ cho lại sức và mua sắm cho hai cháu vài thứ cần dùng. Cuối tháng nầy, chúng tôi sẽ trở về Sàigòn. Bác, ông bà và cậu Hai yên tâm, tôi sẽ lo liệu mọi sự cho hai cháu về đến nơi bằng an. Có viết thơ cho tôi xin đề địa chỉ ở Hồng Kông. Tôi đang viết thơ này thì cháu Lành xin viết thêm mấy chữ.Vắn tắt mấy hàng làm tin. Xin thành thực chia vui với bác, ông bà và cậu Hai. Hẹn ngày tái ngộ vui vẻ!Kính thưThành LợiHai con xin viết thêm vài hàng kính thăm Ba, ông bà và anh Hai. Trong lòng hai con vui mừng hết sức, không biết nói gì hơn nữa. Hai con chỉ trông ngày trông đêm cho đến khi gặp Ba, ông bà và anh Hai.Hai con là Gương Lành ký.Đọc xong bức thơ, ai nấy đều vui mừng thỏa mãn. Ba năm trông đợi, lo buồn, tin vui nầy đến, chẳng khác gì đất khô hạn được trận mưa rào. Từ khi được tin đã tìm thấy hai em nhỏ, nhà ông Thành Hưng lúc nào cũng có người đến chia vui. Ông Chánh tuy chưa được khỏe như hồi trước, nhưng nỗi vui mừng tràn ngập trong lòng, khiến nét mặt ông rạng rỡ, hồng hào hẳn lên...