Dịch giả: DOÃN ĐIỀN
Chương II
GĂMBAĐU

Những "Bạn đồng hành" đến Mô-bơ-rắc đã gần một tuần. Mặc dù không có nước mà nô đùa bơi lội nhưng họ không cảm thấy buồn chán. Họ nghĩ rằng sự không cạn hết của một cái hồ cũng có thể có cái hấp dẫn của nó. Mới đến họ đã vui đùa, theo dõi mức nước xuống, cứ mỗi ngày nó cạn đi một mét. Nước rút, trơ ra những thân cây, những bờ đá của hàng rào cũ và những con đường quanh có dẫn vào làng Mô-bơ-rắc cũ.
Mặt khác, những bữa cơm ăn ở quán hàng là những buổi chuyện trò tiêu khiển. Bít-xtếck nhận thấy sau một chuyến dài leo núi, cậu chẳng còn phải lo toan đến bếp núc nữa.
Quán ăn lúc nào cũng vắng khách; hoạ hoằn mới có dăm ba người đi du lịch dừng lại ăn một bữa cơm hoặc nghỉ lại một đêm; không có ai lưu lại lâu. Những người “Bạn đồng hành” nói với nhau: "Chúng mình làm gì bên bờ hồ cạn nước này?"
Rồi họ lại ra đi, xa hơn.
Chỉ có hai nhà địa chất là yên phận. Đã nhiều lần Ma-đi muốn bắt chuyện với họ. Cô đã phí nhiều công sức nhưng xem ra hai người đàn ông đó không phải là những người bẻm mép hay chuyện trò.
Những ngày thời tiết âm u, sáu bạn trẻ ngồi lại ở nhà trọ nói chuyện vãn với nhau, chơi tu-lơ-khơ, xì tẩy hay đánh cờ.
Như thường lệ Ti-đu khi nào cũng thức dậy trước tiên, hầu như cùng lúc với ông mặt trời. Một hôm, vừa lăn ra khỏi giường dã chiến, cậu liếc mắt qua cửa sổ thấy chính giữa hồ trồi lên một mảng tường mà hôm qua vẫn chưa thấy. Cậu tự nhủ: đó là tàn tích sót lại của nhà thờ đạo.
Cậu muốn đánh thức tất cả dậy nhưng mọi người còn ngủ say nên không nỡ. Cậu đã cùng với con Ka-phi ra khỏi nhà rồi bước xuống sát mép nước. Bỗng nhiên cậu trông thấy một bóng người đang cà nhắc cà nhắc đi trên đất mới nổi lên ở lòng hồ. Với dáng đi tập tễnh đó, cậu nhận ngay ra Gămbađu.
"Anh ta đi đâu thế nhỉ? - Ti-đu tự hỏi - Tắm ư? Không có lẽ, vì trời còn lạnh".
Người đàn ông đó đi khập khểnh đến sát mép nước, rồi anh ta dừng lại một lát, nhìn chằm chằm vào những tàn tích đổ nát vừa trồi lên. Phải chăng anh ta muốn nhìn cho thật gần chăng. Anh lội xuống nước. Nước đã nhanh chóng lút đến bắp chân, rồi đầu gối, rồi đến thắt lưng. Anh có nhào xuống để bơi không?  Không! Anh vẫn bước lên, dò dẫm. Nước đã đến ngực, chỉ trừ có nửa phần trên người là chưa ngập. Anh lảo đảo.
Bất thình lình, anh hẫng chân, chới với như người không biết bơi, giãy giụa như vịt bị cắt tiết.
"Sao ngu thế!" Ti-đu chỉ kịp thốt lên - "Người đó khéo chết đuối mất! Phải cứu ngay mới được!"
Ti-đu cấp tốc cởi bỏ quần áo, chỉ bận mỗi chiếc si líp, vội lao xuống mép nước. Không may, mới được vài bước đã sa lầy. Nếu chờ để rút được chân ra khỏi bùn thì người kia đã chết đuối. Anh gọi con chó:
- Ka-phi, lao ra! Ngoạm vào người ấy, đừng để chìm!
Con Ka-phi không để phải nói tới lần thứ hai. Nó nhảy xuống bơi nhanh đến chỗ người đang vùng vẫy, chơi vơi mỗi lúc mỗi đuối sức. Chỉ một khắc sau, con chó đã bơi sát đến người bị nạn. Lúc này nó còn do dự. Chắc nó nhớ nhiều lần anh chàng cà nhắc đã dơ gậy lên trước những người chủ của nó.
- Ngoạm lấy anh ta! Đừng để anh ta đau! Tao sẽ đến ngay!
Ti-đu lại ra lệnh cho con chó của mình. Cậu lao xuống nước và chỉ vải sải bơi, đã đến được sát Gămbađu và con chó.
- Giúp tao cùng kéo anh ấy vào bờ, Ka-phi!
Gămbađu đã hết giãy giụa, đầu đã nhô lên được trên mặt nước và cứ để vậy cho Ti-đu và con chó dìu vào bờ. Trong khoảnh khắc, Gămbađu bất động, nằm im lìm; mê man. Nhưng khi Ti-đu lật anh nằm úp sấp, làm vài động tác trên lưng để anh nôn nước trong bụng ra thì anh mới ngồi lên được.
- Sao... sao tôi đến nỗi này?
- Anh hụt chân khi lội xuống nước. Anh không biết bơi à?
Anh ta lắc đầu. Ti-đu lại hỏi:
- Anh định đi đâu?
- Tôi... tôi không ngờ... không ngờ là nước sâu đến thế. Tôi muốn ra chỗ bức tường để về nhà.
- Anh run rẩy bẩy thế kia! Anh đừng mặc ướt như thế, cần phải về nhà thay quần áo ngay.
Gămbađu nhìn thẳng và Ti-đu bằng cặp mắt tím bầm; da mặt anh xanh xao màu đồng thau, tóc tai bù xù và râu ria xồm xoàm màu nâu sẫm.
Ti-đu nói tiếp:
- Anh cố đứng lên. Tôi mặc quần áo xong, tôi dẫn anh về.
Những người "Bạn đồng hành" đã biết cái lán của Gămbađu mà trong làng người ta gọi đó là "Lều vịt". Bọn trẻ học sinh này thường đi qua trước cái “lều vịt” thấy Gămbađu đứng đó với vẻ mặt dữ tợn, cái gậy lúc nào cũng cầm ở tay, vung lên chửi rủa:
- Bọn lạ mặt kia! Cút ngay đi!
Sau lần được cứu hộ này, thái độ của anh đã khác. Chúng thấy vẻ mặt anh đau khổ hơn là dữ tợn. Anh không còn lời lẽ và dáng vẻ của một con người hâm hấp, mất trí.
Khi Ti-đu mặc xong quần áo, dẫn anh về. Anh nói:
- Đúng thế thật. Đáng lẽ ra tôi phải nghĩ là mực nước còn cao.
 Anh để cho Ti-đu đi với anh rất tự nhiên, nhưng khi về đến cái "lều vịt" của anh thì anh nói:
- Chưa bao giờ có ai đến cái lán của tôi cả... Tôi không cho vào… Còn anh, anh lại là chuyện khác, anh đã cứu tôi, anh vào đi!
Anh ẩy cửa. Cái lán của anh gồm hai phòng, cứ cho là hai phòng đi, hai cái hộp bằng ván ghép, một bề hai mét, một bề ba mét ở một phía, còn phía kia là bếp nấu với một chiếc bàn mà trên mặt để bề bộn những bát đĩa lổn nhổn, một chiếc tủ bằng gỗ mộc và một cái chảo cũ ba chân như người ta thường thấy ngày xưa ở nông thôn. Gămbađu nói:
- Anh ngồi xuống đi! Tôi thay quần áo một lát rồi tôi trở lại.
Nhân khi Gămbađu đi ra, Ti-đu đảo mắt  một lượt qua mớ đồ đạc linh tinh, lỉnh kỉnh không có trật tự đó, thế nhưng cậu cũng nhận ra là gian phòng không đến nỗi quá bẩn thỉu, chắc đôi khi anh ta cũng có đưa qua vài lát chổi để quét tước.
Khi anh trở lại, râu tóc vẫn bù xù, bàm xoàm, nhưng quần áo đã thay khô ráo. Với một thái độ lo lắng, anh cất tiếng hỏi:
- Anh làm gì ở bờ hồ mà sớm thế?
- Tôi có thói quen dậy sớm, rồi dắt chó đi dạo. Anh đã nhiều lần dơ gậy lên dọa nó nhưng cái đó không ngăn cấm được nó bơi ra cứu anh đấy. May mà nó bơi ra kịp.
Người đàn ông có tật đi cà nhắc đó nhìn con chó, đánh bạo xoa nó. Ka-phi ngọ nguậy cái đuôi. Gămbađu mỉm cười, một nụ cười ngập ngừng, bẻn lẻn làm sáng lên khuôn mặt xấu xí của anh. Rồi vầng trán của anh tự nhiên xẩm lại, trở nên rầu rĩ. Anh hỏi:
- Các anh làm gì ở Mô-bơ-rắc, anh và các bạn anh? Ở đó làm gì mà bơi lội dược?
- Chúng tôi đi dạo núi với nhau, không được hay sao?
- Chỉ có thế thôi à?... Có lẽ các anh chờ cho cái vũng hoàn toàn khô nước chứ gì?
- Nói thật với anh là có như thế, chúng tôi mới có dịp thấy được những tàn tích của làng xóm cũ chôn sâu dưới nước.
- Các anh tìm cái gì ở đó?
- Chẳng tìm gì cả, thành thực mà nói chỉ xem thôi.
- Anh có biết hai người đàn ông nghỉ trọ ở quán ăn không?
- Chúng tôi gặp họ những khi chúng tôi dùng bữa ở đó.
- Các anh nên dè chừng. Đó là những tên găng-xtơ (tên cướp) đấy. Chúng chờ cho nước hồ thật cạn chứ có phải như các anh chỉ để xem tàn tích đổ nát thôi đâu.
- Tại sao? Tôi nghĩ họ là những nhà địa chất. Chắc họ đến để nghiên cứu lớp trầm tích và bùn lắng đọng khi cạn nước?
- Không! Tôi nói cho anh rõ: chúng là những tên găng-xtơ. Chúng đã ở đây từ năm ngoái khi người ta bắt đầu mở cửa van đập nước cơ đấy.
Gămbađu giơ hai bàn tay xiết lại như ra hiệu bóp cổ người nào đó.
Ti-đu nhấn mạnh:
- Dưới đáy hồ, ngoài bùn lầy ra thì có gì mà tìm?
Gămbađu nhíu đôi mày rậm rì lại. Nét mặt của anh biểu lộ sự giận dữ:
- Tìm cái gì à?... Cái đó không liên quan gì đến anh. Cái đó tôi đã nói quá rõ rồi còn gì... Thôi, anh đi đi...
Anh dơ cái gậy lên. Ka-phi nhe răng và gầm gừ rất dữ.
- Thôi được. Ti-đu- nói. Nếu như anh còn giữ một điều gì đó bí mật thì tôi cũng chẳng yêu cầu anh nói ra làm gì.
Thế rồi Ti-đu ra khỏi lán cùng với con chó Ka-phi của mình.
Khi cơn giận đã nguôi nguôi, Gămbađu lại gọi Ti-đu trở lại, nhưng Ti-đu đã đi xa.