Dịch giả: Tạ Nguyễn Tấn Trương
Chương 2
Những con người khác nhau tạo lên nhóm khác nhau

  “Không thể dạy cho một con chó già những trò chơi mới được”, người bố có học thức cao của tôi hay nói câu ấy.
Tôi đã từng ngồi trò chuyện với Người nhiều lần, cố gắng giải thích cho Người hiểu Kim tứ đồ mà tôi hy vọng có thể nhờ đó giúp cho Người lóe lên những hướng đi mới trong vấn đề tiền bạc. Khi gần đến tuổi 60, Người mới nhận ra nhiều giấc mơ nhiều giấc mơ của mình sẽ không bao giờ thực hiện được.
Ta đã thử nhưng nó không thành công con ạ,” Người nói thế.
Bố tôi muốn ám chỉ đến những nỗ lực của mình cố thành công trong nhóm T như một chuyên viên tư vấn làm tư, và trong nhóm C khi người đã đem hết toàn bộ số tiền dành dụm được để làm vốn kinh doanh một thương quyền hãng kem nổi tiếng, nhưng rồi đã bị thất bại hoàn toàn.
Vốn thông minh người hiểu được về mặt lý thuyết là cần phải có những kỹ nưng khác nhau cho mỗi nhóm khác nhau. Người biết có thể học chúng rất mau nếu như người muốn. Thế nhưng vẫn có điều gì đó kiềm hãm Người lại.
Một bữa nọ sau khi ăn trưa xong, tôi trò chuyện với người bố giàu về bố ruột của tôi.
“Bố con và ta không giống nhau từ gốc rễ con ạ”, người bố giàu nói. “Trong khi chúng ta cùng là con người có cảm giác sợ hãi, lo âu, niềm tin, ưu điểm và khuyết điểm, cách chúng ta phản ứng và xử lý những điều đó lại khác nhau vô cùng.”
“Bố có thể cho con biết sự khác nhau không?” tôi hỏi.
“Không thể nói hết trong một bữa ăn trưa đâu”,người bố giàu nói. “Nhưng cách chúng ta phản ứng trước những sự khác nhau đó chính là nguyên nhân khiến chúng ta cứ bám lại với nhóm này hay nhóm khác. Khi bố con cố gắng đi từ nhóm L sang nhóm C, ông có thể hiểu được quá trình ấy về mặt lý trí, nhưng lại không thể thực hiện được về mặt cảm tính. Khi sự việc bắt đầu trục trặc và ông bị lỗ, ông không biết cách làm thế nào giải quyết vấn đề và thế là bố con lại quay về với nhóm người mà ông cảm thấy thoải mái nhất.”
“Trở lại nhóm L và thỉnh thoảng nhóm T”, tôi nói.
Người bố giàu gật đầu. “Khi nỗi sợ bị mất tiền và thất bại trở nên quá mức đến cào xé trong lòng, nỗi sợ mà cả ta và bố con đều có, bốn cón liền chọn giải pháp bảo đảm trong khi ta chọn giải pháp tự do”.
“Và đó chính là sự khác nhau căn bản”, tôi vừa nói vừa vẫy tay cho bồi bàn tình tiền.
“Mặc dù chúng ta đều là con người”, người bố giàu lặp lại, “Khi đụng đến tiền bạc và những cảm xúc dính đến tiền bạc, tất cả chúng ta đều phản ứng khác nhau. Và chính cách chúng ta phản ứng trước những cảm xúc ấy thường quyết định cách chúng ta chọn lựa cách kiếm tiền.”
“ Những con người khác nhau thuộc những nhóm khác nhau”, tôi nói.
“Đúng vậy”, người bố tiếp tục nói khi chúng tôi đứng dậy và bước ra cửa. “Nếu con muốn thành công trong bất kỳ nhóm nào, con cần phải biết nhiều thứ khác chứ không chỉ là những kỹ năng cần có. Con cũng cần phải biết những sự khác nhau gốc rễ đã khiến cho mọi người đóng chốt ở những nhóm khác nhau. Nắm được điều đó, cuộc đời sẽ trở nên dễ dàng hơn với con rất nhiều.”
Tôi bắt tay người bố giàu và nói lời từ biệt khi người tùy tùnglái chiếc xe của người lại gần.
“Ồ bố à, còn một điều cuối cùng”, tôi nói vội vã. “Bố con có thay đổi được không?”
“Dĩ nhiên là được”, người bố giàu nói. “Ai cũng có thể thay đổi được. Nhưng thay đổi nhóm người mình theo không giống như chuyện đổi việc hay đổi nghề đâu. Thay đổi nhóm người thường là một sự thay đổi cách mạng về con người của con, cách suy nghĩ và cách nhìn về xã hội, thế giới. Sự thay đổi đó có thể dễ dàng với số người này hơn với số người khác chỉ vì có nhiều người thích sự thay đổi, trong khi cũng có khối người khác rất bảo thủ. Đôie nhóm thường là một kinh nghiệm đổi đời. Sự thay đổi ấy thật mãnh liệt và triệt để y như sự thay đổi thoát lốt của con nhộng thành con bướm. Không những bản thân con thay đổi mà bạn bè con cũng sẽ thay đổi. Trong khi con vẫn giao hảo tốt với những người bạn cũ, nhưng sự thay đổi của con sẽ ảnh hưởng đến sự giao hảo đó, giống như những con bướm thật khó lòng sinh hoạt giống như những con nhộng. Do đó, sự thay đổi ấy là một cuộc cách mạng thực sự, và không có nhiều người dám đương đầu và chấp nhận sự thay đổi ấy đâu”.
ĐÂU LÀ SỰ KHÁC NHAU?
Làm sao tôi có thể nhận ra người nào thuộc nhóm L, T, C, Đ mà không biết nhiều về họ? Một trong nhiều cách là lắng nghe những gì họ nói.
Người bố giàu thường nói, “Nếu ta lắng nghe một người nào đó nói, ta đang bắt đầu dò hiểu và cảm nhận linh hồn của người ấy”.
CÂU NÓI CỦA NGƯỜI NHÓM L
Người thuộc nhóm L, tức là người làm công, thường hay nói, “Tôi đang tìm một công việc ổn định, bảo đảm có mức lương cao và nhiều phúc lợi”.
CÂU NÓI CỦA NGƯỜI NHÓM T
Người nhóm T, gồm những người làm tư hay nói:
“Mức giá của tôi là 35 đô một giờ”
“Mức hao hồng bình thường của tôi là 6% giá bán”
“Dường như tôi chẳng bao giờ kiếm được một người siêng năng và làm giỏi”
“Tôi đã làm hơn 20 tiếng cho dự án này”
CÂU NÓI CỦA NGƯỜI NHÓM C
Người nhóm C tức là chủ công ty thường nói, “Tôi đang tìm một giám đốc điều hành mới cho công ty mình.”
CÂU NÓI CỦA NGƯỜI NHÓM Đ
Người nhóm Đ, gồm những nhà đầu tư, hay nói, “Mức lời của tôi tính trên tỷ lệ lợi nhuận ròng hay gộp”
CÔNG CỤ LỜI NÓI
Một khi người bố giàu biết được người được phỏng vấn về mặt bản chất thuộc nhóm nào, tối thiểu lúc ấy Người cũng biết được người ấy muốn gì, có thể ra điều kiện gì với anh ta, và nói với anh ta bằng cách nào. Người luôn nói, “Ngôn ngữ là một công cụ đáng sợ”
Người thường xuyên nhắc nhở chúng tôi điều này. “Nếu con muốn trở thành một người lãnh đạo, con cần phải là một bậc thầy về ngôn ngữ”
Như vậy, một trong những kỹ năng cần thiết để trở thành một người nhóm C thành đạt phải là một người biết làm chủ lời nói, sử dụng lời nói đúng chỗ tùy theo từng đối tượng khác nhau. Người đã dạy chúng tôi trước hết tập lắng nghe cẩn thận những gì một người nói, và tiếp sau đó là biết cách những lời nói nào nên dùng, trong ngữ cảnh nào dùng chúng để tạo hiệu quả ấn tượng nhất đối với người nghe.
Người bố giàu giải thích, “Một lời nói có thể làm hứng khởi ý chí của một người, nhưng cũng có thể làm người khác sợ hãi né tránh”.
Chẳng hạn như từ “rủi ro” có thể làm một nhà đầu tư rất phấn khởi trong khi có thể khiến cho một người làm công lãnh lương hoảng hốt và sợ đến co vòi.
Để trở thành những nhà lãnh đạo tài ba, người bố giàu đã nhấn mạnh trước hết chúng tôi phải là những người biết lắng nghe, bởi vì nếu không bạn sẽ chẳng thể nào cảm nhận được cảm xúc va linh hồn của người đối thoại. Và nếu bạn không cảm nhận và thấu hiểu được con người của họ, bạn sẽ không bao giờ biết được mình đang nói chuyện với hạng người nào.
NHỮNG SỰ KHÁC NHAU GỐC RỄ
Nguyên nhân khiến cho người bố giàu nói, “Hãy lắng nghe lời họ nói và cảm nhận linh hồn họ”, là bởi vì tiềm ẩn phía bên bên dưới những lời nói ấy chính là những bản chất khác nhau từ gốc rễ của mỗi cá nhân.
THỜI GIAN VÀ TIỀN BẠC CẢU NGƯỜI KHÁC
Phần lớn chúng ta đều nghe về những bí mật làm giàu trở thành tỷ phú như thế này:
1.Thời gian của người khác.
2.Tiền bạc của người khác
Hai điều này có thể thấy ngay ở phía bên phải của tứ đồ, trong khi đó những người làm việc ở phía bên trái tứ đồ lại là những người mà thời gian và tiền bạc của họ bị nhóm kia sử dụng.
Nguyên nhân chủ yếu đã khiến hia vợ chồng tôi bỏ thời gian để ra sức xây dựng một hệ thống kinh doanh kiểu nhóm C hơn là kiểu nhóm T,là bởi vì chúng tôi đã đã nhận ra ích lợi về lâu dài trong việc sử dụng “thời gian của người khác”. Một trong những yếu điểm của một người thuộc nhóm T là sự thành công của ngưới ấy phải đổi lấy bằng cái giá làm việc cực nhọc. Nói cách khác, càng thành công chừng nào người ấy lại càng phải làm việc nhiều giờ hưon, cần mẫn hơn.
Khi thiết kế mô hình kinh doanh kiểu nhóm C, sự thành công chứng tỏ sự mở rộng và khuếch trương của hệ thống, dẫn đến việc sẽ thuê mướn nhiều nhân công. Nói cách khác, bạn sẽ làm việc ít hơn mà vẫn kiếm được nhiều hơnvà có nhiều thời gian rảnh rỗi hơn.
Phần còn lại của quyển sách này sẽ đi sâu vào những kỹ năng cũng như cách suy nghĩ cần có của một người thuộc phía bên phải tứ đò. Kinh nghiệm bản thân của tôi cho thấy để có thể thành công trong nhóm bên phải, cần phải có một lối suy nghĩ và những thủ thuật kinh doanh khác nhau. Nếu bạn có đủ khả năng sẵn sàng thay đổi cách suy nghĩ của mình, tôi tin chắc bạn sẽ thấy con đường đi đến sự tự do và bảo đmả về tiền bạc khá dễ dàng. Dĩ nhiên sẽ có bạn thấy con đường đó chông gai và khó đi vô cùng, nhưng sở dĩ như vậy là vì bạn đã quá kẹt dính vào một nhóm, quá bảo thủ với lối suy nghĩ lâu nay của mình.
Ở một mức tối thiểu nào đó, bạn sẽ thấy được tại sao có một vài người làm việc ít, nhưng lại kiếm nhiều tiền, trả thuế ít và được bảo đảm về tài chinh hơn những người khác. Đó chỉ là vấn đề hiểu biết nhóm nào cần phải nhắm tới và khi nào thực hiện cuộc hành chính đó cho chính bản thân mình.
KIM CHỈ NAM CỦA SỰ TỰ DO
Kim tứ đồ không phải là một nhóm quy tắc hay bí quyết gì cả. Nó chỉ là kim chỉ nam hướng dẫn cho những ai muốn sử dụng nó. Tứ đồ đã dẫn dắt vợ chồng tôi suốt cuộc hành trình từ lúc vật lộn với tiền bạc mỗi ngày cho đến khi đạt đến sự bảo đảm về tài chính và cuối cùng là sự tự do hoàn toàn. Chúng tôi không muốn mỗi ngày phải thức dậy và làm việc vì tiền suốt cả đời mình.
SỰ KHÁC NHAU GIỮA NGƯỜI GIÀU VÀ NHỮNG NGƯỜI KHÁC
Cách đây vài năm, tôi đọc được một bài báo tiết lộ đối với hầu hết những người giàu, hết 70% thu nhập của họ kiếm được từ các khoản đầu tư (nhóm Đ) và phần còn lại không quá 30% thu nhập phát sinh từ lương (nhóm L). Nếu những người ấy có là những người làm cong đi chăng nữa, họ cũng là nhân viên trong chính tập đoàn của họ.
Trong khi đó đối với đa số người nghèo và tần lớp trung lưu, tối thiểu hết 80 % thu nhập của họ có từ lương, thuộc nhóm L và T, và ít hơn 20% thu nhập phát sinh từ các khoản đầu tư, thuộc nhóm Đ.
SỰ KHÁC NHAU GIỮA VIỆC CÓ TIỀN VÀ SỰ GIÀU CÓ
Trong chương 1, tôi đã viết rằng hai vợ chồng tôi thành triệu phú vào năm 1989, nhưng mãi đến năm 1994 chúng tôi mới đạt đến tự do hoàn toàn về tiền bạc. Có sự khác nhau giữa việc có tiền và sự giàu có. Vào khoảng năm 1989, chuyện làm ăn của chúng tôi đã đem lại cho chúng tôi rất nhiều tiền. Chúng tôi càng lúc cang kiếm được nhiều hơn mà không cần phải làm nhiều giờ hơn, bởi vì hệ thống kinh doanh cứ liên tục phát triển mà không cần chúng tôi phải bỏ sức ra nhiều. Chúng tôi đã đạt đựơc điều mà hầu hết mọi người coi đó là sự thành công về tiền bạc.
Chúng tôi vẫn cần phải bỏ nhiều tiền thu được từ chuyện kinh doanh của mình vào đầu tư các tài sản hữư hình. Công việc kinh doanh của chúgn tôi thanh công rực rỡ, nhưng chính lúc đó, chúng tôi cần phải tập trung phát triển các tài sản của mình đến mức mà nguồn thu nhập magn lại từ những tài sản đầu tư ấy vượt xa chi phí sinh hoạt hằng ngày của chúng tôi.
Trong thực tế, chuyện kinh doanh của chúng tôi cũng được coi như một tài sản bởi vì nó mang lại thu nhập mà không cần đến nhiều công sức chúng tôi bỏ vào. Trên quan điểm cá nhân của chúng tôi về sự giàu có, chúng tôi luôn đảm bảo mình phải có những tài sản đầu tư như địa ốc hay chứng khoán mang lại thu nhập nhiều hơn chi phí sinh hoạt của mình, và như thế chúng tôi mới có thể tự cho mình là giàu có. Một khi nguồn thu nhập từ cột tài sản trở nên lớn hơn nguồn thu nhập kiếm được từ cột tài sản trở nên lớn hơn nguồn thu nhập kiếm được từ chuyện kinh doanh, chúng tôi liền sang nhượng việc làm ăn đó cho đối tác. Từ lúc ấy, chúng tôi mới thực sự giàu có.
ĐỊNH NGHĨA SỰ GIÀU CÓ
Sự giàu có được định nghĩa như là: “Số ngày bạn có thể sinh hoạt mà không cần đòi hỏi sự làm việc của bạn (hay của người nhà bạn) trong khi bạn vẫn có thể duy trì mức sống như bình thường”.
  Chẳng hạn, nếu chi phí sinh hoạt hàng tháng của bạn là 1000 đô, và nếu bạn có một khoản tiết kiệm 3000 đô, sự giàu có của bạn xấp xỉ cỡ 3 tháng hay 90 ngày sinh hoạt. Sự giàu có được đo bằng thời gian chứ không phải bằng tiền bạc.
Vào khoảng năm 1994, sự giàu có của vợ chồng tôi là vô hạn (trừ phi có những biến động kinh tế khủng hoảng nặng nề) bởi vì thu nhập chúng tôi đã vượt quá xa mức phí sinh hoạt của chúng tôi.
Sau cùng, không phải bao nhiêu tiền bạn làm ra mới quan trọng. mà chủ yếu bao nhiêu tiền bạn giữ được và số tiền đó sẽ sinh lời thêm cho bạn trong bao lâu. Hàng ngày, tôi đều gặp rất nhiều người kiếm được khối tiền, nhưng gần như họ kiếm được đều chảy qua cột chi phí.
Mỗi lần họ kiếm được thêm một ít tiền, họ đi mua sắm. Họ thường mua ngôi nhà lớn hơn hoặc mua sắm. Họ thường mua ngôi nhà lớn hơn hoặc mua xe mới, mà những người đó chỉ làm cho họ mắc nợ lâu và làm việc cực hơn, để rồi họ chẳng còn nhiều tiền đầu tư vào cột tài sản của mình. Họ sài tiền đến chóng mặt, chằng khác nào mắc tật nhuận tràng tài chánh.
XÀI TIỀN HẾT GA
Khi đề cập đến xe hơi, chúng ra hay nghe đến chuyện “chạy hết ga”. Dĩ nhiên ở tốc độ “chạy hết ga” đó vẫn phải đảm bảo xe không bị xì khói hay cháy máy.
Điều đó cũng tương tự với cách xài tiền hết ga.
Nhiều người bạn của tôi là bác sĩ cho biết, vấn đề xã hội ngày nay là càng có nhiều người bị áp lực căng thẳng do làm việc nhiều mà không bao giờ có đủ tiền. Một người bạn bảo nguyên nhân lớn nhất thường gây ra rối loạn về sức khoẻ là triệu chứng “ung thư túi tiền”.
TIỀN LÀM RA TIỀN
Bất kể bao nhiêu thu nhập kiếm được, bạn cũng nên dành một tí bỏ vào nhóm Đ. Nhóm Đ đặc biệt luôn làm theo phương châm tiền kiếm ra tiền, hoặc quan điểm bắt đồng tiền làm cho mình sao cho bạn không phải làm việc cực hơn nữa. Thế nhưng điều quan trọng ở chỗ là rất có nhiều cách đầu tư khác nhau.
CÁC HÌNH THỨC ĐẦU TƯ KHÁC NHAU
Mọi người thường đầu tư vào chuyện học của mình. Hệ thống giáo dục truyền thống rất quan trọng bởi vì bạn càng có học thức, càng dễ kiếm tiền. Bạn có thể mất 4 năm đại học, nhưng bù lại lương bạn có thể tăng từ 24.000 đo lên đến 50.000 đô mỗi năm. Nếu một người trung bình có thể làm việc tích cực trong suốt 40 năm, việc bỏ 4 năm đại học hay sau đại học làm một cách đầu tư tuyệt vời. Làm việc cần cù và trung thành là một cách đầu tư khác, chẳng hạn như trường hợp một nhân viên làm việc lâu năm trong một công ty hay một chính phủ. Thế nhưng bù lại người đó sẽ nhận được một khoản tiền về hưu kếch sù theo hợp đồng. Hình thức đầu tư ấy rất phổ biến trong thời đại công nghiệp, nhưng hoàn tàon lỗi thời trong thời đại Thông tin.
Nhiều người khác đầu tư bằng cách sinh con nhiều và có một đại gia đình, và bù lại có thể nhờ cậy con mình lúc về già. Cách đầu tư ấy một thời thông dụng, thế nhưng do điều kiện kinh tế mỗi lúc một khó khăn ở thời đại mới, nhiều gia đình đã coi việc nuôi cha mẹ là một gánh nặng bắt buộc.
Những kế hoạch về hưu của chính phủ như Bảo hiểm xã hội và Bảo hiểm y tế ở các nước (trong đó có Việt Nam), mà những khoản bảo hiểm này được trả bằng cách cắt giảm lương, cũng là một cách đầu tư nhưng lại được áp đặt bở luật pháp. Tuy nhiên do những biến động lớn về nhân khẩu và giá cả sinh hoạt, hình thức đầu tư này không chắc chắn bảo đảm quyền lợi được hưởng của những người lao động mà chính phủ đã cam kết.
Cũng có những hình thức đầu tư về hưu độc lập khác, chẳng hạn như kế hoạch về hưu cá nhân. Thông thướng chính phủ sẽ dặc cách miễn giảm thuế cho cả người lao động và người sử dụng lao động nếu tham gia những chương trình này.
THU NHẬP TỪ NHÀ ĐẦU TƯ
Mặc dù tất cả những hình thức đầu tư trên đều được coi là đầu tư, nhóm Đ thướng tập trung vào những khoản đầu tư đem lại thu nhập liên tục trong suốt thời gian làm việc của họ. Tiêu chuẩn để trở thành một người thuộc nhóm Đ cũng là giống như tất cả những nhóm khác, đó là bạn có thể kiếm được tiền từ chính nhóm Đ hay không. Nói cách khác, tiền bạc có làm cho bạn thu nhập cho bạn hay không.
Thử xem xét một người nọ mua một căn nhà để đầu tư bằng cách cho thuê. Nếu tiền thuê nhà thu được nhiều hơn chi phí bỏ ra để duy trì căn nhà, nguồn thu nhập đó xuất phát từ nhóm Đ. Điều đó cũng tương tự như những người có thu nhập từ tiền tiết kiệm, hay lãi cổ phiếu. Như vậy tiêu chuẩn của nhóm Đ là bao nhiêm tiền bạn kiếm được từ nhóm này mà không phải làm việc trong nhóm đó.
QUỸ VỀ HƯU CỦA TÔI CÓ PHẢI LÀ MỘT HÌNH THỨC ĐẦU TƯ KHÔNG?
Bỏ tiền vào quỹ về hưu là một cách đầu tư cũng làm một việc làm khá hay. Hầu hết chúng ta đều hy vọng trở thành một nhà đầu tư khi chúng ta về hưu, thế nhưng với mục đích của quyển sách này, nhóm Đ không phải như vậy mà là những người kiếm được tiền từ những khoản đầu tư ngay trong những năm chúng ta còn làm việc. Thực tế là không phải ai cũng bỏ tiền vào quỹ hưu trí của mình. Hầu như đa số mọi người khi bỏ tiền vào quỹ hưu trí đều hy vọng một khi về hưu, số tiền trong quỹ trở lên nhiều hơn so với họ bỏ vào trong những năm qua.
Hoàn toàn có sự khác biệt giữa người tiết kiệm tiền kiểu đó, với những người, bằng cách đâùu tư đã chủ động điều khiển đồng tiền làm việc và tạo thêm thu nhập cho mình.
THẾ NHỮNG NGƯỜI MÔI GIỚI CỔ PHIẾU CÓ PHẢI LÀ NHÀ ĐẦU TƯ KHÔNG?
Nhiều người làm nghề tư vấn trong thế giới đầu tư, theo định nghĩa không phải là những người thực sự tạo ra thu nhập cho mình từ nhóm Đ.
Chẳng hạn, phần lớn các nhà môi giới cổ phiếu, địa ốc, tư vấn tài chính, chủ ngân hàng và chuyên viên kế toán, về mặt bản chất mà xét thì những người thuộc nhóm L hay T. Nghĩa là thu nhập của họ kiếm được từ công việc chuyên môn của họ, chứ không phải tài sản của họ làm chủ.
Tôi có nhiều người bạn sống bằng nghề mua bán cổ phiếu. Họ mua cổ phiếu ở giá thấp và hy vọng bán lại ở giá cao. Như vậy, thực sự họ chỉ sống bằng nghề “mu bán”, chẳng khác gì một người chủ tiệm bán lẻ, mua hàng hoá giá sỉ bán ra với giá bán lẻ. Họ vẫn phải bỏ công sức của chính họ để kiếm ra tiền. Chính vì vậy, những người thuộc nhóm T nhiều hơn người thuộc nhóm Đ.
Thế tất cả mọi người có thể trở thành nhà đầu tư không? Dĩ nhiên là có thể, nhưng điều quan trọng là phải biết sự khác nhau giữa một người kiếm thu nhập từ hoa hồng, hay tư vấn tính theo giờ hoặc trả lương, hay mua thấp bán giá cao, với một người kiếm được nhiều tiền hay tìm ra những cơ hội đầu tư béo bở.
Có một cách tìm ra một nhà tư vấn giỏi. Đó là, hãy hỏi họ bao nhiêu % thu nhập của họ kiếm được từ hoa hồng, phí tư vấn so với khoản thu nhập kiếm được từ khoản đầu tư hay những công việc kinh doanh do họ làm chủ.
Tôi được nhiều người bạn là chuyên viên kế toán tiết lộ mà không vi phạm bí mật thông tin khách hàng, nhiều người tư vấn đầu tư chuyên nghiệp hầu như có rất ít thu nhập kiếm được từ khoản đầu tư. Nói cách khác, “họ không thực hành những bài mà họ bày cho ngưới khác”.
NHỮNG ƯU ĐIỂM CỦA THU NHẬP KIẾM ĐƯỢC TỪ NHÓM Đ.
Như vậy sự khác nhau chủ yếu phân biệt nhóm Đ là những người này tập chung vào việc điều khiển đồng tiền tạo ra thêm tiền. Nếu họ thực sự giỏi về việc đó, họ có thể khiến đồng tiền làm việc cho chính họ và gia đình họ suốt hàng trăm năm.
Ngoài ưu điểm rõ ràng nhất là biết cách điểu khiển đồng tiền mà không phải mỗi sáng thức dậy đi làm, còn có nhiều ưu điểm khác về thuế mà những người làm công không có được.
Một trong những nguyên nhân làm cho người giàu càng giàu là đôi khi họ có thể kiếm được hàng trăm triệu đô mà không phải trả một đồng thuế nào một cách hợp pháp. Đó là bởi vì họ tạo ra tiền từ “cột tài sản”, chứ không phải cột “thu nhập”. Nghĩa là họ kiếm tiền như một nhà đầu tư, chứ không phải người làm công.
  Đối với những người làm việc, những người này không những bị đánh thuế cao hơn mà họ sẽ chẳng bao giờ thấy được khoản thu nhập mà thuế đã lấy đi thừ lương của họ.
TẠI SAO KHÔNG CÓ NHIỀU NGƯỜI HƠN TRỞ THÀNH NHÀ ĐẦU TƯ?
Những người nhóm Đ là những người làm việc ít. Thế thì tại sao không có nhiều người hơn trở thành nhà đầu tư? Lý do giải thích một câu hỏi đó chính là nguyên nhân tại sao không có nhiều người dám tự kinh doanh cho chính mình. Chỉ có thể tóm tắt trong một từ: “rủi ro”.
Nhiều người không thích đưa tiền họ giành dụm mà họ làm lụng cực khổ để rồi không bao giờ thấy số tiền quay trở lại với chính mình. Nhiều người rất sợ bị mất tiền, chẳng thà họ chọn không đầu tư, không đương đầu với rủi ro cho dù họ có thể kiếm được nhiều tiền đi chăng nữa.
Một tài tử điện ảnh Holywood đã từng tuyên bố: “Tôi không quan tâm đến mức lời của nhà đầu tư. Điều tôi lo lắng nhất là số tiền đầu tư có lấy lại được hay không?”.
Chính những nỗi lo sự bị mất tiền vô hình chung đã phân biệt thành bốn nhóm người:
1. Những người không dám rủi ro và không làm gì hết, chỉ chọn lối chơi an toàn và bỏ tiền vào tài khoản của ngân hàng.
2. Những người giao chuyện đầu tư cho người khác quản lý, như chuyên viên tư vấn hay nhà quản lý quỹ tương hỗ.
3. Những người thích đen đỏ.
4. Những nhà đầu tư thực thụ.
Có những sự khác nhau giữa người thích đỏ đen với một người đầu tư thực thụ. Đối với người đỏ đen, đầu tư là một trò chơi cơ hội, trong khi đó đối với người đầu tư, đó là một trò chơi đầu tư trí tuệ và đòi hỏi nhiều thủ thuật. Còn đối với người giao chuyện đầu tư cho người khác quản lý, đầu tư chỉ là một trò chới không thích học hỏi một tí nào. Đối với họ, điều quan trọng chủ yếu là phải kiếm được một chuyên viên tư vấn tài chính thật giỏi.
Trong các chương kế tiếp quyển sách này sẽ trình bày với bạn về bảy cấp bậc đầu tư khác nhau giúp cho bạn hiểu rõ hơn về vấn đề này.
RỦI RO CÓ THỂ GIẢM ĐƯỢC ĐẾN MỨC TỐI THIỂU
Một tin mừng đối với chuyện đầu tư là rủi ro có thể giảm đến mức tối thiểu, thậm chí có thể triệt tiêu hoàn toàn, và bạn có thể chuyển được rất nhiều lời hơn số vốn bỏ ra nếu như bạn rành rẽ quy tắc của cuộc chơi đó.
Nếu bạn nghe một người nào đó nói câu này, bạn có thể biết ngay người đó là một người đầu tư thực thụ: “Bao lâu tôi có thể lấy lại vốn, và mức thu nhập đem lại cho tôi thu nhập sau này sẽ là bao nhiêu sau khi tôi đã lấy lại được vốn đầu tư như ban đầu?”.
Người đầu tư thực thụ muốn biết trong bao lâu họ có thể lấy lại vốn đầu tư ban đầu, trong khi những người đầu tư vào quỹ hưu trí phải đợi nhiều năm mới có thể biết được sẽ lấy lại tiền hay không. Đó chính là sự khác nhau lớn nhất giữa một người đầu tư chuyên nghiệp với một người để giành tiền chuẩn bị cho cuộc sống về hưu của mình.
Chính nỗi sợ hãi bị mất tiền đã khiến cho hầu hết mọi người đi tìm kiếm sự đảm bảo và ổn định. Thế nhưng, nhóm Đ không phải nguy hiểm như nhiều người nghĩ. Nhóm Đ cũng như ba nhóm kia, nhưng chỉ khác ở chính những kỹ năng và người lối suy nghĩ. Những kỹ năng của nhóm Đ vẫn có thể học được nếu như bạn chụi khó bỏ thời gian chụi học hỏi.
SỰ KHÁC NHAU GIỮA KẾ HOẠCH VỀ HƯU CỦA THỜI ĐẠI CÔNG NGHIỆP TRƯỚC ĐÂY VỚI KẾ HOẠCH VỀ HƯU CỦA THỜI ĐẠI CÔNG NGHỆ THÔNG TIN HIỆN NAY.
Khi tôi còn nhỏ, người bố giàu thường khuyến khích tôi dám chấp nhận rủi ro với tiền bạc và học hỏi cách đầu tư. Người hay nói, “Nếu con muốn giàu, con phải học cách trở thành một nhà đầu tư. Hãy học cách trở thành một nhà đầu tư chuyên nghiệp”.
Khi về già, tôi đã kể lại người bố học thức của tôi những gì mà người bố kia đề nghị học cách đâu tư và kiểm soát rủi ro. Bố ruột tôi trả lời, “Ta không cần phải học cách đầu tư con ạ. Ta đang tham gia chương trình bảo hiểm của chính phủ và có một kế hoạch đầu về hưu của công đoàn giáo dục mà những nguồn bảo hiểm xã hội đó đều được đảm bảo. Vậy đâu có lý do gì ta cần phải chơi trò chơi rủi ro với tiền của mình?”
Bố ruột tôi rất tin tưởng vào kế hoạch về hưu như thế của thời đại Công nghiệp, như chương trình bảo hiểm xã hội của chính phủ cho người lao động.
Cho nên khi tôi gia nhập vào hải quân Mỹ, Người rất sung sướng. Thay vì lo lắng cho đứa con có thể bỏ mạng ở Việt Nam, Người chỉ nói, “Chỉ cần ráng trụ trogn quân đội 20 năm, con sẽ được đảm bảo phúc lợi y tế và hưu trí suốt đời”.
Mặc dù vẫn còn đang được áp dụng, những kế hoạch hưu trí như thế đã trở lên lỗi thời và lạc hậu. Quan điểm cho rằng công ty phải chụi trách nhiệm về tài chính cho cuộc sống của bạn sau khi về hưu và chính phủ sẽ chăm lo cho những nhu cầu của bạn ở tuổi về hưu thông qua chương trình bảo hiểm xã hội, là một quan niệm cũ và không còn có giá trị trong thời đại mới này.
MỌI NGƯỜI CẦN TRỞ THÀNH NHỮNG NHÀ ĐẦU TƯ
Khi chúng ta thay đổi từ kế hoạch hưu trí phúc lợi bảo đảm mà tôi gọi là kế hoạch thời Công nghiệp, kế hoạch hưu trí đóng góp bảo đảm mà tôi gọi là kế hoạch thời thông tin, hậu quả là giờ đây bạn phải tự lo chăm sóc tới mình cho tuổi về hưu của bạn. Điều không may là rất ít người nhận thấy sự thay đổi đó.
KẾ HOẠCH HƯU TRÍ Ở THỜI ĐẠI CÔNG NGHIỆP
Trong thời đại công nghiệp, một kế hoạch hưu trí phúc lợi bảo đảm quy định công ty sẽ đảm bảo cho bạn, người lao động, một khoản tiền nhất định (thường được trả hàng tháng) một khi bạn còn sống. Mọi người đều cảm thấy an toàn bởi vì những kế hoạch đó đảm bảo cho bạn một nguồn thu nhập ổn định.
KẾ HOẠCH HƯU TRÍ Ở THỜI ĐẠI THÔNG TIN
Một vài nhân vật nào đó thay đổỉ luật pháp, và các công ty giờ đây không còn chụi trách nhiệm đảm bảo tài chánh cho bạn khi bạn đến tuổi về hưu. Thay vào đó, các công ty áp dụng hình thức hưu trí đóng góp bảo đảm “Đóng góp bảo đảm ” là một thuật ngữ chỉ cho việc bạn có thể hưởng được những khoản tiền mà bạn và công ty đã đóng góp về quỹ hưu trí trong suốt thời gian bạn làm việc. Nói cách khác, nguồn thu nhập khi bạn về hưu sẽ được quyết định chủ yếu từ những khoản đã đóng góp và quỹ hưu trí trước đây. Nếu bạn và công ty không đóng góp gì hết, bạn sẽ không được khoản tiền về hưu.
Một tin mừng là trong thời đại thông tin tuổi thọ của con người đã tăng lên đáng kể. Thế nhưng, tuổi thọ của bạn có thể sẽ lâu hơn nguồn thu nhập hưu trí của bạn, và nếu quỹ hưu trí này còn không được bảo đảm an toàn do những biến động và rủi ro của thị trường tài chính.
KIỂU ĐẦU TƯ CỦA NHỮNG NGƯỜI KHÔNG PHẢI LÀ NHÀ ĐẦU TƯ
Hiện nay, thị trường chứng khoàn luôn là đầu tư câu chuyện của cả thể giới. Sở dĩ như thế là vì có nhiều đã làm sôi nổi thị trường, mà một trong những yếu tố đó chính là lực lượng những người không chuyên đang cố trở thành những nhà đầu tư trên thị trường. Con đường tài chánh của họ có thể được vẽ như thế này.
Hầu hết những người này, vốn là những người thuộc nhóm L hay T, thường có bản chất khuynh hướng thiên về sự ổn định. Điều đó giải thích tại sao họ đi tìm kiếm những công việc an toàn, những nghề nghiệp ổn định, hay bắt đầu những việc làm ăn nhỏ mà họ có thể kiểm soát được. Do sự biến động trong kế hoạch hưu trí, họ buộc phải lấn sang nhóm Đ mà ở nơi đó họ hy vọng có thể tìm thấy được “An toàn” cho những năm tháng về hưu sắp tới của mình. Điều bất hạnh là nhóm Đ không phải là nhóm nhắm tới sự an toàn, mà chính nơi đường đầu tư và chấp nhận rủi ro.
Trước hiện tượng “Di cư ồ ạt” của những người từ phía bên trái tứ đồ đến tìm sự an toàn, trên thị trường chứng khoán xuất hiện nhiều kiểu đầu tư mà bạn thường nghe như thế này.
1. “Đa dạng hoá”
- Những người đi tìm những sự an toàn rất hay dùng nhóm từ này. Tại sao vậy? Vì đó là một kiểu chiến lược đầu tư nhằm mục đích “Không bị mất tiền”. Vì đó không phải là chiến lược để thắng, cho nên những người nhóm Đ thành công hay những người giàu không hề đa dạng hoá mà họ lỗ lực tập chung bằng hết mọi cố gắng của mình.
Warren Buffet, một trong những nhà đầu tư xuất chúng của thế giới đẫ nó như thế này về kiểu ‘đạ dạng hoá’: “Chiến lược mà chùng tôi áp dụng không theo trường phái đa dạng hoá giáo đìều. Nhiều nguời phê bình chiến lược đó có nhiều rủi ro hơn những chiến lược thông thường. Chúng tôi không đồng ý với lời phê bình đó. Chúng tôi tin rằng mọi chính sách đầu tư danh mục tập chung có lựa chọn có khả năng giảm mức rủi ro rất nhiều nếu chính sách đó có thể khiến cho người đầu tư đặt vấn đề hết sức nghiêm túc như với chuyện làm ăn, mà đồng thời vẫn làm cho người đầu tư cảm thấy yên tâm đối với những khía cạnh kinh tế của danh mục trước khi anh ta quyết định mua nó”. Nói cách khác, Warren Buffet cho rằng kiểu đầu tư nhắm vào một danh mục tập chung là một chiến lược tốt hơn kiểu đa dạng hoá theo ý của ông, thay vì giản trải, sự tập trung sẽ khiến bạn suy nghĩ và hành động một cách khôn ngoan hơn, cẩn thận hơn. Bài báo cáo của ông còn đề cập tới một người đầu tư trung bình thường ưa tránh sự biến động vì họ thường đồng nhất sự biến động với rủi ro, thay vào đó, Warren Buffet đã viết, “Trong thực tế, những người đầu tư chuyên nghiệp lại thích có biến động”. Đối với hai vợ chồng tôi, để thoát khỏi sự nghèo nàn và đạt đến sự tự do hoàn toàn về tiền bạc, chúng tôi đã không đa dạng hoá mà tập chung vào một số ít khoản đầu tư của mình.
2“Cổ phiếu blue chip”
- Những người đầu tư theo kiểu chơi an toàn thường hay mua những cổ phiếu blue chip. Tại sao vậy? Bởi vì trong đầu họ luôn cho rằng những loại cổ phiều này an toàn hơn. Trong khi những công ty đó an toàn, thị trường chứng khoán lại không an toàn tí nào.
3. “Quỹ hỗ tương”
- Những người có ít kiến thức về đầu tư thường cảm thấy an toàn hơn khi đầu tư số tiền giành giụm của họ vào các quỹ hỗ tương, bởi vì họ nghĩ những nhà quản lý các quỹ này có chiến lược đầu tư giỏi hơn họ. Đối với những người không có ý định trở thành những nhà đầu tư chuyên nghiệp, đây là một cách rất khôn ngoan. Thế nhưng vấn đề ở chỗ là các quỹ hỗ tương này chưa chắc là ít rủi ro hơn. Trong thực tế, nếu xảy ra một cuộc khủng hoảng trên thị trường chứng khoàn, chúng ta vẫn có thể thấy một cuộc biến động mà tôi tuyên đoán đó là “Một cuộc khủng hoảng của thị trường quỹ hỗ tương”, mà ảnh hưởng tai hoạ của nó sẽ chẳng kém khủng khiếp như cuộc khủng hoảng đối với các thị trường tài chính khác đã từng xảy ra trong lịch sử, chẳng hạn như cuộc khủng hoảng thị trường mua bán hoa tulip vào năm 1610, cuộc khủng hoảng South Seas Bubble vào năm 1620, và cuộc khủng hoảng thị trường trái phiếu vào năm 1990.
Ngày hôm nay, thị trường đầy ắp hàng triệu người, về một bản chất là những người đi tìm kiếm sự an toàn, nhưng do áp lực của những biến động kinh tế đã khiến họ từ phía bên trái của kim tứ đồ phải “vượt rào” đi sang phía bên phải mà ở đó không hề cho phép sự tồn tại của những ý tưởng về sự an toàn, đảm bảo. Chính điều đó mới làm cho tôi cảm thấy lo lắng nhất. Nhiều người vẫn cho rằng các chương trình hưu trí mà họ đang tham gia là an toàn, nhưng thực tế lại không hề an toàn tí nào. Một khi xảy ra một cuộc sụp đổ hay khủng hoảng lớn, những kế hoạch hưu trí đó của họ sẽ tan thành mây khói. Những kế hoạch hưu trí đó của họ không an toàn như những chương trình hưu trí của những thế hệ trước.
NHỮNG BƯỚC NGOẶT THAY ĐỔI LỚN VỀ KINH TẾ ĐANG TỚI GẦN
Đã xuất hiện những dấu hiệu cho thấy có một bước ngoặt thay đổi lớn về mặt kinh tế đang tới gần. Bước ngoặt đó thường đánh dấu sự kết thúc thời đại cũ và mở rộng một kỷ nguyên mới. Ở cuối thời đại, luôn có những người tiến bộ tiên phong, nhưng cũng có người khác tiến bộ tiên phong, nhưng vẫn có nhiều người khác vẫn bám khư khư vào những quan niệm của thời đại cũ. Tôi e rằng những người con vẫn trông mong sự bảo đảm tài chính của mình vào trách nhiệm của một đại công ty hay chính phủ, họ sẽ thất vọng trong những năm tới đây. Những ý tưởng đó thuộc về thời đại công nghiệp chứ không phải thời đại thông tin.
Không ai có thể tiên đoán vào tương lai. Tôi đăng ký báo về nhiều công ty dịch vụ tin tức đầu tư. Công ty nào cũng đưa ra lời ước đoàn không giống nhau. Công ty này cho rằng tương lai gần đất sáng sủa, trong khi một công ty khác thì tiên đoán một cuộc khủng hoảng thị trường và suy thoái toàn cầu đang sắp xảy ra. Để có thể khách quan, tôi phải lắng nghe từ cả hai phía bởi vì cả hai quan điểm trái ngược đó đều có cơ sở lý luật chặt chẽ và thuyết phục. Vấn đề cần lắm bắt không phải là kiểu chơi coi bói, cố đoán những gì sẽ xảy đến trong tương lai mà tôi cần phải thông tin kịp thời ở cả hai nhóm C và Đ và chuẩn bị tinh thần đối phó với bất kỳ những gì có thể xảy ra. Một người nếu được chuẩn bị đầy đủ vẫn có khả năng phát triển tốt cho dù nền kinh tế đi theo hướng nào đi chăng nữa.
Nếu lịch sử có thể được coi là một trong những công cụ phân tích, một người thợ tới 75 tuổi sẽ trải qua một lần khủng hoàng và hai lần suy thoái kinh tế. Dĩ nhiên, bố mẹ của tôi đều đã trải qua trong thời đại của họ, nhưng thế hệ dân Mỹ trong giai đoạn cuộc chiến Việt Nam vẫn chưa hề trải qua một cuộc khủng hoảng lớn về kinh tế nào như vậy cả. Và các chuyên gia kinh tế cho rằng cứ trung bình mỗi 60 năm sẽ xảy ra một cuộc đại khủng hoảng.
Ngày nay, tất cả chúng ta cần phải quan tâm đến những vấn đề khác, chứ không phảỉ là sự bảo đảm việc làm. Tôi cho rằng điều mà chúng ta cần quan tâm chính là sự bảo đảm về tài chính lâu dài cho chính mình, và không giao khoán trách nhiệm cho công ty hay chính phủ. Thời đại đã thực sự thay đổi khi các công ty đồng loạt công bố họ sẽ không còn chụi trách nhiệm đối với cuộc sống của bạn khi bạn về hưu. Một khi các công ty đều chuyển sang kế hoạch hưu trí đóng góp bảo đảm họ đã đưa ra thông điệp là từ nay trở đi bạn phải tự lo cho chuyện về hưu của mình. Ngày hôm nay, tất cả chúng ta cần phải trở thành những nhà đầu tư khôn ngoan hơn, và cần phải cẩn thận hơn với những biến động lên xuống đến chóng mặt của thị trường tài chính. Tôi thành thực đề nghị với các bạn chẳng thà chúng ta bỏ thời gian học hỏi cách đầu tư hơn là giao tiền của mình cho người khác đầu tư giùm bạn. Nếu bạn chỉ giao tiền cho quỹ hỗ tương hay một chuyên viên tư vấn, bạn có thể phải đợi đến 65 tuổi mới biết được những người ấy có làm tốt công việc bạn giao phó hay không. Nếu như họ bết bát, bạn sé phải làm việc lại cho tới cuối cuộc đời mình. Hàng triệu người sẽ lâm vào trường hợp đó bởi vì khi ấy đã quá muộn cho họ tự đầu tư hay học hỏi cách đầu tư.
HÃY HỌC CÁCH QUIẢN LÝ RỦI RO
Luôn có cách đầu tư ít rủi ro nhưng vẫn sinh lời cao. Tất cả những gì bạn cần làm là học cách làm sao có thể thực hiện được. Điều đó không khó. Trong thực tế, cách học hỏi ấy chẳng khác gì với cách tập chạy xe đạp. Bn đầu, bạn có thể vấp ngã, té lên té xuống, nhưng dần dần sau đó bạn sẽ không bị ngã, và việc đầu tư sẽ trở thành một bản năng tự nhiên thứ hai giống như việc cưỡi xe đạp.
Vấn đề lớn nhất đối với những người thuộc nhóm bên trái của Km tứ đồ là khả năng chấp nhận rủi ro. Sở dĩ phần lớn mọi người đều trở thành nhóm L hay T là vì họ ở những nhóm đó họ có thể tránh được những rủi ro về tiền bạc. Thay vì né tránh rủi ro, tôi đề nghị các bạn hãy nên học cách kiểm soát đầu tư về tài chính.
HÃY CHẤP NHẬN RỦI RO
Điều không may là hàng triệu người trên thế giới vẫn còn dựa vào những ý tưởng vào phúc lợi hay an sinh xã hội sẽ bị rớt lại phía sau về mặt tiền bạc. Thông điệp của thời đại thông tin là tất cả chúng ta phải tự lực gánh sinh cho chính mình, phải trưởng thành trong mọi vấn đề tiền bạc cá nhân của mình.
Quan điểm “Hãy rẳng học và tìm một công việc an toàn” là một quan điểm sinh ra từ thời đại công nghiệp. Chúng ta không còn sống trong thời đại đó nữa. Thời đại đang thay đổi. Thế nhưgn vấn đề là những quan điểm của con người lại không thay đổi họ vẫn nghĩ họ có quyền được hưởng một điều gì đó. Họ vẫn cho rằng nhóm Đ không có liên quan gì đến họ cả. Họ cứ nghĩ chính phủ, đại công ty, công đoàn lao động, quỹ hỗ tương hay gia đình họ sẽ chăm sóc cho họ một khi họ không còn khả năng làm việc nữa. Tôi rất hy vọng là những suy nghĩ đó của họ sẽ đúng. Và những người như thế không phải đọc tiếp quyển sách này.
Chính vì quan tâm đến những người nhận thức được nhu cầu trở thành những nhà đầu tư đã thôi thúc tôi viết lên quyển sách này. Quyển sách viết cho những ai muốn “vượt rào” từ phía bên trái sang phía bên phải của Kim tứ đồ nhưng không biết bắt đầu bằng cách nào. Bất cứ ai cũng có thể đi hết cuộc hành trình “xé rào” ấy nếu có những kỹ năng thích hợp và một ý chí quyết định dứt khoát.
Nếu bạn đã tìm thấy con đường đi đến tự do cho chính bạn, tôi xin thật lòng chúc mừng bạn, và mong bạn hãy chia sẻ kinh nghiệm của mình với những người khác, và hướng dẫn họ nếu họ cần sự giúp đỡ của bạn. Hãy hướng dẫn những người ấy, nhưng hãy để họ tự kiếm lấy một con đường cho chính mình bởi vì có rất nhiều con đường dẫn đến sự giải thoát tự do về tài chính.
Dù cho bạn có quyết định như thế nào đi chăng nữa, mong bạn hãy nhớ cho một điều này là sự tự do về tài chính có thể đạt được miễn phí, nhưng cái giá đạt được không phải rẻ. Đối với tôi cái giá mà tôi phải trả hoàn toàn xứng đáng với sự tự do mà tôi đạt được. Một bí quyết lớn như thế này: Không cần phải có tiền hay một nền học thức cao mới có thể đạt được sự tự do về tài chính. Mà con đường đi đến sự tự do đó cũng không nhất thiết có nhiều rủi ro đâu. Thay vào đó, cái giá của sự tự do về tiền bạc chính là được tự do bằng những giấc mơ, khao khát cháy bỏng, và một khả năng thắng được những nỗi thất vọng sẽ xảy đến với chúng ta trong cuộc hành trình. Bạn có sẵn sàng chấp nhận trả cái giá đó không?
Một người bố của tôi đã giảm chấp nhận trả cái giá đó, trong khi người kia không giám nhưng lại trả một cái giá khác hẳn hoàn toàn.